6. CƠ CHẾ TÁC DỤNG CỦA CÁC THUỐC LỢI NIỆU
6.1. Thuốc lợi niệu thẩm thấu là chất được lọc nhưng không được hoặc ít được tái
hấp thu nên làm cho áp suất thẩm thấu trong ống thận cao, giữ nước lại trong lòng ống
nên làm tăng lượng nước tiểu. Ví dụ, mannitol, sucrose.
6.2. Thuốc lợi niệu có tác dụng tại quai Henle (ví dụ furosemid): Ức chế tái hấp thu
clo và natri ở nhánh lên của quai Henle, ngoài ra cũng có tác dụng ở ống lượn gần. Do
nồng độ clo và natri trong nước tiểu cao nên áp suất thẩm thấu trong ống thận cao, giữ
nước lại trong lòng ống nên làm tăng lượng nước tiểu.
6.3. Thuốc lợi niệu kháng aldosteron (ví dụ, spironolacton). Thuốc cạnh tranh với
aldosteron ở ống lượn xa và ống góp, ức chế trao đổi natri – kali ở ống thận, làm giảm
tái hấp thu natri và giảm đào thải kali.
6.4. Thuốc lợi niệu kháng carbonic anhydrase (ví dụ acetazolamid) gây lợi niệu,
tăng đào thải bicarbonat, ít đào thải natri và kali và làm nước tiểu kiềm.
15 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 98 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài liệu Sinh lý bài tiết nước tiểu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
214
BÀI 12. SINH LÝ BÀI TIẾT NƯỚC TIỂU
Mục tiêu học tập: Sau khi học xong bài này, sinh viên có khả năng:
1. Trình bày được quá trình lọc ở cầu thận.
2. Trình bày được hiện tượng tái hấp thu và bài tiết ở từng phần ống thận.
3. Trình bày được các yếu tố ảnh hưởng đến sự tạo thành nước tiểu.
3. Nêu được nguyên tắc, ýư nghĩa của một số phương pháp thăm dò chức năng thận.
Thận có nhiều chức năng quan trọng. Thận tham gia điều hoà hằng tính nội môi bằng
cách điều hoà thể tích và thành phần dịch ngoại bào và điều hoà thăng bằng acid –
base thông qua chức năng bài tiết nước tiểu. Thận còn có vai trò nội tiết vì bài tiết
hormon renin tham gia điều hoà huyết áp và sản xuất erythropoietin có tác dụng làm
tuỷ xương tăng sản xuất hồng cầu khi oxy mô giảm. Thận còn tham gia vào quá trình
chuyển hoá vitamin D3 và chuyển hoá glucose từ các nguồn không phải hydrat carbon
trong trường hợp bị đói ăn lâu ngày và bị nhiễm acid hô hấp mạn tính.
Quá trình bài tiết nước tiểu bao gồm: Lọc, tái hấp thu, bài tiết và bài xuất (hình 12.2).
1. CẤU TRÚC - CHỨC NĂNG CỦA THẬN
1.1. Đơn vị thận (nephron). Người bình thường có hai thận nằm ở phía sau trên
khoang bụng. Mỗi thận nặng khoảng 150 gam và có khoảng 1 triệu đơn vị chức năng
của thận là nephron . Chỉ cần 25% số nephron hoạt động bình thường cũng đảm bảo
được chức năng của thận. Mỗi nephron gồm cầu thận và các ống thận (hình 12.1).
Hình 12.1. Sơ đồ các thành phần của nephron.
215
Hình 12.2. Quá trình tạo nước tiểu
1.1.1. Cầu thận (hình 12.3) gồm:
- Bọc Bowman là một túi lõm trong có búi mạch. Bọc Bowman thông với ống lượn
gần.
- Búi mạch gồm các mao mạch (khoảng 20 - 40) xuất phát từ tiểu động mạch đến cầu
thận và ra khỏi bọc Bowman bằng tiểu động mạch đi. Tiểu động mạch đi có đường
kính nhỏ hơn của tiểu động mạch đến. Biểu mô cầu thận dẹt, dày khoảng 4 micromét
(1 m = 10-6 m).
Hình 12.3. Cấu tạo màng lọc cầu thận.
216
1.1.2. Các ống thận gồm:
- Ống lượn gần là đoạn tiếp nối với bọc Bowman, có một đoạn cong và một đoạn
thẳng (part recta).
- Quai Henle là phần tiếp theo ống lượn gần. Nhánh xuống của quai Henle mảnh,
đoạn đầu nhánh lên mảnh và đoạn cuối dày.
- Ống lượn xa tiếp nối quai Henle
- Ống góp.
Chiều dài một nephron là 35 – 50 mm. Tổng chiều dài của toàn bộ nephron của hai thận
có thể lên tới 70 - 100 km và tổng diện tích mặt trong là 5 – 8 m2.
Người ta chia nephron thành 2 loại:
- Nephron vỏ: Có cầu thận nằm ở phần vỏ thận, có quai Henle ngắn và cắm vào phần
ngoài của tuỷ thận. Khoảng 85% số nephron là nephron loại này.
- Nephron cận tuỷ: Có cầu thận nằm ở nơi phần vỏ tiếp giáp với phần tuỷ thận, có
quai Henle dài và cắm sâu vào vùng tuỷ thận. Các nephron này rất quan trọng đối với
việc cô đặc nước tiểu nhờ hệ thống nhân nồng độ ngược dòng.
1.2. Mạch máu thận (hình 12.2). Động mạch thận ngắn và xuất phát từ động mạch
chủ, chia nhánh dần và nhánh nhỏ nhất chia thành các tiểu động mạch đến. Thận có
hai mạng mao mạch nối tiếp. Mạng thứ nhất nằm giữa tiểu động mạch đến và tiểu
động mạch đi (tức là búi mạch nằm trong bọc Bowman). Mạng thứ hai xuất phát từ
tiểu động mạch đi, tạo thành mạng mao mạch bao quanh các ống thận. Mạng thứ nhất
có áp suất cao có ảnh hưởng lên sự cấp máu cho vùng vỏ và quyết định áp suất lọc.
Mạng thứ hai có chức năng dinh dưỡng và trao đổi chất. Ở người lớn bình thường, áp
suất máu trong tiểu động mạch đến vào khoảng 100 mmHg, trong mao mạch cầu thận
là 60 mmHg, trong mao mạch quanh ống thận chỉ còn 13 mmHg.
