Tài liệu Thế giới 2014: Triển vọng kinh tế và đầu tư cho nghiên cứu và phát triển

Về đầu tư cho NC&PT của Việt Nam Trong năm 2013, theo Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới, Việt Nam đứng thứ 76/142 quốc gia về năng lực đổi mới sáng tạo trong khi nếu xét về kinh tế thì chúng ta đứng thứ 132. Việt Nam cũng là quốc gia được xếp hạng thứ 57 trên thế giới về công bố quốc tế và trích dẫn công bố quốc tế. Năm 2013 cũng đã chứng kiến những điểm sáng về đầu tư cho NC&PT của doanh nghiệp như Tập đoàn Viễn thông quân đội (Viettel) dành 10% lợi nhuận trước thuế, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam dành khoảng 2.000 tỷ và nhiều đơn vị khác trong và ngoài nhà nước đã dành kinh phí cho Quỹ phát triển KH&CN. Từ quỹ này, họ mời các nhà khoa học tham gia vào hoạt động nghiên cứu, sản xuất và gặt hái được những thành công đáng kể như Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông. Việc đầu tư thông qua hợp tác quốc tế cũng rất tốt. Năm 2013, Việt Nam đã khởi động dự án FIRST (Dự án đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ) do World Bank tài trợ 100 triệu USD và vốn đối ứng của Việt Nam là 10 triệu USD; Dự án IPP (Dự án đổi mới sáng tạo Phần Lan-Việt Nam), nhằm tăng cường Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia (NIS) của Việt Nam, giai đoạn 1 (2009-2013) với trị giá hơn 7 triệu Euro, giai đoạn hai là 10 triệu Euro. Ở Việt Nam, nếu nhìn vào con số tuyệt đối là khoảng 700 triệu USD hiện nay dành cho KH&CN thì quả thực là con số nhỏ bé, tuy nhiên xét về con số tương đối, tức là tỷ lệ 2% tổng chi ngân sách quốc gia, tương đương với khoảng 0,5-0,6% GDP quốc gia thì điều đó đã thể hiện sự quan tâm của nhà nước với KH&CN không thua kém nhiều quốc gia khác, kể cả những quốc gia phát triển. Nhiều quốc gia phát triển cũng chỉ dành được 0,3-0,4% GDP từ ngân sách nhà nước cho KH&CN. Điểm khác biệt ở đây chính là sự đầu tư của xã hội, đặc biệt là doanh nghiệp cho KH&CN còn ít nên tổng đầu tư xã hội cho KH&CN chỉ xấp xỉ 1% GDP quốc gia. Để giải quyết những vấn đề trên và để KH&CN thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt cho phát triển nhanh và bền vững đất nước, thời gian qua Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, đường lối, chính sách, cơ chế phát triển KH&CN, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.60 Năm 2013, Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ 01/01/2014. Luật ban hành đã tiếp cận thông lệ quốc tế trong hoạt động KH&CN, đặc biệt là việc tổ chức thực hiện các đề tài về dự án KH&CN và cơ chế đầu tư, cơ chế tài chính cho KH&CN. Lần đầu tiên trong Luật bắt buộc doanh nghiệp nhà nước phải có trách nhiệm đầu tư cho hoạt động KH&CN thông qua việc dành một phần lợi nhuận trước thuế tối thiểu từ 3-8% để thành lập quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp. Cũng lần đầu tiên, Bộ KH&CN có thẩm quyền trong việc đề xuất, phân bổ dự toán ngân sách hàng năm cho KH&CN. Cũng lần đầu tiên, Luật KH&CN cho phép áp dụng cơ chế của Quỹ phát triển KH&CN trong việc tài trợ cho các đề tài dự án nghiên cứu cũng như cơ chế khoán chi đến sản phẩm cuối cùng cho các đề tài, dự án. Có thể nói rất nhiều “lần đầu tiên” mà mỗi lần như vậy cơ hội và thách thức luôn đan xen. Từ đây, các nhà khoa học được đặt trong điều kiện thuận lợi để nghiên cứu, để ứng dụng trong thực tiễn. Và cũng từ đây kết quả nghiên cứu được đánh giá phản ánh sinh động đời sống KH&CN và khẳng định vai trò then chốt đóng góp cho phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.

pdf60 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 235 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu Thế giới 2014: Triển vọng kinh tế và đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đầu tư cho NC&PT với mức tăng trưởng từ 12% đến 20% mỗi năm trong 20 năm qua, tăng hơn 2 lần tỷ lệ tăng trưởng đầu tư cho NC&PT của Hoa Kỳ trong cùng thời gian này. Kết quả là, trong năm 2011, về tổng đầu tư cho NC&PT, Trung Quốc đã vượt Nhật Bản để vươn lên vị trí thứ 2 thế giới, sau Hoa Kỳ. Vào năm 2018, tổng đầu tư cho NC&PT của Trung Quốc sẽ vượt tổng đầu tư cho NC&PT của 34 quốc gia châu Âu; và vào khoảng năm 2022, sẽ có khả năng cũng vượt Hoa Kỳ, khi đó cả hai nước có thể sẽ đạt khoảng 600 tỷ USD đầu tư cho NC&PT. Đầu tư cho NC&PT của Trung Quốc hiện nay bằng 60% của Hoa Kỳ và tỷ lệ này vẫn đang được thu hẹp dần. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu toàn cầu được khảo sát vẫn cho rằng Hoa Kỳ vẫn sẽ vượt trội so với Trung Quốc trong nghiên cứu cơ bản và ứng dụng. Đầu tư cho NC&PT ở Trung Quốc được hỗ trợ mạnh mẽ bởi tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, có khả năng là các quan điểm chuyên môn của lãnh đạo Trung Quốc có ảnh hưởng trong chính sách khoa học và đổi mới: 8 trong số 9 thành viên thuộc Ban thường vụ của Bộ Chính trị có bằng cấp về kỹ thuật. Trung Quốc đang đầu tư mạnh để tạo ra một cơ sở hạ tầng đổi mới để cho phép nước này phát triển, thương mại hóa các sản phẩm dựa trên công nghệ tiên tiến. Một số điểm nổi bật trong dự báo về đổi mới ở Trung Quốc:  Tầng lớp trung lưu của Trung Quốc sẽ tăng từ 35% lên 75% trong 10 năm tới. Một thống kê nhân khẩu học đã cho thấy sự tăng trưởng kinh tế ở nước này đi kèm với một xã hội đang đổi mới.  Kế hoạch 5 năm lần thứ 12 (2011-2015) đặt mục tiêu đầu tư cho NC&PT đạt 2,2% GDP vào năm 2015. 45  Mục tiêu của Trung Quốc là đạt tới một nền kinh tế dựa trên đổi mới sáng tạo vào năm 2020, điều này đòi hỏi phải giải quyết các thách thức về nguồn lực và môi trường. Trong năm 2013, Trung Quốc vẫn được coi là nước có chi phí sản xuất thấp, kể cả sản xuất các sản phẩm công nghệ cao. Nhưng sản xuất hiệu quả không thôi là chưa đủ để duy trì tăng trưởng kinh tế. Nhận ra điều này, Trung Quốc đã định hướng phát triển từ một nền kinh tế lấy sản xuất làm trung tâm sang một nền kinh tế dựa trên đổi mới sáng tạo vào năm 2020. Theo cánh cách tiếp cận của Hoa Kỳ, châu Âu và Nhật Bản kể từ Thế chiến II, Trung Quốc đang tiến bộ vững chắc trong xây dựng một cơ sở hạ tầng nghiên cứu mạnh và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để vận hành nó. Kết quả cho đến nay rất ấn tượng, với các chỉ số hàng đầu về đổi mới đã nhanh chóng đạt mức gần bằng với phương Tây. Đầu tư cho NC&PT của Trung Quốc liên quan đến các mục tiêu quốc gia về tăng trưởng công nghiệp, ổn định phát triển trong nước gắn với một nền kinh tế tiên tiến, triển khai sức mạnh và uy tín quốc tế. Những mục tiêu này được thể hiện trong các dự án NC&PT lớn như xây dựng một trạm không gian của Trung Quốc và cơ sở hạ tầng sản xuất năng lượng tái tạo, điện hạt nhân để giải quyết nhu cầu năng lượng ngày càng tăng. Tuy nhiên, Trung Quốc có một số thách thức lớn phải vượt qua để đạt được mục tiêu năm 2020 trở thành nền kinh tế dựa trên đổi mới sáng tạo. Các thách thức lớn là độc lập về năng lượng, nước và bảo vệ môi trường. Trung Quốc tiếp tục tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, hơn ba lần so với Hoa Kỳ, giúp cung cấp các nguồn lực để hỗ trợ đầu tư cho NC&PT và mở rộng cơ sở hạ tầng cơ bản. Trung Quốc đã trở thành một nước “xuất khẩu việc làm” sang châu Á để đáp ứng nhu cầu riêng của mình. 10 năm trước, đầu tư trực tiếp nước ngoài hầu hết đã đến Trung Quốc. Ngày nay, Trung Quốc đã là một nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn châu Á và dự báo đến năm 2017 nước này sẽ đứng đầu về đầu tư nước ngoài trong khu vực. Như là một phần của chương trình tài trợ tích cực, Trung Quốc đang mở rộng cơ sở hạ tầng KH&CN của mình thông qua các khoản đầu tư vào các tổ chức nghiên cứu khoa học, Viện Hàn lâm Khóa học Trung Quốc và các viện nghiên cứu công nghiệp. Khi đã trở thành một trong những nước hàng đầu về đầu tư cho NC&PT, Trung Quốc cũng đồng thời tận dụng đòn bẩy thông qua hợp tác quốc tế. Nhiều chương trình NC&PT của Trung Quốc liên quan đến hợp tác với các tổ chức nghiên cứu châu Âu và Hoa Kỳ. Theo khảo sát của Viện Battelle và Tạp chí R&D, khoảng 1/3 hoạt động NC&PT tiên tiến của Trung Quốc được tiến hành trong sự hợp tác với các tổ chức nghiên cứu của Hoa Kỳ và khoảng ¼ với các tổ chức nghiên cứu châu Âu. Cũng như ở các nước phát triển, đầu tư của doanh nghiệp cho NC&PT ở Trung Quốc đã vượt đầu tư cho NC&PT của chính phủ. Khu vực doanh nghiệp của Trung Quốc đã chiếm hơn 2/3 tổng đầu tư cho NC&PT ở nước này, với nhiều tập đoàn đã đầu tư hơn 1 tỷ USD cho NC&PT như Huawei Technologies, PetroChina, China Railway Construction. 46 Bảng 10. NC&PT của một số doanh nghiệp lớn của Trung Quốc Doanh nghiệp Chi cho NC&PT 2010 (triệu USD) Tỷ lệ chi cho NC&PT trên thu nhập (%) Huawei Technologies 2.302,7 8,60% PetroChina 1.707,9 0,80% China Railway Construction 1.354,9 2,10% ZTE 1.143,7 11,30% China Petroleum and Chemicals 697,5 0,30% CSR China 352,5 3,80% China Railway 301,2 0,50% Metallurgical Corp. 258,8 0,90% China Communications 227,2 0,60% China Coal 216,4 2,10% Nguồn: Battelle/R&D Magazine, EU Industrial R&D Scoreboard, 2013 Đầu tư cho NC&PT của Ấn Độ Với vị trí thứ 4 thế giới về GDP, nhưng Ấn Độ lại đặt ưu tiên đầu tư cho các linh vực xã hội và chính trị hơn là đầu tư vào NC&PT. Tỷ lệ tăng trưởng đầu tư cho NC&PT của Ấn Độ được dự báo chỉ đạt 1/5 tỷ lệ tăng trưởng GDP năm 2014. Một phần đáng kể của NC&PT của Ấn Độ tập trung vào hỗ trợ cho khu vực dịch vụ, khu vực chiếm khoảng 2/3 GDP của Ấn Độ. Ngành công nghiệp dược phẩm Ấn Độ chiếm một phần khá lớn của đầu tư NC&PT, đặc biệt là trong thị trường thuốc thành phẩm, nơi các công ty Ấn Độ, như Ranbaxy Laboratories, duy trì một thị phần khá lớn trên toàn cầu. Sự thống trị của Ấn Độ là nhà sản xuất các loại thuốc giá rẻ cho những người nghèo trên thế giới đã có nền tảng vững chắc. Nhiều loại thuốc giá rẻ được sản xuất nhờ các bằng sáng chế châu Âu hoặc nhờ NC&PT trong các trường đại học Ấn Độ. Như là điển hình cho các doanh nghiệp dược phẩm toàn cầu, một số công ty dược phẩm Ấn Độ đã mua cổ phần trong các công ty dược phẩm nước ngoài. Chính phủ Ấn Độ tài trợ tới 2/3 tổng chi cho NC&PT của nước này. Đầu tư cho NC&PT của ngành công nghiệp đã tăng đều đặn từ 20 năm qua nhưng vẫn còn ít hơn 1/3 tổng số đầu tư cho NC&PT của đất nước (so với Hoa Kỳ và Trung Quốc, những nơi mà ngành công nghiệp chiếm hơn 2/3 đầu tư cho NC&PT). Chính phủ hỗ trợ cho NC&PT ở Ấn Độ có xu hướng tập trung vào mục tiêu truyền thống là tài trợ NC&PT công, như năng lượng hạt nhân, quốc phòng, không gian, y tế và nông nghiệp. Đầu tư cho NC&PT dành riêng cho nghiên cứu cơ bản ở Ấn Độ đã tăng đều từ ít hơn 20% trong 10 năm qua đã tăng lên hơn 26% hiện nay. 47 Tuy nhiên, Ấn Độ có số lượng các nhà khoa học và kỹ sư tính trên 1 triệu dân thấp nhất so với các nước BRIC khác (137/triệu dân). Một phần của điều này là do thiếu các tổ chức giáo dục đại học chất lượng. Đầu tư cho NC&PT của Nhật Bản Nhật Bản từ lâu đã đầu tư lớn vào NC&PT. Tỷ lệ đầu tư cho NC&PT trên GDP của nước này hiện là 3,4% (hơn 160 tỷ USD) và có lúc đã đạt 3,7% đầu thập kỷ này. Tuy nhiên, các vấn đề về nhân khẩu học, kinh tế, trận sóng thần và thảm họa hạt nhân Fukushima đã có những ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư cho NC&PT ở Nhật Bản. Nhật Bản có dân số già và tuyển sinh đại học và nhân lực trình độ tiến sĩ đang giảm nhanh chóng, một phần do sự suy giảm nhu cầu việc làm cho các nhà khoa học và kỹ sư. Suy thoái kinh tế toàn cầu 2009- 2010 cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế Nhật Bản và khả năng hỗ trợ mạnh mẽ cho đầu tư vào NC&PT. Hiện nay, phần lớn những căng thẳng kinh tế đã được giảm bớt và sản lượng công nghiệp của Nhật Bản đã được nối lại, cùng với tăng đầu tư cho NC&PT. Đầu tư cho NC&PT của Hàn Quốc Đầu tư cho NC&PT của Hàn Quốc vẫn tiếp tục tăng ở mức khoảng 4% hàng năm, ngang bằng với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Hàn Quốc đứng thứ năm trong tốp 40 nước đầu tư nhiều nhất cho NC&PT, chiếm 4% mức đầu tư cho NC&PT toàn cầu. Hàn Quốc đứng thứ 25 về dân số với 49 triệu người. Hàn Quốc đầu tư khoảng 3,6% GDP (hơn 60 tỷ USD) cho NC&PT, với tỷ lệ đầu tư lớn nhất trong sản xuất công nghiệp và công nghệ. Khoảng một phần ba của đầu tư cho NC&PT của đất nước được cung cấp bởi Chính phủ. Các khoản khấu trừ lớn thuế thu nhập doanh nghiệp được Chính phủ cho phép đầu tư vào NC&PT và cơ sở vật chất. Đăng ký bằng sáng chế được khuyến khích và số lượng đã tăng gấp bốn lần trong vòng 10 năm qua. Các công bố khoa học của các nhà nghiên cứu Hàn Quốc đã tăng gấp đôi trong 5 năm qua. Trong khi suy thoái kinh tế toàn cầu 2009-2013 ảnh hưởng đến nền kinh tế của nhiều quốc gia, thì nền kinh tế Hàn Quốc vẫn tiếp tục phát triển vượt qua suy thoái kinh tế. Hiện nay Hàn Quốc đang xây dựng nền kinh tế dựa vào đổi mới sáng tạo. Chính phủ Hàn Quốc mới đây đã công bố ngân sách cho NC&PT năm 2014 là hơn 10 tỷ USD, tăng 2,2% so với năm 2013. Khoảng 3,3 tỷ USD sẽ được phân bổ cho phát triển nền kinh tế đổi mới sáng tạo; 560 triệu USD được phân bổ cho các nghiên cứu nhằm đảm bảo phúc lợi và an toàn cho người dân. Ngân sách cho nền kinh tế đổi mới sáng tạo năm 2014 tăng 5,9% so với năm 2013, bao gồm 980 triệu USD hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông (ICT), phần mềm hội tụ công nghệ (tăng 26,7% so với năm 2013). 