Mỗi tiểu động mạch đến tạo thành một búi mao mạch nằm trong bọc Bowman. Nội
mạc mao mạch là nội mạc có cửa sổ và có màng đáy không hoàn toàn, do đó mao
mạch có sức cản yếu (dễ cho huyết tương đi qua) và có tác dụng như một màng sàng
lọc (giữ lại các protein và huyết cầu). Các mao mạch trong bọc Bowman hợp lại và tạo
thành tiểu động mạch đi. Sau khi ra khỏi bọc Bowman một đoạn ngắn, các tiểu động
mạch đi lại phân chia và tạo thành các mao mạch bao quanh nhiều đoạn của các ống
thận. Các mao mạch quanh ống thận xuất phát từ tiểu động mạch đi của nephron vỏ
nối thông với mao mạch của nephron khác nhau, tạo thành một mạng lưới mao mạch
có chức năng hấp thu nước và các chất hoà tan khuếch tán từ các ống thận. Các mao
mạch thận có tính thấm cao (hơn mao mạch cơ xương tới 50 lần) nên sự trao đổi chất ở
thận xảy ra rất nhanh. Các tiểu động mạch đi của các nephron tuỷ tạo thành các mạch
thẳng (vasa recta) chạy theo quai Henle vào tuỷ thận rồi lại quay lại vùng cầu thận.
Trên đường đi, các mạch này tạo nhiều mạng mao mạch bao quanh quai Henle. Tĩnh
mạch thận được tạo thành từ các mao mạch quanh ống thận, ra khỏi thận ở rốn thận và
đổ vào tĩnh mạch chủ. Giữa các tĩnh mạch có nhiều chỗ nối thông nhau.
1.3. Cấp máu cho thận.
Mỗi phút có khoảng 1200 ml máu tới thận (420 ml/100 gam mô/phút). Lúc nghỉ ngơi,
lưu lượng máu thận chiếm khoảng 20% lưu lượng tim. Khi vận động, lượng máu tới
217
thận giảm do mạch thận co lại và máu tới cơ vân tăng. Ngoài việc cung cấp oxy và
chất dinh dưỡng cho thận, máu tới thận còn cần thiết để đảm bảo quá trình lọc nhằm
đào thải các sản phẩm chuyển hoá. Thận tiêu thụ nhiều oxy chỉ sau tim (xấp xỉ
6 ml/100 gam/ phút). Mức tiêu thụ oxy của thận thay đổi tỷ lệ thuận với lưu lượng máu
thận, liên quan chặt chẽ với sự hấp thu tích cực natri, đào thải hydro. Lưu lượng máu
thận giảm làm giảm phân số lọc dẫn đến giảm lượng natriclorua (NaCl) được lọc và
được tái hấp thu. Mức độ tiêu thụ oxy của thận chủ yếu phụ thuộc vào tái hấp thu natri
ở ống thận nên khi máu tới thận giảm thì nhu cầu oxy cũng bị giảm theo. Lượng máu
đến vùng vỏ và đến vùng tuỷ khác nhau. Phần tuỷ chiếm 20 – 25% trọng lượng thận
còn vùng vỏ chỉ nhận khoảng 8 % lượng máu tới thận.
1.4. Bộ máy cận cầu thận. Các ống lượn xa của mỗi nephron đi qua góc giữa tiểu
động mạch đến và tiểu động mạch đi. Tại nơi tiếp xúc với thành mạch, các tế bào biểu
mô của ống lượn xa biến đổi cấu trúc, dày hơn ở chỗ khác, tạo thành macula densa.
Các tế bào của macula densa có chức năng bài tiết về phía động mạch đến. Ngoài ra, ở
chỗ tiếp xúc với macula densa, các tế bào cơ trơn ở thành tiểu động mạch đến và tiểu
động mạch đi lại nở to và chứa các hạt renin ở dạng chưa hoạt động. Các tế bào này
được gọi là tế bào cận cầu thận. Macula densa và các tế bào cận cầu thận tạo thành bộ
máy cận cầu thận. Đây là các tế bào được biệt hoá, vừa có chức năng nhận cảm vừa có
chức năng bài tiết các chất vào máu động mạch đến và đi khỏi cầu thận (hình 12.4).
Hình 12.4. Cấu trúc bộ máy cận cầu thận.
1.5. Thần kinh chi phối thận. Hệ thần kinh giao cảm có các tận cùng chi phối lớp cơ
của mạch máu thận nên tham gia điều hoà lưu lượng tuần hoàn thận. Ở thận không có
sợi phó giao cảm.
2. LỌC Ở CẦU THẬN
218
2.1. Màng lọc ở cầu thận (hình 12.3). Dịch từ trong lòng mạch đi vào trong bọc
Bowman phải qua màng lọc gồm ba lớp: (1) Lớp tế bào nội mô mao mạch; trên tế bào
này có những lỗ thủng (fenestra) có đường kính là 160
o
A; (2) Màng đáy, là một mạng
lưới sợi collagen và proteoglycan, có các lỗ nhỏ đường kính 110
o
A , tích điện âm và (3)
lớp tế bào biểu mô (lá trong) của bao Bowman là một lớp tế bào biểu mô có chân, giữa
các tua nhỏ có các khe nhỏ có đường kính khoảng 70 - 75
o
A . Màng lọc là một màng có
tính thấm chọn lọc rất cao. Những chất có đường kính < 70
o
A (trọng lượng phân tử
15.000 Dalton) đi qua được màng; những chất có đường kính và có trọng lượng phân
tử lớn hơn 80.000 Dalton như globulin không đi qua được màng. Các phân tử có kích
thước trung gian mà mang điện tích âm (ví dụ, albumin) khó đi qua màng hơn là các
phân tử không mang điện tích. Các chất gắn với protein không qua được màng. Các
chất bám vào màng sẽ bị thực bào.
2.2. Áp suất lọc. Nước tiểu trong bọc Bowman (được gọi là nước tiểu đầu) có thành
phần các chất hoà tan giống như của huyết tương, trừ các chất hoà tan có phân tử
lượng lớn. Nước tiểu đầu được hình thành nhờ quá trình lọc huyết tương ở tiểu cầu
thận. Quá trình lọc là quá trình thụ động, phụ thuộc vào các áp suất. Cụ thể là:
2.1.1. Các áp suất trong mạch máu:
- Áp suất thuỷ tĩnh (PH) có tác dụng đẩy nước và các chất hoà tan ra khỏi mạch. Bình
thường, PH là 60 mm Hg ở đầu vào.
- Áp suất keo của huyết tương (PK) có tác dụng giữ các chất hoà tan và nước. PK là 28
mmHg (ở đầu vào) và 34 mmHg (ở đầu ra), trung bình là 32 mmHg.
2.2.2. Các áp suất trong bọc Bowman: Áp suất keo của bọc (PKB) có tác dụng kéo
nước vào bọc, áp suất thuỷ tĩnh của bọc (PB) có tác dụng cản nước và các chất hoà tan
đi vào bọc. Bình thường, PKB bằng 0 (protein không qua được mao mạch để vào bọc
Bowman); PB bằng 18 mmHg.