140 triệu USD sẽ được phân bổ cho các nghiên cứu về thiên tai, 60 triệu USD cho các nghiên cứu về lương thực và y tế. An ninh mạng đã trở thành một vấn đề quan trọng trong thời gian gần đây, do đó nghiên cứu trong lĩnh vực này sẽ được hưởng tài trợ hơn 20 triệu USD, tăng 17,2% so với năm 2013. Lĩnh vực không gian có những dự án lớn được ngân sách tài trợ lên đến hơn 170 triệu USD cho chương trình tên lửa đẩy (KSLV) và chương trình phát triển một vệ tinh khí tượng. Hàn Quốc có được những thành tựu vượt bậc về phát triển KH&CN, kinh tế là nhờ những định hướng đúng đắn từ rất sớm của Chính phủ Hàn Quốc trong thúc đẩy đầu tư cho NC&PT. Doanh nghiệp chiếm khoảng 48 77% tổng đầu tư cho NC&PT ở nước này. NC&PT trong “Phần còn lại của thế giới” Các nước thuộc "Phần còn lại của thế giới" trong Dự báo của Viện Battelle và Tạp chí R&D Magazine bao gồm các nước ở châu Phi, Trung Đông, Nga và Cộng đồng các Quốc gia Độc lập (CIS). Các nước thuộc "Phần còn lại của thế giới" chiếm khoảng 11% GDP toàn cầu (10 nghìn tỷ USD), nhưng họ chỉ chiếm khoảng 5% đầu tư cho NC&PT toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng đầu tư cho NC&PT ở các nước này được dự báo dưới 4% năm 2014, tỷ lệ đầu tư thấp này cũng cho thấy các nước này có những ưu tiên khác hơn là tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo, có thể do năng lực giáo dục và cơ sở hạ tầng NC&PT kém phát triển, ngoại trừ Nga. Hầu hết các nước Trung Đông được dự báo sẽ có mức tăng trưởng GDP mạnh trong năm 2014, nhưng lại bị hạn chế bởi sự yếu kém về cơ sở hạ tầng cho NC&PT, trừ Israel (nước có tỷ lệ đầu tư cho NC&PT/GDP cao nhất thế giới, đạt 4,3% GDP năm 2012 và dự báo tỷ lệ này sẽ là 4,2% năm 2014) và Qatar. Các nước châu Phi cũng được dự báo sẽ có mức tăng trưởng mạnh về GDP, nhưng cũng bị hạn chế bởi năng lực NC&PT yếu kém, ngoại trừ Nam Phi. Tăng trưởng GDP dự kiến sẽ mạnh mẽ ở Nam Mỹ, nhưng đầu tư cho NC&PT ở khu vực này có sự gia tăng không đáng kể và năng lực NC&PT vẫn tụt hậu, thậm chí Braxin được dự báo cũng không có sự gia tăng về con số tương đối đầu tư cho NC&PT, vẫn ở mức 1,3% GDP từ năm 2012-2014 và Ác-hen-ti-na duy trì ở mức 0,6% GDP trong cùng thời gian này. Các nước như Mexico lại cho thấy một sự tương phản rõ rệt. Mặc dù chia sẻ đường biên giới với Hoa Kỳ và dự kiến có mức tăng trưởng kinh tế vừa phải trong năm 2014, nhưng đầu tư cho NC&PT của Mexico cũng chỉ dưới mức 1% GDP. Thực ra, trình độ phát triển KH&CN, cơ sở hạ tầng phục vụ nghiên cứu cũng không phù hợp để gia tăng đầu tư cho NC&PT ở mức độ cao hơn. Kết quả là, dựa trên nguồn lực hiện tại, các ưu tiên và nguyện vọng quốc gia, triển vọng cho sự phát triển lâu dài dựa trên đổi mới sáng tạo của quốc gia này còn hạn chế. Mexico nằm trong Top 40 quốc gia đầu tư cho NC&PT chỉ vì GDP lớn của nó (chủ yếu dựa vào nông nghiệp và các sản phẩm tiêu dùng có hàm lượng công nghệ thấp). Nhiều quốc gia thuộc "Phần còn lại của thế giới" vẫn triển khai các nguồn lực cho những khu vực ưu tiên khác không phải cho NC&PT, do đó năng lực NC&PT, cơ sở hạ tầng cho NC&PT ở những nước đó vẫn còn yếu kém. Tóm lại, có thể thấy một số điểm đáng chú ý trong đầu tư NC&PT của “Phần còn lại của thế giới”:  Tăng trưởng đầu tư cho NC&PT của Nga sẽ vượt mức tăng trưởng GDP của nước này, ước tính 3% năm 2014. Cơ sở hạ tầng mạnh phục vụ nghiên cứu của Nga tốt hơn so với các nền kinh tế khác trong khối CIS, khối này dự kiến sẽ có mức tăng trưởng GDP tích cực, nhưng tỷ lệ tăng trưởng trong đầu tư cho NC&PT có thể sẽ không cao bằng tỷ lệ tăng trưởng GDP.  Hầu hết các nước ở Trung Đông được dự báo sẽ có mức tăng trưởng GDP mạnh hơn trong năm 2014, nhưng họ bị hạn chế bởi cơ sở hạ tầng NC&PT yếu kém, trừ 49 các trường hợp của Israel và Qatar (những nước đầu tư vào NC&PT ở mức độ cao).  Châu Phi dự kiến cũng sẽ có mức tăng trưởng GDP mạnh mẽ, nhưng cũng bị hạn chế bởi năng lực NC&PT kém, trừ Nam Phi.  Tăng trưởng GDP dự kiến cũng khả quan ở Nam Mỹ, nhưng khu vực này vẫn tụt hậu trong NC&PT. 2.3. Dự báo đầu tư cho NC&PT trong một số ngành công nghiệp then chốt Ngành công nghiệp khoa học sự sống Trong Dự báo này, ngành công nghiệp khoa học sự sống bao gồm dược sinh học, các thiết bị và dụng cụ y tế, sinh học nông nghiệp/động vật, nghiên cứu thương mại và thử nghiệm. Tuy nhiên, đầu tư cho NC&PT của ngành công nghiệp khoa học sự sống được thúc đẩy chủ yếu bởi lĩnh vực dược phẩm sinh học, chiếm gần 85% tổng đầu tư của ngành này. Hoạt động NC&PT của ngành công nghiệp khoa học sự sống tại Hoa Kỳ chiếm 46% NC&PT trong ngành này trên quy mô toàn cầu. Các công ty trong lĩnh vực dược phẩm sinh học của Hoa Kỳ vẫn đứng hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, các chuyên gia dự báo rằng áp lực trong ngành này vẫn còn, đặc biệt là trong lĩnh vực dược phẩm sinh học, trong việc nâng cao năng suất và khai thác các bằng sáng chế sắp hết hạn, áp lực chi phí và đổi mới các loại thuốc. Một yếu tố mới làm phức tạp môi trường NC&PT trong ngành công nghiệp khoa học sự sống là tập hợp các thay đổi trong vấn đề chăm sóc sức khỏe ở Hoa Kỳ sau khi có Luật Chăm sóc với Chi phí phải chăng (Affordable Care Act). Tuy nhiên cũng khó dự đoán chính xác Luật mới này sẽ ảnh hưởng như thế nào đến NC&PT trong ngành công nghiệp khoa học sự sống của Hoa Kỳ. Có thể vị thế “nhà lãnh đạo tòa cầu” của Hoa Kỳ trong NC&PT khoa học sự sống sẽ bị “lung lay”, do sự nổi lên của các đối thủ cạnh tranh châu Âu và các đối thủ cạnh tranh mới ở châu Á. Các chuyên gia dự đoán đầu tư cho NC&PT trong ngành công nghiệp khoa học sự sống ở Hoa Kỳ tăng trưởng thấp hơn năm 2013 (tăng 2,2%) để đạt khoảng 93 tỷ USD năm 2014, với sự tăng trưởng đến chủ yếu từ lĩnh vực dược phẩm sinh học và sản xuất thiết bị y tế. Sự phát triển của ngành công nghiệp khoa học sự sống trên quy mô toàn cầu đã chậm lại trong vài năm qua, nhưng ngành công nghiệp này được dự báo sẽ có một sự phục hồi mạnh mẽ, với mức tăng trưởng khoảng 3,1%, để đạt hơn 201 tỷ USD năm 2014. Bảng 11: Đầu tư cho NC&PT trong ngành công nghiệp khoa học sự sống ở Hoa Kỳ và toàn cầu (đơn vị: Tỷ USD) 2011 2012 2013 2014 (dự báo) Hoa Kỳ 84,5 91,1 90,6 92,6 Toàn cầu 184,2 197,7 195,3 201,3 Sau khi tiến hành khảo sát, các chuyên gia cho rằng có mối liên hệ giữa đầu tư cho NC&PT và phát triển công nghệ trong ngành này. Đổi mới mở đóng vai trò quan trọng và 50 phổ biến trong khoa học sự sống hơn trong các ngành công nghiệp khác. Xem xét mức độ phụ thuộc vào sự hợp tác nghiên