Như vậy, quá trình lọc phụ thuộc vào sự chênh lệch giữa các yếu tố có tác dụng đẩy
nước ra khỏi mạch máu (PH), yếu tố kéo nước vào bọc Bowman (PKB) và các yếu tố
giữ nước lại trong mạch (PK), yếu tố cản nước vào bọc Bowman (PB). Sự chênh lệch
về áp suất này tạo thành áp suất lọc ( Filtration Pressure PL):
PL = PH – (PK + PB)
Thay các trị số cụ thể vào công thức trên, ta có:
PL = 60 – (32 + 18) = 60 – 50 = 10 mmHg
Như vậy để lọc được thì PL=10 mmHg, nếu PL<10 mmHg thì sẽ gây thiểu niệu, PL=0
thì vô niệu.
2.3. Các chỉ số đánh giá chức năng lọc của thận
2.3.1. Hệ số lọc (Filtration coeficient, KL) của cầu thận phụ thuộc vào diện tích của
mao mạch và tính thấm của màng lọc. Hệ số lọc được biểu thị bằng ml/phút/mmHg.
Tổng diện tích mao mạch thận vào khoảng 1,6 m2, trong đó 2 – 3% có vai trò lọc; như
vậy diện tích lọc là 320 – 480 cm2. Trị số bình thường là 12,5 ml/phút/ mmHg, cao
hơn ở mao mạch cơ vân 50 – 100 lần.
219
2.3.2. Lưu lượng lọc cầu thận (Glomerular Filtration Rate, GFR) là số ml dịch lọc
được tạo thành trong một phút; được tính bằng tích của hệ số lọc nhân với áp lực lọc
của cầu thận. Mỗi ngày có khoảng 180 lít dịch được lọc ở cầu thận, lớn hơn nhiều so
với lượng dịch được lọc ở các mao mạch vòng đại tuần hoàn (20 lít/ngày). Bình
thường, người lớn có diện tích thân thể khoảng 1,7 m2 có GFR = 12,5 x 10 = 125
ml/phút.
2.3.3. Phân số lọc của cầu thận (Filtration fraction, FF) là tỷ số % giữa lưu lượng dịch
lọc (ml) và lượng huyết tương qua thận (ml) trong một phút. Bình thường, tỷ số này
bằng 19-21% tức là trong một phút có khoảng 20% lượng huyết tương qua thận được
lọc vào bọc Bowman.
FF = 125 ml/650 ml = 19% hoặc 1/5
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng lên quá trình lọc.
Mọi nguyên nhân làm thay đổi một hoặc nhiều áp suất dẫn đến thay đổi áp suất lọc sẽ
dẫn đến làm thay đổi lượng nước tiểu đầu.
2.4.1. Lưu lượng máu thận. Lưu lượng máu tới thận tăng làm tăng áp suất mao mạch
cầu thận do đó làm tăng phân số lọc. Nếu lưu lượng máu qua thận bình thường thì có
khoảng 20% huyết tương được lọc khiến cho nồng độ protein huyết tương trong tiểu
động mạch đi tăng và cản trở sự lọc. Lượng máu qua thận tăng sẽ bù cho lượng huyết
tương được lọc nên nồng độ protein và áp suất keo không thay đổi mấy. Như vậy,
ngay cả khi áp suất mao mạch cầu thận không đổi thì lưu lượng máu qua thận tăng làm
lưu lượng lọc tăng. Lưu lượng máu thận phụ thuộc huyết áp động mạch vòng đại tuần
hoàn, có nghĩa là phụ thuộc vào thể tích máu toàn thân, vào hoạt động của tim. Nếu
mất máu hoặc suy tuần hoàn, huyết áp toàn thân thấp thì huyết áp động mạch thận
cũng thấp làm áp suất lọc giảm, thận lọc ít (thiểu niệu) hoặc vô niệu nếu áp suất lọc
bằng 0. Ngược lại, huyết áp tăng cao thì lượng nước tiểu cũng tăng (lợi tiểu do huyết
áp).
2.4.2. Áp suất keo của huyết tương. Áp suất keo trong huyết tương giảm làm áp suất
lọc tăng. Nồng độ protein trong máu giảm quá thấp gây phù (phù dinh dưỡng).
2.4.3. Ảnh hưởng của co tiểu động mạch đến. Co tiểu động mạch đến làm giảm
lượng máu đến thận và làm giảm áp suất trong mao mạch cầu thận nên làm giảm lưu
lượng lọc. Giãn tiểu động mạch đến gây tác dụng ngược lại
2.4.4. Ảnh hưởng của co tiểu động mạch đi. Co tiểu động mạch đi cản trở máu ra
khỏi mao mạch nên làm tăng áp suất mao mạch cầu thận. Nếu co nhẹ thì làm tăng áp
suất lọc. Nếu co mạnh, huyết tương bị giữ lại một thời gian dài trong cầu thận do vậy
huyết tương được lọc nhiều và không được bù nên áp suất keo tăng, kết quả là lưu
lượng lọc giảm mặc dù áp suất trong mao mạch thận vẫn cao.
2.4.5. Ngoài ra, lưu lượng máu tới thận chịu ảnh hưởng của các yếu tố sau:
2.4.5.1. Cơ chế tự điều hoà huyết áp tại thận. Cơ chế tự điều hoà này chỉ xảy ra ở thận
khi huyết áp trung bình trong động mạch thấp hơn 70 mmHg nhằm tự điều hoà phân
số lọc. Cơ chế này xảy ra ở bộ máy (phức hợp) cạnh cầu thận nên vẫn còn ở thận bị cắt
bỏ dây thần kinh, ở thận cô lập, thận được ghép, ở người bị cắt bỏ tuỷ thượng thận.
Khi lưu lượng lọc giảm thấp, sự tái hấp thu natri và clo ở quai Henle tăng, làm nồng độ
các ion này ở macula densa giảm. Các tế bào macula densa phát tín hiệu làm giãn tiểu
220
động mạch đến, máu đến cầu thận nhiều, lưu lượng lọc tăng lên. Cơ chế này cũng giúp
cho điều hòa lưu lượng máu thận. Đồng thời, do natri và clo ở macula densa giảm, các
tế bào cạnh cầu thận giải phóng renin. Renin xúc tác quá trình tạo angiotensin II là
chất có tác dụng làm co tiểu động mạch đi, kết quả cũng làm tăng áp suất mao mạch
thận và tăng lưu lượng lọc. Giãn tiểu động mạch đến và co tiểu động mạch đi xảy ra
đồng thời, góp phần duy trì lưu lượng lọc ở mức không đổi trong phạm vi huyết áp
động mạch 75 – 160 mmHg.
2.4.5.2. Thần kinh giao cảm. Thần kinh giao cảm chi phối tiểu động mạch đến, tiểu
động mạch đi và một phần của ống thận. Kích thích nhẹ giao cảm thận không gây tác
dụng vì cơ chế tự điều hòa mạnh hơn kích thích thần kinh. Kích thích rất mạnh giao
cảm thận làm co rất mạnh các tiểu động mạch đến và lưu lượng lọc có thể bằng 0. Nếu
kích thích vẫn kéo dài thì lưu lượng lọc dần dần trở về mức bình thường do lượng
noradrenalin được sợi giao cảm bài tiết giảm, do tác dụng của các hormon và do sự
thay đổi nồng độ các ion trong thận.
2.4.5.3. Hormon
- Các hormon gây co mạch do đó làm giảm máu tới thận và giảm lưu lượng lọc cầu
thận: Adrenalin, noradrenalin, angiotensin II, adenosin. Khi bị mất máu, các hormon
này làm giảm lượng máu tới thận nhằm giữ lại nước cho cơ thể. Noradrenalin làm co
mạnh cả tiểu động mạch đi và tiểu động mạch đến. Kích thích hệ giao cảm làm giải
phóng noradrenalin và angiotensin II, gây co mạch. Với nồng độ thấp, angiotensin II
chủ yếu gây co tiểu động mạch đi còn với nồng độ cao thì làm co cả tiểu động mạch
đến và tiểu động mạch đi.
- Các hormon gây giãn mạch do đó làm tăng máu tới thận và tăng lưu lượng lọc cầu
thận: Các prostaglandin PGE2 và prostacyclin (PGI2) có tác dụng tăng lưu lượng máu
do làm giãn tiểu động mạch đi và tiểu động mạch đến. Các chất này chỉ hoạt động
trong trường hợp bất thường.
2.4.5.3. Cân bằng chức năng cầu thận – ống thận. Ở thận có cơ chế nội tại đảm bảo
cho sự tái hấp thu chất (chủ yếu là natri) ở ống thận được điều chỉnh phù hợp với sự
thay đổi lưu lượng lọc cầu thận nhằm đảm bảo thể tích dịch ngoại bào. Khi thể tích
dịch giảm, ống lượn gần tăng tái hấp thu natri và nước.
2.5. Kết quả của quá trình lọc ở cầu thận. Dịch lọc từ huyết tương vào trong bọc
Bowman được gọi là nước tiểu đầu. Trong nước tiểu đầu không có các chất có phân tử
lượng trên 80.000, không có các thành phần hữu hình của máu. Dịch lọc đẳng trương
so với huyết tương và có pH bằng pH của huyết tương. Các protein phân tử lượng thấp
có thể đi qua màng lọc, nhưng rất ít (chỉ bằng 1/240 lượng protein huyết tương). Do có
sự chênh lệch về nồng độ protein giữa huyết tương và dịch lọc (chênh lệch điện tích
âm) nên trong dịch lọc sẽ có nồng độ ion clo và bicarbonat (HCO3
- ) cao hơn 5% so
với huyết tương để giữ cân bằng về điện tích (cân bằng Donnan). Các thành phần hoà
tan khác trong huyết tương và dịch lọc có nồng độ ngang nhau. Bình thường, lượng
dịch được lọc trong một ngày trung bình là 170 – 180 lít.
3.TÁI HẤP THU VÀ BÀI TIẾT Ở ỐNG THẬN
3.1. Tái hấp thu và bài tiết ở ống lượn gần
Trong 24 giờ có khoảng 170 –180 lít huyết tương được lọc nhưng chỉ có 1,2 đến 1,5 lít
nước tiểu được thải. Như vậy, hơn 99% lượng nước và các chất đã được tái hấp thu ở
221
các ống thận. Có những chất được tái hấp thu hoàn toàn, có những chất được tái hấp
thu một phần, có những chất không được tái hấp thu. Quá trình tái hấp thu diễn ra trên
toàn bộ chiều dài của ống thận. Tại ống lượn gần, 70-85% natri, clo, bicarbonat, nước;
hầu như toàn bộ ion kali, mono acid phosphat (HPO4
2-) và các acid amin trong nước
tiểu đầu được tái hấp thu.
3.1.1. Tái hấp thu ion natri. Natri được tái hấp thu ở ống lượn gần bằng cơ chế phức
tạp, vừa tích cực, vừa thụ động. Thoạt tiên, ở đỉnh tế bào, natri được vận chuyển theo
cơ chế đồng vận chuyển (khuếch tán được thuận hoá) cùng với glucose hoặc acid amin
vào trong tế bào ống lượn gần. Sau đó, natri được vận chuyển qua màng đáy vào
khoảng kẽ nhờ bơm Na+ - K+ - ATPase (vận chuyển tích cực). Nhờ vậy, nồng độ natri
trong tế bào thấp và natri trong lòng ống lại đi vào trong tế bào nhờ cơ chế thụ động.
Dòng ion này được duy trì nhờ mức chênh lệch điện hoá cao của natri giữa lòng ống
và tế bào và chính sự chênh lệch này huy động các “chất mang” đưa ion hydro vào
lòng ống và vận chuyển glucose và acid amin vào tế bào. Khoảng 67% natri được tái
hấp thu ở ống luợn gần là theo cơ chế này. Số natri còn lại được tái hấp thu thụ động
qua khoảng kẽ giữa các tế bào ống lượn gần và vào khoảng kẽ do khuếch tán theo bậc
thang điện hoá và đi theo nước.
3.1.2. Tái hấp thu glucose: Glucose chỉ đuợc tái hấp thu ở ống lượn gần. Khi nồng độ
glucose máu thấp hơn 1,8 gam/lít, glucose được tái hấp thu hoàn toàn theo cơ chế vận
chuyển tích cực thứ phát ở ống lượn gần (đồng vận chuyển với natri nhờ chất mang)
và có giới hạn. Mức glucose máu 1,8 gam/lít được gọi là “ngưỡng glucose của thận”.
Nồng độ glucose máu tăng thì thận tăng tái hấp thu nhưng khả năng này (Tm: Transit
maxima) cũng có giới hạn nên khi nồng độ glucose máu cao hơn ngưỡng glucose của
thận thì glucose không được tái hấp thu hoàn toàn và một phần glucose sẽ bị đào thải
qua nước tiểu.
3.1.3. Tái hấp thu protein và acid amin: Protein phân tử lượng nhỏ và acid amin được
tái hấp thu hoàn toàn ở ống lượn gần theo cơ chế vận chuyển tích cực. Protein được
chuyển vào trong tế bào ống thận theo cơ chế "ẩm bào". Các protein trong "túi" bị các
enzym thuỷ phân thành acid amin. Các acid amin này được vận chuyển qua màng đáy
vào dịch gian bào theo cơ chế khuếch tán có chất mang. Các acid amin tự do trong
lòng ống lượn được vận chuyển tích cực nhờ protein mang đặc hiệu qua màng. Mỗi
ngày, thận tái hấp thu tới 30 g protein.