cứu, mua lại và trong cấp phép li-xăng, các chuyên gia cho rằng hệ sinh thái đổi mới trong khoa học sự sống là phức tạp và có tính liên kết cao. Tính chất đa dạng của ngành công nghiệp này cũng được phản ánh trong các ưu tiên phát triển công nghệ, các ưu tiên lớn nhất là vật liệu sinh học, với 68 % các công ty lớn được khảo sát cho rằng lĩnh vực này cần được ưu tiên phát triển trong tương lai, tiếp đến là lĩnh vực hệ gen cá nhân (59%) và các ứng dụng tế bào gốc (54%). Trong lĩnh vực thiết bị y tế, các thiết bị y sinh bộ phận cấy ghép sẽ được ưu tiên đầu tư NC&PT. Ngành công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông Đầu tư cho NC&PT trong ngành công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) thường thay đổi liên tục theo các sở thích của người tiêu dùng, nhu cầu thị trường nhu cầu và sự phát triển công nghệ. Đầu tư cho NC&PT trong ngành ICT toàn cầu được dự báo tăng trưởng khoảng 5,1% năm 2014. Trong ngành công nghiệp ICT ở Hoa Kỳ, khu vực tư nhân là nhà đầu tư lớn nhất cho NC&PT, hai công ty là Intel và Microsoft, mỗi công ty đầu tư hơn 10 tỷ USD cho NC&PT trong năm 2014. Ngành công nghiệp ICT Hoa Kỳ được dự báo sẽ tăng trưởng 5,4% để đạt 146,5 tỷ USD năm 2014. Các công ty ICT của Hoa Kỳ, nằm trong số những công ty hàng đầu về đầu tư cho NC&PT trên quy mô toàn cầu, được dự báo chiếm 57% tổng đầu tư (257 tỷ USD) cho NC&PT trong ngành công nghiệp ICT toàn cầu năm 2014. Mặc dù ICT bao gồm nhiều mảng công nghệ, nhưng công nghệ an ninh mạng, công nghệ không dây, đặc biệt là công nghệ điện toán đám mây vẫn là những lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu trong đầu tư cho NC&PT giai đoạn 2014-2016. Xu hướng và dự báo Ngành công nghiệp ICT cung cấp phần cứng, phần mềm và dịch vụ tạo nên thời đại thông tin hiện đại, phát triển các sản phẩm bán dẫn, viễn thông, phần mềm bảo mật, máy tính, máy tính bảng và trò chơi điện tử. Thông qua tất cả các ứng dụng tích hợp nhỏ hơn, nhanh hơn, thiết bị điện tử mạnh hơn với sự phổ biến của Internet, ngành công nghiệp ICT đang trong giai đoạn đổi mới sáng tạo mạnh mẽ và có tác động tới hầu hết các lĩnh vực của đời sống. Để bắt kịp với nhu cầu về thiết bị ngày càng tăng, nhà sản xuất chip sẽ tiếp tục đầu tư vào công nghệ và sản xuất để cải thiện chức năng, kích thước và tiêu thụ điện năng của sản phẩm. Các nhà sản xuất thiết bị và phần mềm khác đang giải quyết các vấn đề đối với sản phẩm của họ như thiết bị nhỏ hơn, nhẹ hơn, mỏng hơn và bộ nhớ sao cho hệ điều hành trở nên nhanh hơn. Khái niệm "không dây" từ lâu đã trở nên phổ biến, nhưng một yêu cầu đối với hiện tại và tương lai là tích hợp công nghệ “Internet kết nối vạn vật” (Internet of Things) với vô vàn các ứng dụng tiềm năng trong hầu hết các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng, hậu cần Bảng 12: Đầu tư cho NC&PT trong ngành ICT ở Hoa Kỳ và toàn cầu (đơn vị: Tỷ USD) 2011 2012 2013 2014 (dự báo) Hoa Kỳ 118,3 131,7 139 146,5 Toàn cầu 214,8 235,8 244,8 257,3 51 Ngành công nghiệp hàng không vũ trụ, an ninh và quốc phòng NC&PT trong các ngành công nghiệp hàng không vũ trụ, an ninh và quốc phòng chịu tác động lớn bởi chính sách của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ và ngành công nghiệp hàng không toàn cầu. Các nhà thầu/các công ty lớn trong ngành công nghiệp quốc phòng và hàng không vũ trụ có những kế hoạch NC&PT gắn chặt với Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ thông qua các hợp tác hay các hợp đồng nghiên cứu, nhằm đáp ứng ứng các yêu cầu về quốc phòng và an ninh quốc gia. Trong khi đó, ngành hàng không dân dụng cũng có những kế hoạch nâng cao năng lực và hiệu quả để thỏa mãn nhu cầu đi lại ngày càng tăng. Tuy nhiên, ngân sách cho NC&PT trong lĩnh vực quốc phòng và hàng không dân dụng ở Hoa Kỳ đang bị cắt giảm. Xu hướng tích hợp công nghệ vật liệu, điện tử, truyền thông và giám sát đang ngày càng gia tăng cả trong NC&PT ở cả khu vực dân sự và quân sự, đặc biệt, xu hướng công nghệ lưỡng dụng (sử dụng cả trong lĩnh vực quân sự lẫn dân sự) được cho là một xu hướng nổi bật vì nó giúp giảm chi phí đầu tư của chính phủ và cải thiện được mối quan hệ chi phí - hiệu quả. Trong bối cảnh kinh tế và đầu tư cho NC&PT ở Hoa Kỳ, các chuyên gia dự báo đầu tư cho NC&PT trong các ngành công nghiệp hàng không vũ trụ, an ninh và quốc phòng ở Hoa Kỳ sẽ chỉ đạt 12,6 tỷ USD năm 2014, giảm 1,2% so với năm 2013. Tuy nhiên, xét trên quy mô toàn cầu thì đầu tư cho NC&PT trong các ngành này vẫn ổn định do có sự tăng trưởng trong NC&PT của những ngành công nghiệp này ở các nước và khu vực khác, đặc biệt là các công ty hàng không vũ trụ ở châu Á, Nga và EU vẫn duy trì đầu tư cho NC&PT. Bảng 13: Đầu tư cho NC&PT trong các ngành công nghiệp hàng không vũ trụ, an ninh và quốc phòng ở Hoa Kỳ và toàn cầu (đơn vị: Tỷ USD) 2011 2012 2013 2014 (dự báo) Hoa Kỳ 13,2 13,1 12,8 12,6 Toàn cầu 28,0 27,3 26,6 26,4 NC&PT trong các ngành công nghiệp này từ 2014-2016 được dự báo sẽ tập trung vào các công nghệ xe tự hành, an ninh không gian, các hệ thống rô-bốt/máy bay không người lái, công nghệ vật liệu tổng hợp và công nghệ máy bay thương mại. Ngành công nghiệp năng lượng Ngành công nghiệp năng lượng bao gồm hàng loạt các công ty, từ các công ty dầu và khí đốt đa quốc gia tới các công ty công nghệ lớn và nhỏ. Trong Dự báo chủ yếu khảo sát các công ty NC&PT công nghệ năng lượng mới, công nghệ lưu trữ, vận chuyển năng lượng mới và năng lượng truyền thống. Việc cắt giảm chi phí sản xuất là động lực lớn trong hoạt động NC&PT của ngành công nghiệp năng lượng. Bên cạnh đó, trọng tâm NC&PT của ngành này sẽ tập trung vào công nghệ vật liệu tiên tiến. Tại Hoa Kỳ, chính quyền các bang và liên bang có những chương trình công nghiệp năng lượng và nghiên cứu dài hạn có ảnh hưởng lớn tới ngành công nghiệp này. Các phòng thì nghiệm của Chính phủ (đặc biệt là các phòng thí nghiệm quốc gia thuộc Bộ Năng lượng Hoa Kỳ) là những yếu tố then chốt của hệ sinh thái NC&PT năng lượng. Mặc dù nhiên liệu sinh học vẫn còn nhiều thách thức để đạt được mức sản xuất cạnh 52 tranh với các nhiên liệu truyền thống, nhưng các chuyên gia cho rằng lĩnh vực này vẫn thu hút nhiều nhất hoạt động NC&PT. Bên cạnh đó, hoạt động NC&PT các hệ thống lai (hybrid), công nghệ năng lượng mặt trời, năng lượng gió sẽ vẫn tiếp tục gia tăng. Năm 2014, ngành công nghiệp năng lượng ở Hoa Kỳ được dự báo sẽ có mức đầu tư cho NC&PT đạt 7,3 tỷ USD (tăng 1,7% so với năm 2013), trên quy mô toàn cầu sẽ đạt 21,8 tỷ USD (tăng 4,8%), chủ yếu nhờ sự sự tăng trưởng trong NC&PT của các công ty dầu và khí đốt