3.1.4. Tái hấp thu ion bicarbonat (hình 12.5)
Gian bào Tế bào Lòng ống
Na+
HCO3
-
Na+
HCO3
- H+
H2O + CO2
CA H2CO3
NaHCO3
Na+ HCO3
-
H2CO3
CO2 H2O
Hình 12.5. Sự tái hấp thu ion bicarbonat (HCO3
-)
222
Trong 24 giờ có 4000 mEq ion bicarbonat bị lọc theo dịch lọc nhưng chỉ có 1 - 2 mEq
ion này bị thải ra ngoài và có tới 99,9% bicarbonat được tái hấp thu. Ion bicarbonat
được tái hấp thu chủ yếu ở ống lượn gần, một phần ở ống lượn xa theo cơ chế vận
chuyển tích cực, có liên quan chặt chẽ với enzym carbonic anhydrase (CA). Một phần
ion bicarbonat được tái hấp thu theo cơ chế khuếch tán thụ động.
Trong lòng ống lượn gần xảy ra phản ứng:
HCO3
- + H+ H2CO3
CO2 + H2O.
CO2 khuếch tán vào trong tế bào ống lượn gần và kết hợp với nước, tạo thành H2CO3
dưới tác dụng của carbonic anhydrase, H2CO3 phân ly thành ion hydro (H
+) và ion
bicarbonat (HCO3
-).
CO2 + H2O
CA H2CO3 HCO3
- + H+.
Ion hydro được vận chuyển tích cực vào lòng ống lượn còn ion bicarbonat được
chuyển vào dịch gian bào cùng với natri. Như vậy, ion bicarbonat được tái hấp thu
theo cơ chế vận chuyển tích cực thông qua sự khuếch tán của CO2 được tạo thành từ
ion bicarbonat ở lòng ống.
3.1.5. Tái hấp thu kali, clo và một số ion khác: Ion kali được tái hấp thu hoàn toàn ở
ống lượn gần theo cơ chế vận chuyển tích cực. Ion clo được tái hấp thu theo bậc thang
điện tích. Một số gốc sulphat, phosphat, nitrat... được tái hấp thu theo cơ chế vận
chuyển tích cực.
3.1.6. Tái hấp thu urê: Nước được tái hấp thu làm cho nồng độ urê trong ống lượn
gần trở nên cao hơn nồng độ urê trong dịch gian bào. Vì vậy, urê khuếch tán (tới 50-
60%) vào dịch kẽ, rồi vào máu theo bậc thang nồng độ.
3.1.7. Tái hấp thu nước: Tái hấp thu nước là hậu quả của tái hấp thu các chất có lực
thẩm thấu cao: Natri, kali, clo, bicarbonat... để duy trì cân bằng áp lực thẩm thấu.
75 – 89% nước do cầu thận lọc được tái hấp thu ở ống lượn gần. Sự tái hấp thu nước ở
ống lượn gần không làm thay đổi áp suất thẩm thấu. Nước tiểu đi khỏi ống lượn gần là
đẳng trương với huyết tương.
3.1.8. Bài tiết creatinin. Creatinin được lọc ở cầu thận và không được tái hấp thu. Hơn
nữa, tế bào ống lượn gần còn bài tiết creatinin nên nồng độ chất này cao trong nước
tiểu.
3.2. Trao đổi chất ở quai Henle
Quai Henle gồm nhánh xuống và nhánh lên có cấu tạo khác nhau. Nhánh xuống và
phần đầu nhánh lên mỏng; phần cuối nhánh lên dày. Nhánh xuống cho nước và urê
qua, nhưng lại không cho natri thấm qua. Nhánh lên quai Henle tái hấp thu ion natri
(phần đầu tái hấp thu thụ động, phần cuối tái hấp thu tích cực) mà không tái hấp thu
nước do đó làm dịch gian bào quanh quai Henle rất ưu trương, nhất là vùng chóp quai
Henle. Nhánh xuống đi vào vùng có áp lực thẩm thấu cao, nên nước được tái hấp thu
thụ động từ lòng ống vào dịch kẽ rồi vào mạch máu. Vai trò của urê ở đây là làm tăng
độ thẩm thấu ở nhánh xuống của quai Henle nên làm tăng tái hấp thu nước và làm tăng
nồng độ NaCl ở trong lòng quai.
Do hiện tượng trên, nước tiểu đi vào quai Henle là đẳng trương, nhưng càng đi xuống
quai Henle thì càng ưu trương và ở chóp quai là ưu trương nhất. Chính sự ưu trương
223
này làm cho natri được tăng tái hấp thu ở nhánh lên. Do natri được tái hấp thu ở nhánh
lên nên độ ưu trương của nước tiểu giảm dần, trở nên đẳng trương, rồi trở thành nhược
trương khi đến phần cuối của nhánh lên. Đến đầu ống lượn xa nước tiểu rất nhược
trương. Khả năng tái hấp thu của quai Henle rất lớn: Tái hấp thu tới 25% natri và
15% nước. Người ta gọi hiện tượng này là hiện tượng “ nhân nồng độ ngược dòng”.
15 – 20% natri được tái hấp thu tích cực ở đoạn dày của quai Henle. Lượng nước được
tái hấp thu ở quai Henle chỉ vào khoảng 15% lượng nước đã được lọc.
3.3. Tái hấp thu và bài tiết ở ống lượn xa
Ở ống lượn xa có sự tái hấp thu một số chất từ dịch lọc vào máu và bài tiết một số chất
vào nước tiểu để được đào thải ra ngoài. Tái hấp thu và bài tiết ở ống lượn xa phụ
thuộc vào nhu cầu của cơ thể.
3.3.1. Tái hấp thu ion natri: Tái hấp thu natri ở ống lượn xa theo cơ chế vận chuyển
tích cực, chịu tác dụng của aldosteron. Aldosteron làm tăng tái hấp thu natri đồng thời
làm tăng bài tiết ion kali. Cơ chế tác dụng của aldosteron là làm hoạt hoá hệ gen dẫn
đến tăng tổng hợp protein ở tế bào ống lượn xa. Protein được tổng hợp là protein mang
và protein enzym tham gia vào sự vận chuyển tích cực ion natri và ion kali ở ống lượn
xa. Khoảng 5% natri được tái hấp thu ở ống lượn xa.
3.3.2. Tái hấp thu ion bicarbonat: Ion bicarbonat được tái hấp thu theo cơ chế như ở
ống lượn gần. Ở ống lượn xa, tái hấp thu bicarbonat quan hệ chặt chẽ với sự đào thải
ion hydro.
3.3.3. Tái hấp thu nước: Nước tiểu đến ống lượn xa là dịch nhược trương. Trung bình
cứ một phút có 20 ml nước tiểu qua ống lượn xa; trong đó chỉ cần 2ml đã đủ để hoà
tan các chất có trong nước tiểu. Số còn lại 18ml không tham gia vào hoà tan vật chất.
Phần nước này (được gọi là nước "không tham gia thẩm thấu”) sẽ được tái hấp thu chủ
yếu ở ống lượn xa và một phần ở ống góp. Nước ở ống lượn xa được tái hấp thu theo
cơ chế chủ động nhờ tác dụng của hormon chống lợi niệu (Antidiuretic Hormone -
ADH). ADH làm tăng tái hấp thu nước ở ống lượn xa và phần đầu ống góp. Cơ chế tác
dụng của ADH là thông qua AMP vòng, hoạt hoá enzym hyaluronidase trong phản
ứng thuỷ phân acid hyaluronic để mở rộng lỗ màng trong quá trình vận chuyển nước.
Nhờ cơ chế tái hấp thu nước nên nước tiểu được cô đặc lại khi qua ống lượn xa và ống
góp.
3.3.4. Bài tiết ion hydro (hình 12.6).
Trong lúc pH máu là 7,36 -7,40 thì pH niệu là 4,5- 6,0 nghĩa là nước tiểu acid hơn rất
nhiều so với máu. Sở dĩ như vậy là vì ống thận đã bài tiết một lượng ion hydro vào
lòng ống. Quá trình này xảy ra như sau: Quá trình chuyển hoá tế bào tạo ra nhiều CO2.
CO2 khuếch tán vào máu rồi vào tế bào ống lượn. Trong tế bào xảy ra phản ứng
.HCOHCOHOHCO 332
CA
22
Ion hydro được vận chuyển qua màng tế bào vào lòng ống lượn, còn natri được tái hấp
thu đồng thời vào máu. Trong ống lượn ion hydro kết hợp với ion mono acid phosphat,
với ammoni, với các gốc acid hữu cơ yếu hoặc với các gốc khác để được thải ra ngoài.
Ion hydro còn kết hợp với ion bicarbonat để tạo ra H2CO3 và H2CO3 lại phân ly thành
CO2 và H2O. CO2 được vận chuyển vào trong tế bào để tạo ra ion bicarbonat rồi được
hấp thu vào máu.
224
Gian bào Tế bào Lòng ống
Na+
HCO3
-
Na+
HCO3
- H+
H2O + CO2
CA
H2CO3
Na2HPO4
Na+ NaHPO4
-
NaH2PO4
Hình 12.6. Bài tiết ion hydro
3.3.5. Bài tiết ammoni (NH3) (hình 12.7)
NH3 được tạo thành ở ống lượn xa chủ yếu do glutamin bị khử amin dưới tác dụng của
glutaminase. NH3 dễ dàng khuếch tán qua màng tế bào vào lòng ống lượn. Ở đây NH3
được kết hợp với ion H+ tạo thành NH4
+ và được thải ra ngoài dưới dạng muối
ammoni.
Gian bào Tế bào Lòng ống
Na+
HCO3
-
Na+
HCO3
- H+
H2O + CO2
CA
H2CO3
Glutamin NH3
Acid glutamic
NaCl
Na+ Cl-
NH4Cl
NH4
+
Hình 12.7. Sơ đồ bài tiết NH3
3.3.6. Sự bài tiết ion kali. Ion K+ đã được tái hấp thu hoàn toàn ở ống lượn gần. Ống
lượn xa bài tiết ion K+ dưới tác dụng của aldosteron. Dưới tác dụng của aldosteron, ion
Na+ được tái hấp thu còn ion K+ được vận chuyển theo cơ chế vận chuyển tích cực vào
lòng ống.
3.3.7. Bài tiết một số chất khác. Tế bào ống lượn xa còn bài tiết phenol, para-amino
hippuric acid (PAH), creatinin, các acid mạnh, các sản phẩm của thuốc đưa từ ngoài
vào, các chất độc lạ sinh ra trong quá trình chuyển hoá hoặc từ bên ngoài vào cơ thể
theo nhiều đường khác nhau.
3.4. Trao đổi chất ở ống góp. Ống góp nằm ở vùng tuỷ thận ưu trương, thuận lợi cho
sự tái hấp thu nước. Sự tái hấp thu nước ở ống góp chịu tác dụng của ADH. Nước
được tái hấp thu ở ống góp (khoảng trên 9% lượng nước được lọc ở cầu thận) vào
khoảng kẽ ở vùng tuỷ nên lượng nước tiểu giảm, nước tiểu được cô đặc. Ống góp tái
hấp thu khoảng 2-3% natri. Một ít urê được tái hấp thu ở ống góp nhưng phần lớn chất
này được tái hấp thu ở quai Henle, tới ống lượn xa rồi xuống ống góp và được thải ra
225
ngoài theo nước tiểu. Ống góp cũng bài tiết ion hydro theo cơ chế vận chuyển tích cực
như ở ống lượn xa.
4. KHẢ NĂNG VẬN CHUYỂN TỐI ĐA CỦA ỐNG THẬN.
4.1. Khả năng vận chuyển tối đa của một chất bởi ống thận là lượng tối đa của chất
đó được ống thận vận chuyển trong một phút. Khả năng tái hấp thu tối đa được ký hiệu
là Tm hoặc Tr; khả năng bài tiết tối đa được ký hiệu là Tm hoặc Ts. Các chất được tái
hấp thu nhờ chất mang và có Tm (hay Tr) là ion mono acid phosphat, sulphat (SO4
2-),
glucose và các monosaccharid, các acid amin, acid uric, albumin, acetoacetat,
hydroxybutyrat, cetoglutarat. Các chất được bài tiết có Tm (hay Ts) là para-amino-
hippuric (PAH), salicylat, một số thuốc lợi niệu, vitamin B1 (thiamin), penicillin.
Nồng độ ngưỡng của một chất là nồng độ trong huyết tương của chất đó mà nếu vượt
quá thì chất đó xuất hiện trong nước tiểu. Mỗi chất có ngưỡng riêng.
Acid uric và kali là các chất vừa được tái hấp thu, vừa được bài tiết ở thận. Kali và
natri không có Tm.
Khả năng vận chuyển (tái hấp thu và bài tiết) của một chất được đo một cách gián tiếp
qua lượng được lọc và lượng được đào thải của chất đó.