ở châu Á. Nhiều công nghệ năng lượng dựa trên sự tiến bộ của công nghệ vật liệu để tăng cường hiệu suất năng lượng. Chẳng hạn việc phát triển công nghệ vật liệu tổng hợp và sợi các-bon cho phép chế tạo các tua-bin gió cỡ lớn giúp nâng cao công suất cho các khu điện gió; công nghệ năng lượng mặt trời cũng rất cần các vật liệu tiên tiến để tăng cường độ bền và hiệu suất chuyển đổi năng lượng của các tế bào pin năng lượng mặt trời; hay để phát triển năng lượng nhiệt hạch trong tương lai cũng cần phải có công nghệ sản xuất siêu vật liệu. Bảng 14: Đầu tư cho NC&PT trong ngành công nghiệp năng lượng ở Hoa Kỳ và toàn cầu (đơn vị: Tỷ USD) 2011 2012 2013 2014 (dự báo) Hoa Kỳ 5,9 7,6 7,2 7,3 Toàn cầu 18,6 20,6 20,8 21,8 Ngành công nghiệp hóa chất và vật liệu tiên tiến Ngành công nghiệp hóa chất và vật liệu tiên tiến, với các công ty đa quốc gia lớn (như DuPont, Dow, BASF và Bayer) cung cấp mọi loại hóa chất và vật liệu tiên tiến trên thị trường toàn cầu và các công ty sử dụng các hóa chất và vật liệu này. Đây là ngành công nghiệp có tác động đến nhiều ngành công nghiệp khác, đặc biệt là nghiên cứu các vật liệu tiên tiến sẽ có nhiều ứng dụng trong nhiều ngành. Hoạt động nghiên cứu đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong ngành công nghiệp này - ngành công nghiệp được coi là có chi phí sản xuất cao hơn các ngành khác, kể từ khi nghiên cứu đến khi đưa sản phẩm ra được thị trường. Tuy nhiên, ngành này cũng đem lại giá trị gia tăng cao. Hoạt động của ngành công nghiệp này đứng trước yêu cầu nâng cao hiệu quả quy trình sản xuất và giảm chi phí. Việc dự báo đầu tư cho NC&PT trong ngành này phụ thuộc nhiều vào bối cảnh kinh tế toàn cầu và những thị trường chính. Đầu tư cho NC&PT của Hoa Kỳ trong ngành công nghiệp hóa chất và vật liệu tiên tiến được dự báo sẽ đạt 12 tỷ USD năm 2014, tăng 3,6% so với năm 2013. Trên quy mô toàn cầu, đầu tư cho NC&PT của ngành này có thể sẽ đạt 45 tỷ USD năm 2014, tăng 4,7% so với năm 2013, do nhu cầu gia tăng của các sản phẩm hóa chất và vật liệu trên thế giới và bối cảnh kinh tế khả quan ở khu vực châu Á. Bảng 15: Đầu tư cho NC&PT trong ngành công nghiệp hóa chất và vật liệu tiên tiến ở Hoa Kỳ và toàn cầu (đơn vị: Tỷ USD) 2011 2012 2013 2014 (dự báo) Hoa Kỳ 10,7 11,5 11,8 12,2 Toàn cầu 39,9 43,0 43,3 45,3 53 Vật liệu nano được coi là trọng tâm của hoạt động NC&PT trong ngành công nghiệp vật liệu và tầm quan trọng của nó được đánh giá cao hơn so với 3 năm trước. 80% doanh nghiệp trong ngành công nghiệp vật liệu được khảo sát cho rằng vật liệu nano là lĩnh vực then chốt trong phát triển công nghệ. Bên cạnh đó, vật liệu sinh học, vật liệu tổng hợp cũng rất được quan tâm đầu tư NC&PT trên toàn cầu. KẾT LUẬN Những gam màu tươi sáng trong bức tranh kinh tế thế giới 2014 Nhìn chung năm 2004, gam màu nổi bật trong bức tranh kinh tế thế giới là gam màu tươi sáng, được tô bằng niềm tin vào đà phục hồi sẽ tiếp tục mạnh hơn ở các nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ và Nhật Bản, bằng hy vọng về con đường bằng phẳng hơn cho kinh tế châu Âu và cả sự lạc quan về triển vọng tăng trưởng nhanh hơn ở các nền kinh tế mới nổi. Tuy nhiên, lẫn trong những sắc màu tươi sáng còn là những khoảng tối, những rủi ro đe dọa đà phục hồi kinh tế toàn cầu. Đó là không chỉ là những vấn đề chung mà các nền kinh tế cùng đối mặt trên lộ trình tăng trưởng, củng cố nền tài chính mà còn là những vấn đề nội tại đòi hỏi phải có cách thức giải quyết riêng ở mỗi nền kinh tế. IMF dự báo nền kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng 3,7% trong năm 2014, cao hơn mức tăng 3,6% đưa ra trong lần dự báo gần nhất vào tháng 10 năm ngoái. Trong đó, kinh tế Hoa Kỳ được dự báo tăng 2,8%, so với mức tăng 2,6% đưa ra trong lần dự báo trước; kinh tế Nhật Bản được dự báo tăng 1,7%. Cùng với dự báo lạc quan, IMF đồng thời kêu gọi các nước giàu tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng để hỗ trợ sự phục hồi toàn cầu. Trước IMF, WB cũng đưa ra cái nhìn lạc quan hơn về kinh tế toàn cầu năm nay. Theo WB, tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ được đẩy nhanh trong năm 2014 khi các nền kinh tế phát triển đạt tới một bước ngoặt mới 5 năm sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Trong báo cáo về Triển vọng kinh tế toàn cầu (Global Economic Prospects) mà WB công bố vào ngày 14/1/2014, định chế này dự báo, tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong năm 2014 sẽ ở mức 3,2%, cao hơn hẳn so với tỷ lệ tăng trưởng 2,4% đạt được trong năm 2013 và sẽ tiếp tục lên mức 3,4% và 3,5% trong các năm 2015 và 2016. Phần lớn sự tăng tốc của kinh tế toàn cầu dựa vào tăng trưởng tại các nước thu nhập cao sau nhiều năm tăng trưởng thấp và suy giảm trầm trọng bởi cuộc khủng hoảng tài chính. WB dự báo, các nền kinh tế thu nhập cao sẽ tăng tốc và đạt mức tăng trưởng 2,2% trong năm nay từ mức 1,3% trong năm 2013. Trong bối cảnh đó, tăng trưởng tại khu vực Đông Á - Thái Bình Dương sẽ giữ mức 7,2% trong năm 2014 và giảm nhẹ đôi chút xuống 7,1% vào năm 2015 và 2016. Tăng trưởng kinh tế khởi sắc và nhu cầu gia tăng tại các nền kinh tế phát triển sẽ hỗ trợ tích cực cho các nền kinh tế đang phát triển, đồng thời sẽ giúp bù đắp cho tình trạng thắt chặt về tài chính có thể xảy ra. Theo WB, mặc dù những rủi ro lớn đối với nền kinh tế toàn cầu đã suy giảm, những bất ổn về chính sách tài khóa của Hoa Kỳ, sự phục hồi còn chật vật của nền kinh tế Eurozone, cùng khả năng xuất hiện những trở ngại trong quá trình tái cơ cấu kinh tế của Trung Quốc sẽ tiếp tục đặt ra những thách thức cho triển vọng tăng trưởng toàn cầu. 54 WB cho rằng, việc tái cân bằng thành công nền kinh tế Trung Quốc từ chỗ dựa vào đầu tư sang dựa vào tiêu dùng sẽ là một thách thức lớn. Sự giảm sút trong tốc độ đầu tư có thể gây ra tác động lớn tới tăng trưởng của nền kinh tế lớn thứ nhì thế giới, ảnh hưởng tới các nền kinh tế khác trong khu vực cũng như các quốc gia xuất khẩu hàng hóa cơ bản. Mặc dù vậy, WB dự báo, GDP của Trung Quốc sẽ tăng 7,7% trong năm nay, bằng mức tăng 7,7% đạt được trong năm 2013. Trong năm 2014, dù kinh tế thế giới chưa hẳn là phục hồi mạnh mẽ sau một năm 2013 còn không ít khó khăn, nhưng tình hình có chiều hướng sáng sủa hơn, nhất là trong khối công nghiệp hoá châu Âu-Hoa Kỳ-Nhật Bản. Tin tốt lành là hoạt động kinh tế toàn cầu sẽ phục hồi dù ở mức vừa phải ở cả các nền kinh tế phát triển và mới nổi. Bên cạnh đó, mối lo về những cú sốc với tác động lớn như khủng hoảng nợ công châu Âu, chính phủ đóng cửa và cuộc chiến nâng trần nợ ở Hoa Kỳ, nguy cơ hạ cánh cứng