4.2. Khả năng lọc của ống với một chất là lượng chất đó đi vào ống thận mỗi phút.
Lượng này bằng tích của lưu lượng lọc ở cầu thận (GFR) và nồng độ chất đó trong
huyết tương (PX):
Khả năng lọc = GFR x PX= mg/phút
Trong thực tế, vì GFR bằng độ thanh thải của inulin (CIN) nên được tính theo CIN x PX
4.3. Tốc độ bài tiết của một chất là lượng chất đó có trong nước tiểu trong một phút.
Lượng này bằng tích của lưu lượng nước tiểu (V) và nồng độ chất đó trong nước tiểu
(UX):
Khả năng bài tiết = UX x V = mg/ml
Nếu tốc độ bài tiết lớn hơn khả năng lọc hoặc clearance của chất đó lớn hơn CIN thì
chất đó được ống thận bài tiết. Nếu khả năng lọc của một chất lớn hơn tốc độ bài tiết
thì chất đó rõ ràng được tái hấp thu.
4.4. Khả năng vận chuyển tối đa (Tr hoặc Ts) là hiệu số của khả năng lọc (CIN . PX)
và tốc độ bài tiết (UX . V):
Tr = CIN . PX - UX . V (mg/phút)
Ts = UX . V – CIN . PX (mg/phút)
5. NGUYÊN LÝ MỘT SỐ THĂM DÒ CHỨC NĂNG THẬN THƯỜNG DÙNG
5.1. Thăm dò chức năng lọc của cầu thận bằng phép đo độ thanh thải (clearance)
5.1.1. Định nghĩa: Độ thanh thải (clearance) của một chất X là thể tích huyết tương
được thận lọc sạch chất đó trong một phút, tức là hiệu quả lọc sạch một chất khỏi
huyết tương. Clearance của một chất được tính theo công thức:
X
X
X
P
VU
C
(ml/phút)
Trong đó:
226
CX là clearance của một chất (ml/phút)
UX là nồng độ chất đó trong nước tiểu (mg/ml)
PX là nồng độ chất đó trong huyết tương (mg/ml)
V là lượng nước tiểu trong một phút (ml/phút)
5.1.2. Độ thanh thải creatinin
Creatinin nội sinh là chất có nguồn gốc từ creatinin của cơ, do cầu thận lọc. Bình
thường thì lượng do ống thận bài tiết rất nhỏ. Do vậy, đo độ thanh thải creatinin là một
phương pháp đơn giản và đáng tin cậy để đánh giá sự lọc ở cầu thận. Tuy vậy, xét
nghiệm này không giúp nhiều trong việc phát hiện sớm tổn thương thận do các cầu
thận lành phì đại để hoạt động bù. Phải mất đi 50 -70% diện tích lọc của cầu thận thì
mới làm giảm độ thanh thải creatinin. Ngoài ra, khi lọc ở cầu thận thấp, các ống thận
tăng bài tiết nên có thể làm kết quả bị sai lạc. Giá trị bình thường (với diện tích da là
1,73 m2): 100-120 ml/phút. Với phụ nữ, phải nhân kết quả với 0,85. Sau 30 tuổi, cứ 10
tuổi lại trừ đi 6,5 ml/phút. Cần phải mất ít nhất 50 -70% thì độ thanh thải creatinin mới
bắt đầu bị giảm. Người ta cho rằng cho đến 30 ml/phút thì thận bị suy vừa phải. Giữa
15 và 30 ml/phút thì suy thận nặng. Giữa 10 và 15 ml/phút thì cần phải lọc máu. Dưới
10ml/phút thì độ thanh thải creatinin cho các giá trị cao hơn thực và người ta có thể
điều chỉnh bằng độ thanh thải urê. Độ thanh thải urê - ngược lại - đánh giá thấp tình
trạng suy thận ở giai đoạn cuối.
5.1.3. Độ thanh thải PAH. PAH là một acid hữu cơ yếu, lạ với cơ thể, không được giữ
lại, không được chuyển hoá, được ống lượn gần bài tiết (có Ts). PAH được đào thải
theo nước tiểu dưới dạng nguyên vẹn. Nếu chưa đạt đến TmPAH (khoảng 80 mg/phút ở
người trưởng thành) thì chỉ một lần qua thận là máu được lọc sạch PAH . Do có gần
10% PAH gắn vào protein huyết tương nên không phải tất cả PAH đều được lọc dễ
dàng và nồng độ PAH trong huyết tương cao hơn trong dịch lọc. Tuy vậy, lượng PAH
gắn protein không làm giảm nhiều sự bài tiết của ống thận. Vì TmPAH tương đối hằng
định nên PAH được dùng để đánh giá chức năng bài tiết của ống thận (Ts).
Với bất kỳ nồng độ PAH nào trong huyết tương thì lượng PAH được đào thải trong
một phút cũng lớn hơn lượng PAH được lọc (UPAH x V > CIN x PPAH). Nếu PPAH thấp
thì tất cả PAH không được lọc sẽ bị bài tiết và toàn bộ PAH được đào thải nhờ quá
trình lọc và quá trình bài tiết. Nếu PPAH lớn hơn 20 mg/100 ml thì sự bài tiết là tối đa
và đạt được TmPAH. Khi đã đạt được TmPAH, lượng PAH được bài tiết trong một phút
là hằng định và không phụ thuộc vào PPAH nữa. Khi quá TmPAH thì CPAH phụ thuộc vào
sự lọc ở cầu thận, vì vậy lượng PAH được bài tiết chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng
số PAH được đào thải.
PAH cũng còn được sử dụng để đánh giá cấp máu thận (ứng dụng nguyên lý Fick).
5.1.4. Độ thanh thải inulin: Là phương pháp chuẩn để đo mức lọc cầu thận nhưng
được dành cho các phòng xét nghiệm chuyên khoa do kỹ thuật khó. Giá trị bình
thường (với diện tích da là 1,73 m2) là 80-160 ml/phút ở nam và 90-140 ml/phút ở nữ.
5.1.5. Độ thanh thải EDTA được đánh dấu bằng crôm 51: Cho phép đánh giá mức
lọc cầu thận mà không cần phải thu nước tiểu. Đây là phương pháp theo dõi suy thận
dành cho chuyên khoa.
227
5.1.6. Định lượng urê huyết: Bình thường, nồng độ urê trong huyết tương thấp hơn
8,2 mmol/l. Nồng độ urê phụ thuộc vào mức lọc cầu thận, vào lưu lượng nước tiểu,
vào sự tạo thành urê từ thoái hoá protid mà mức độ thoái hoá lại phụ thuộc vào sự
cung cấp protid. Do vậy, tăng urê huyết vừa phải có thể là do giảm lọc ở cầu thận,
hoặc do các yếu tố khác như thiếu nước, mất nước do thuốc lợi niệu hay do chế độ ăn
có nhiều protein.
5.2. Thăm dò chức năng ống thận
5.2.1. Nghiệm pháp cô đặc và pha loãng nước tiểu: Khả năng pha loãng nước tiểu
sau khi uống nhiều nước hoặc cô đặc nước tiểu khi bị thiếu nước phụ thuộc phần lớn
vào chức năng của ống thận. Trong suy thận, nghiệm pháp hạn chế nước (nhịn uống)
là nguy hiểm và không có ích.
5.2.2. Test với vasopressin: Tiêm vasopressin ngoại sinh gây tác dụng như khi hạn chế
nước, tức là làm giảm bài niệu và tăng độ thẩm thấu của nước tiểu.
5.2.3. Đo tỷ lệ đào thải natri: Đo tỷ lệ đào thải natri so với độ thanh thải creatinin cho
biết về chức năng của ống thận. Tỷ lệ % đào thải natri được tính theo công thức:
(Natri nước tiểu / Natri máu)
Creatinin niệu/Creatinin huyết tương)
Tỷ lệ đào thải natri dưới 1% là dấu hiệu tăng nitơ trước thận. Giá trị trên 3% gợi ý có
hoại tử ống thận.
5.2.4. Định lượng vết lithium: Độ thanh thải lithium là một chỉ báo tốt về tái hấp thu
natri ở ống thận. Tuy nhiên, vì đưa lithium ngoại sinh vào cơ thể làm rối loạn chức
năng của ống thận nên người ta đã dùng phương pháp xác định độ thanh thải lithium
bằng cách định lượng lithium nội sinh nhờ phép đo quang phổ hấp phụ nguyên tử
(được thực hiện tại một số phòng thí nghiệm chuyên khoa). Phương pháp này hữu ích
để phát hiện tăng tái hấp thu natri ở ống lượn gần trong cao huyết áp và để chẩn đoán
phân biệt suy trước thận với hoại tử ống thận cấp.
5.2.5. Nghiệm pháp acid hoá nước tiểu: Cho phép xác định khả năng thận làm giảm
độ pH của nước tiểu bằng cách đào thải các acid cố định và phân biệt nhiễm acid do
ống lượn gần với nhiễm acid do ống lượn xa.
5.2.6. Đo lưu lượng máu thận: Lưu lượng máu thận là tỷ lệ lưu lượng tim được dành
cho hệ mạch của thận (bình thường, tỷ lệ này là từ 1/4 đến 1/5 lưu lượng tim lúc nghỉ
ngơi). Có thể xác định lưu lượng máu thận từ độ thanh thải acid para-aminohippuric
(PAH) là một chất được thận đào thải hoàn toàn (nếu nồng độ trong máu không quá
cao). Độ thanh thải PAH thể hiện lưu lượng máu thận; nếu tính toán có dựa vào
hematocrit thì cho biết lưu lượng máu của thận.
5.3. Chẩn đoán hình ảnh thận
Các chẩn đoán hình ảnh có tác dụng phát hiện các bất thường về hình thái của thận và
đường dẫn nước tiểu (nang, sỏi, hẹp, tắc, viêm, khối u ) và phần nào cho biết sơ bộ
chức năng thận (ứ nước, tình trạng ngấm thuốc, đọng thuốc cản quang). Có nhiều
phương pháp chẩn đoán hình ảnh thận bằng X quang (chụp điện quang ổ bụng không
chuẩn bị, chụp đường tiết niệu qua tĩnh mạch, chụp niệu quản - bể thận ngược dòng,
x100%
228
chụp bàng quang ngược dòng, chụp mạch thận, chụp động mạch số hoá ), chụp siêu
âm cắt lớp, chụp hình bằng cộng hưởng từ hạt nhân Sự phát triển của chẩn đoán
hình ảnh đã thay thế dần cho các phương pháp chẩn đoán bằng chất đồng vị phóng xạ.
6. CƠ CHẾ TÁC DỤNG CỦA CÁC THUỐC LỢI NIỆU
6.1. Thuốc lợi niệu thẩm thấu là chất được lọc nhưng không được hoặc ít được tái
hấp thu nên làm cho áp suất thẩm thấu trong ống thận cao, giữ nước lại trong lòng ống
nên làm tăng lượng nước tiểu. Ví dụ, mannitol, sucrose.
6.2. Thuốc lợi niệu có tác dụng tại quai Henle (ví dụ furosemid): Ức chế tái hấp thu
clo và natri ở nhánh lên của quai Henle, ngoài ra cũng có tác dụng ở ống lượn gần. Do
nồng độ clo và natri trong nước tiểu cao nên áp suất thẩm thấu trong ống thận cao, giữ
nước lại trong lòng ống nên làm tăng lượng nước tiểu.
6.3. Thuốc lợi niệu kháng aldosteron (ví dụ, spironolacton). Thuốc cạnh tranh với
aldosteron ở ống lượn xa và ống góp, ức chế trao đổi natri – kali ở ống thận, làm giảm
tái hấp thu natri và giảm đào thải kali.
6.4. Thuốc lợi niệu kháng carbonic anhydrase (ví dụ acetazolamid) gây lợi niệu,
tăng đào thải bicarbonat, ít đào thải natri và kali và làm nước tiểu kiềm.
Câu hỏi tự lượng giá
1. Trình bày về cấu tạo của màng lọc cầu thận và nêu ý nghĩa.
2. Trình bày về cơ chế lọc ở cầu thận.
3. Trình bày về vai trò của lưu lượng máu thận đối với quá trình lọc ở cầu thận.
4. Trình bày về vai trò của áp suất keo huyết tương, co tiểu động mạch đi và đến đối
với quá trình lọc ở cầu thận.
5. Trình bày về cơ chế tự điều hoà tại thận.
6. Trình bày vai trò của các hormon đối với quá trình lọc ở cầu thận.
7. Trình bày về tái hấp thu ion natri ở ống lượn gần.
8. Trình bày về tái hấp thu glucose, protein và acid amin ở ống lượn gần.
9. Vẽ sơ đồ tái hấp thu ion bicarbonat ở ống lượn gần.
10. Mô tả sự trao đổi ion natri và nước ở quai Henle.
11. Trình bày sự tái hấp thu ion natri, bicarbonat và nước ở ống lượn xa.
12. Mô tả hoặc vẽ sơ đồ bài tiết ion hydro ở ống lượn xa.
13. Mô tả sự tái hấp thu ion natri ở các đoạn của ống thận và vai trò của aldosteron.
14. Mô tả sự tái hấp thu nước ở các đoạn của ống thận và vai trò của ADH.
15. Vẽ sơ đồ bài tiết NH3 ở ống lượn xa.
16. Nêu định nghĩa, nguyên lý và ý nghĩa của phép đo độ thanh thải (clearance).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tai_lieu_sinh_ly_bai_tiet_nuoc_tieu.pdf