của kinh tế Trung Quốc sẽ lắng dịu hơn nhiều. Trong 5 năm qua, khi các nền kinh tế này phải lo giải quyết số nợ lớn, tăng trưởng của kinh tế thế giới đã bị sụt giảm. Nhưng qua năm 2014, gánh nợ của khu vực tư nhân, là các hộ gia đình, hệ thống ngân hàng và doanh nghiệp, đã giảm tương đối, biện pháp kích thích sản xuất cũng có hiệu quả và bội chi ngân sách được thu hẹp, ngoại trừ tại Nhật Bản. Trong bối cảnh đó, khối công nghiệp hoá trở thành lực đẩy đáng kể cho kinh tế toàn cầu. Mức tăng trưởng dự kiến của các nền kinh tế phát triển năm nay là gần 1,9%. Kinh tế châu Âu đã bắt đầu nhìn thấy tia hy vọng trở lại sau hơn ba năm “đen tối”. Khu vực sử dụng đồng euro (Eurozone) bước vào một vùng đất an toàn hơn, giai đoạn suy thoái kéo dài kỷ lục đã qua. Khác với năm 2013, GDP không còn giảm sút mà sẽ tăng lên 1,3%. Đương nhiên, tỷ lệ đó quá thấp để hy vọng cải thiện thị trường lao động. Những thành viên kém cỏi nhất như Hy Lạp hay Tây Ban Nha vẫn phải đương đầu với một tỷ lệ thất nghiệp cao kỷ lục: trên 25% dân số trong tuổi lao động. Tuy nhiên, cuộc cứu trợ các nước là nạn nhân của khủng hoảng nợ như Hy Lạp, Bồ Đao Nha và Tây Ban Nha đã đi đến đích khi các nước hoặc đã ra khỏi hoặc tuyên bố sắp sửa kết thúc chương trình cứu trợ. Tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ đang tăng tốc, với các dự báo cho năm 2014 đều cao hơn mức 2% của năm 2013. Vấn đề ngân sách không còn là trở ngại đối với nền kinh tế, ít nhất là trong hai năm tới. Hoa Kỳ cũng đã đạt được tiến bộ lớn trong việc giảm nợ của các công ty và các hộ gia đình. Trong năm 2014, kinh tế Hoa Kỳ sẽ được hưởng lợi từ cuộc cách mạng dầu khí đá phiến, sự cải thiện của thị trường việc làm và nhà đất cũng như sự bình phục của lĩnh vực chế tạo. Cuộc cách mạng công nghệ về năng lượng và công nghệ sản xuất đã âm thầm thay đổi mọi sự, giúp kinh tế Hoa Kỳ năm 2014 tăng trưởng mạnh hơn và mạnh nhất trong khối công nghiệp hóa. Trong khi đó, các biện pháp kích thích kinh tế của Nhật Bản đã mang lại kết quả. Thủ tướng Shinzo Abe đã thực thi chính sách ba mũi tên được gọi là Abenomics, trong đó một mũi tên là nới lỏng tiền tệ nhằm mục tiêu đảo ngược tình trạng giảm phát. Còn các nền kinh tế mới nổi sẽ tăng trưởng nhanh hơn trong năm 2014, đạt gần 5%. Những gam màu tối: ẩn chứa những rủi ro Hầu hết các nền kinh tế phát triển được dự báo trong năm 2014 sẽ chỉ vừa vặn đạt mức 55 tăng trưởng tiềm năng hoặc thấp hơn. Các hộ gia đình, ngân hàng và doanh nghiệp nằm ngoài lĩnh vực tài chính ở hầu hết các nền kinh tế tiên tiến vẫn gánh số nợ lớn, đồng nghĩa với việc sẽ vẫn phải lo giảm bớt gánh nặng này. Trong khi đó, thâm hụt ngân sách và nợ công lớn sẽ buộc các chính phủ phải tiếp tục các cải cách tài chính quyết liệt. Đồng thời, sự thiếu rõ ràng về chính sách và quy định sẽ cản trở đầu tư tư nhân. Và những cải cách cơ cấu vốn cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng sẽ vẫn diễn ra một cách quá chậm. Với Hoa Kỳ, một số vấn đề có thể ảnh hưởng đến triển vọng tích cực của kinh tế nước này. Dù Fed có thể bắt đầu rút giảm dần quy mô của các gói kích thích kinh tê mà không khiến thị trường hoảng loạn, nhưng vẫn chưa rõ khi nào chương trình kích thích kinh tế sẽ được chấm dứt hoàn toàn và lãi suất sẽ tăng lên. Và mặc dù có những dấu hiệu cho thấy bế tắc chính trị tại Quốc hội Hoa Kỳ đã phần nào giảm bớt, nhưng không có nhiều tiến triển trong chính sách tài khóa do các trở ngại từ chính trường. Hơn nữa, mức thu nhập của các hộ gia đình Hoa Kỳ được dự báo vẫn chưa cải thiện hơn, đồng nghĩa với việc chi tiêu tiêu dùng không thể tăng mạnh. Điều đang gây nghi ngờ liệu kinh tế Hoa Kỳ đã có thể tự đứng vững mà không cần sự can thiệp của Fed. Tại Eurozone, dù rủi ro đã giảm, nhiều vấn đề căn bản vẫn chưa được giải quyết. Tăng trưởng kinh tế năm 2014 sẽ vẫn thấp, nợ công cao và vẫn đang tăng lên, khả năng cạnh tranh kém, chi phí nhân công giảm chậm, điều kiện tín dụng bị thắt do các ngân hàng vẫn đang phải giảm nợ, tiến triển về việc thành lập một liên minh ngân hàng còn hạn chế và nỗ lực cho việc hướng đến một liên minh tài chính vẫn bị dậm chân tại chỗ. Trong khi đó, các nước là nạn nhân của khủng hoảng nợ ở châu Âu như Hy Lạp, Ailen, Italia, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha cũng đang đứng trước một năm 2014 đầy thách thức. Trong số các nước này, trừ Tây Ban Nha, các nước còn lại đều có tỷ lệ nợ/GDP ở mức thấp nhất là 100%, trong khi tăng trưởng kinh tế ì ạch, tỷ lệ thất nghiệp cao và lĩnh vực ngân hàng vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Còn trong trường hợp Nhật Bản, nguy cơ tiềm tàng cho tăng trưởng kinh tế là kế hoạch tăng thuế tiêu dùng. Thủ tướng Nhật Bản Abe đã hứa hẹn có thêm những biện pháp kích thích để cân bằng với ảnh hưởng tiêu cực từ việc tăng thuế. Tăng thuế doanh thu là cách Nhật Bản giải quyết một vấn đề nghiêm trọng là nợ công dự kiến lên tới 230% GDP trong năm 2014. Việc trả lãi cho khoản nợ này có thể là một vấn đề và lợi tức trái phiếu chính phủ của Nhật Bản tăng mạnh có thể khiến chi phí trả lãi trở nên quá cao. Đó sẽ là thảm họa đối với kinh tế Nhật Bản. Trong khi đó, các nền kinh tế mới nổi vốn quen với dòng USD chảy từ Hoa Kỳ kể từ khi Fed bắt đầu nới lỏng chính sách tiền tệ năm 2008 có thể bị tác động. Nguyên nhân là việc Fed sẽ giảm dần và thu hồi biện pháp bơm tiền và còn có thể nâng lãi suất khỏi mức 0% hiện nay, và cuộc cách mạng về năng lượng và về sản xuất khiến giá thành sản xuất tại Hoa Kỳ giảm mạnh, đầu tư tại Hoa Kỳ lại hấp dẫn còn hơn là đầu tư vào các thị trường chỉ có ưu thế nhân công rẻ. Hậu quả của cả hai chuyện này là đồng USD lên giá, dòng tiền sẽ bị rút khỏi châu Á để trở về Hoa Kỳ, nơi sẽ cho lời cao hơn. Và cuối cùng, trong năm 2014 này, các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ gặp bài toán lưỡng 56 nan. Một là phải chấp nhận đà tăng trưởng thấp hơn và tiến hành cải cách từ cơ cấu, trước tiên là giảm mức tín dụng. Điều này có ảnh hưởng bất lợi cho kinh tế các nước khác vì làm giảm nhu cầu của một nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Hai là vẫn tiếp tục duy trì dòng tín dụng, dấn thân vào một vụ khủng hoảng tài chính khi núi nợ của ngân hàng và công ty đầu tư của chính quyền địa phương sụp đổ. Kịch bản này cũng sẽ gây hại cho các nước, nhất là các nền kinh tế bán nguyên nhiên vật liệu cho Trung Quốc. Trong khi đó, dù các cải cách kinh tế sâu rộng đã được công bố, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước này từ dựa vào đầu tư sang dựa vào tiêu dùng sẽ không sớm hoàn thành. Bức tranh đầu tư cho NC&PT toàn cầu Trong thế giới phụ thuộc vào công nghệ ngày càng tăng của chúng ta, việc tiếp tục hỗ trợ mạnh mẽ đầu tư cho NC&PT là điều cần thiết để duy trì và phát triển sức mạnh kinh tế của một quốc gia. Điều đã được khẳng định là sự thay đổi công nghệ đang được đẩy nhanh và nếu không có các công cụ, tri thức và chuyên môn để nắm bắt những thay đổi, thì một quốc gia sẽ nhanh chóng tụt hậu phía sau những nước đầu tư vào đổi mới sáng tạo. Điều quan trọng cần lưu ý là những ảnh hưởng lâu dài của đầu tư cho NC&PT và mối quan hệ gần gũi của nó đối với tăng trưởng kinh tế. Nhiều quốc gia và khu vực EU đã thiết lập các mục tiêu dài hạn cho NC&PT. Tình hình tăng trưởng kinh tế được coi là có tác động trực tiếp tới đầu tư cho NC&PT. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao thường đi kèm với tỷ lệ đầu tư cao cho NC&PT và tỷ lệ tăng trưởng NC&PT thường cao hơn tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là ở các nền kinh tế mới nổi, điển hình nhất là ở Trung Quốc với mức tăng trưởng đầu tư cho NC&PT từ hơn một thập kỷ nay luôn ở mức hai con số. Hiện nay mức đầu tư cho NC&PT của Trung Quốc đã bằng 60% của Hoa Kỳ và có thể vượt Hoa Kỳ vào năm 2022. Mặc dù tình hình kinh tế toàn cầu năm 2014 được dự báo sẽ ẩn chứa nhiều rủi ro và còn gặp nhiều khó khăn, nhưng theo Viện Battelle Memorial và Tạp chí NC&PT (R&D Magazine), đầu tư cho toàn cầu cho NC&PT được dự báo sẽ tăng trưởng 1,8%, tương đương 60 tỷ USD trong năm 2014, để đạt 1.618 tỷ USD. Trong khi tình hình kinh tế cũng như đầu tư cho NC&PT ở Hoa Kỳ, châu Âu và Nhật Bản vẫn được dự báo là tăng trưởng chậm, thì ngược lại ở các nền kinh tế mới nổi, đặc biệt là Trung Quốc, tăng trưởng kinh tế cao đã hỗ trợ mạnh mẽ cho đầu tư vào NC&PT. Trung Quốc vẫn nổi bật toàn cầu và nước này đang giữ một vai trò dẫn dắt tăng trưởng ở cả tăng trưởng kinh tế lẫn tăng trưởng đầu tư cho NC&PT của thế giới. Tăng trưởng kinh tế khả quan ở châu Á cũng sẽ tiếp tục thúc đẩy chi tiêu cho NC&PT ở châu lục này. Do môi trường kinh tế yếu kém hiện nay ở châu Âu nên việc gia tăng tăng mạnh trong đầu tư cho NC&PT sẽ khó thực hiện được trong vài năm tới. Đầu tư cho NC&PT của Hoa Kỳ được dự báo sẽ tăng 1% so với năm 2013 tính theo con số tuyệt đối, để đạt 465 tỷ USD, tương đương 2,8% GDP. Hoa Kỳ vẫn tiếp tục cam kết gia tăng đầu tư cho NC&PT để duy trì tăng trưởng kinh tế. Các ngành công nghiệp then chốt của Hoa Kỳ, như ngành ICT, ngành công nghiệp khoa học sự sống, ngành công nghiệp hàng không vũ trụ, an ninh và quốc phòng (có thể bị cắt giảm đầu tư NC&PT), ngành công 57 nghiệp năng lượng và ngành công nghiệp hóa chất và vật liệu tiên tiến vẫn sẽ đứng đầu thế giới và thu hút lượng lớn đầu tư NC&PT. Tuy nhiên, đầu tư NC&PT trong một số ngành này ở các nước mới nổi, các nước BRIC đang tăng mạnh, đặc biệt là ở Trung Quốc đang thách thức vị trí thống trị của Hoa Kỳ. Thế giới đang chứng kiến xu hướng dịch chuyển năng lực đầu tư, nghiên cứu và thương mại hóa tới những nơi tối ưu nhất, ở đó có những nước cam kết NC&PT như là một chiến lược quốc gia để ưu tiên đầu tư cho nó một cách mạnh mẽ và lâu dài, như Trung Quốc, nước đang đầu tư cho NC&PT lớn thứ hai thế giới. Trong thế giới ngày nay, trình độ và năng lực KH&CN của một quốc gia là yếu tố quyết định quyết định năng lực cạnh tranh quốc tế. Việc ứng dụng nhanh chóng những đổi mới công nghệ, cũng như tận dụng có hiệu quả những thành tựu mới nhất của NC&PT trong các lĩnh vực công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, đã và đang đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế quốc gia và quốc tế. Mặc dù sẽ còn nhiều khó khăn và thách thức lâu dài đối với kinh tế toàn cầu, nhưng đầu tư cho NC&PT, đổi mới sáng tạo sẽ vẫn tiếp tục tăng trưởng. Điều đó cho thấy tầm quan trọng ngày càng tăng của NC&PT, bởi chỉ có nó mới có thể sẽ giúp cho nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng như kinh tế toàn cầu tăng trưởng ổn định và bền vững trong tương lai. Các chuyên gia đều thừa nhận, dù NC&PT không phải là một công cụ có thể nhanh chóng kích hoạt ngay được sự tăng trưởng kinh tế, nhưng nếu có chính sách và đầu tư cần thiết cho NC&PT thì nó sẽ giúp một nền kinh tế tránh tụt hậu hoặc có thể duy trì và nâng cao sức cạnh tranh trong tương lai. Việc nghiên cứu kinh nghiệm phát triển KH&CN nói chung và đầu tư cho NC&PT nói riêng của các nước trên thế giới hiện nay và trong tương lai, luôn luôn có ý nghĩa thiết thực đối với tất cả các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Dự báo kinh tế Việt Nam 2014 Các tổ chức đều dự báo kinh tế Việt Nam sẽ có dấu hiệu phục hồi trong năm 2014, cụ thể IMF và WB cùng đưa ra mức dự báo tăng trưởng đạt 5,4%, ADB dự báo 5,5% (mức tăng trưởng cao nhất kể từ năm 2012). Đà tăng trưởng xuất khẩu trong năm 2013 cùng bước tiến trong việc thực hiện các biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước của Chính phủ là hai trong số những nguyên nhân chính khiến các tổ chức quốc tế nâng mức dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2014. WB cho rằng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ ổn định ở mức 5,4% năm 2014 và 2015, 5,5% năm 2016, ngang bằng với Inđônêxia, nhưng cao hơn Thái Lan và Malaixia. Mức tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2004 theo dự báo của WB và IMF vẫn thấp hơn một chút so với mức 5,8% trong Chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 2014 được nêu trong Nghị quyết 01/NQ-CP của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2014. Các chỉ tiêu chủ yếu của năm 2014 như phấn đấu đạt tốc độ tăng GDP khoảng 5,8%; kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 10%; tỷ lệ nhập siêu khoảng 6% kim ngạch xuất 58 khẩu; tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) khoảng 7%; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 30% GDP; tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước 5,3% GDP. Tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,7- 2%, riêng các huyện nghèo giảm 4%; tạo việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động;... Cũng giống như nhiều quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam đang nằm trong “vòng xoáy” của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế nhằm đưa nền kinh tế vượt qua giai đoạn khó khăn, hướng tới tăng trưởng hiệu quả và bền vững hơn trong thời gian tới. WB nhận định kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi và sự chuyển đổi này là cần thiết trong bối cảnh nền kinh tế bộc lộ những yếu kém. “Chương trình đổi mới lần thứ nhất của Việt Nam đã đem lại những thay đổi lớn lao cho nền kinh tế. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn nhiều bất cập. Chương trình cải cách nền kinh tế mới của Việt Nam cần phải giải quyết những vấn đề này”, chuyên gia kinh tế của WB tại Việt Nam, ông Sandeep Mahajan nói và cho rằng thách thức đối với quá trình chuyển đổi của Việt Nam hiện nay đó chính là những thách thức phải đối mặt đến từ quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Các tổ chức đều dự báo kinh tế Việt Nam sẽ có dấu hiệu phục hồi trong năm 2014. Đà tăng trưởng xuất khẩu trong năm 2013 cùng bước tiến trong việc thực hiện các biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước của Chính phủ là hai trong số những nguyên nhân chính khiến các tổ chức quốc tế nâng mức dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2014. Những biến động và thách thức của kinh tế toàn cầu đã và đang tác động đến Việt Nam trên các kênh chủ yếu sau: Thứ nhất, trong năm 2014, việc Hoa Kỳ điều hành chính sách tiền tệ bằng công cụ lãi suất có thể gây tác động nhất định đến thị trường tài chính ngân hàng của Việt Nam. Với tỷ giá trong nước được khống chế bằng biên độ cố định, việc tăng lãi suất bằng USD có thể làm tăng lãi suất điều hành đồng nội tệ trong ngắn hạn. Trong điều kiện Ngân hàng Nhà nước đang thực hiện những biện pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp thì việc tăng lãi suất có thể có tác động tiêu cực đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Ngoài ra, theo IMF, các nước châu Á trong đó có Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh lãi suất của Hoa Kỳ. Thêm vào đó, việc tăng lãi suất của Fed sẽ tạo hiệu ứng rủi ro rút vốn gián tiếp trong ngắn hạn và vốn trực tiếp trong dài hạn ra khỏi các nước mới nổi và đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Do đó, cần có biện pháp chủ động, linh hoạt hơn trong điều hành chính sách tỷ giá và lãi suất, nhằm ứng phó với các cú sốc về phản ứng chính sách tiền tệ từ Hoa Kỳ. Thứ hai, trước thực tế kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường phát triển và mới nổi (đặc biệt là Hoa Kỳ) ngày càng tăng trong thời gian qua, Việt Nam có thể chịu nhiều ảnh hưởng từ việc điều chỉnh chính sách tài khóa của Hoa Kỳ. Nợ công vẫn tăng trong các năm tới (theo dự báo của các tổ chức) làm gia tăng khả năng thắt chặt tài khóa hơn nữa (thông qua các biện pháp tăng thuế) sẽ tác động trực tiếp lên cầu hàng hóa nhập khẩu tại các nước phát triển. 59 IMF đã cảnh báo về nguy cơ truyền dẫn rủi ro tài khóa thông qua kênh thương mại quốc tế từ các nước phát triển như Hoa Kỳ và Eurozone sang các nước đang phát triển châu Á, trong đó có Việt Nam. Tương tự, các nước mới nổi (trong đó có Ấn Độ) đang tiến hành điều chỉnh tăng giá một số hàng hóa như thực phẩm (mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam) cũng sẽ gây khó khăn nhất định đến việc tiêu thụ hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tại các thị trường này. Thứ ba, thương mại toàn cầu tăng trưởng chậm lại có thể làm giảm kim ngạch xuất khẩu của nước ta trong những năm tới. Kim ngạch xuất khẩu giảm sẽ gây ra rủi ro đối với cán cân thanh toán, giảm dự trữ ngoại tệ và tác động tới chính sách điều hành tỷ giá, đặc biệt là ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Xu hướng tạo dựng hàng rào bảo hộ thương mại là nguyên nhân khiến tăng trưởng thương mại toàn cầu có dấu hiệu chậm lại trong năm 2013 và có thể chậm hơn trong các năm tới. Về đầu tư cho NC&PT của Việt Nam Trong năm 2013, theo Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới, Việt Nam đứng thứ 76/142 quốc gia về năng lực đổi mới sáng tạo trong khi nếu xét về kinh tế thì chúng ta đứng thứ 132. Việt Nam cũng là quốc gia được xếp hạng thứ 57 trên thế giới về công bố quốc tế và trích dẫn công bố quốc tế... Năm 2013 cũng đã chứng kiến những điểm sáng về đầu tư cho NC&PT của doanh nghiệp như Tập đoàn Viễn thông quân đội (Viettel) dành 10% lợi nhuận trước thuế, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam dành khoảng 2.000 tỷ và nhiều đơn vị khác trong và ngoài nhà nước đã dành kinh phí cho Quỹ phát triển KH&CN. Từ quỹ này, họ mời các nhà khoa học tham gia vào hoạt động nghiên cứu, sản xuất và gặt hái được những thành công đáng kể như Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông... Việc đầu tư thông qua hợp tác quốc tế cũng rất tốt. Năm 2013, Việt Nam đã khởi động dự án FIRST (Dự án đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ) do World Bank tài trợ 100 triệu USD và vốn đối ứng của Việt Nam là 10 triệu USD; Dự án IPP (Dự án đổi mới sáng tạo Phần Lan-Việt Nam), nhằm tăng cường Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia (NIS) của Việt Nam, giai đoạn 1 (2009-2013) với trị giá hơn 7 triệu Euro, giai đoạn hai là 10 triệu Euro... Ở Việt Nam, nếu nhìn vào con số tuyệt đối là khoảng 700 triệu USD hiện nay dành cho KH&CN thì quả thực là con số nhỏ bé, tuy nhiên xét về con số tương đối, tức là tỷ lệ 2% tổng chi ngân sách quốc gia, tương đương với khoảng 0,5-0,6% GDP quốc gia thì điều đó đã thể hiện sự quan tâm của nhà nước với KH&CN không thua kém nhiều quốc gia khác, kể cả những quốc gia phát triển. Nhiều quốc gia phát triển cũng chỉ dành được 0,3-0,4% GDP từ ngân sách nhà nước cho KH&CN. Điểm khác biệt ở đây chính là sự đầu tư của xã hội, đặc biệt là doanh nghiệp cho KH&CN còn ít nên tổng đầu tư xã hội cho KH&CN chỉ xấp xỉ 1% GDP quốc gia. Để giải quyết những vấn đề trên và để KH&CN thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt cho phát triển nhanh và bền vững đất nước, thời gian qua Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, đường lối, chính sách, cơ chế phát triển KH&CN, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 60 Năm 2013, Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ 01/01/2014. Luật ban hành đã tiếp cận thông lệ quốc tế trong hoạt động KH&CN, đặc biệt là việc tổ chức thực hiện các đề tài về dự án KH&CN và cơ chế đầu tư, cơ chế tài chính cho KH&CN. Lần đầu tiên trong Luật bắt buộc doanh nghiệp nhà nước phải có trách nhiệm đầu tư cho hoạt động KH&CN thông qua việc dành một phần lợi nhuận trước thuế tối thiểu từ 3-8% để thành lập quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp. Cũng lần đầu tiên, Bộ KH&CN có thẩm quyền trong việc đề xuất, phân bổ dự toán ngân sách hàng năm cho KH&CN. Cũng lần đầu tiên, Luật KH&CN cho phép áp dụng cơ chế của Quỹ phát triển KH&CN trong việc tài trợ cho các đề tài dự án nghiên cứu cũng như cơ chế khoán chi đến sản phẩm cuối cùng cho các đề tài, dự án. Có thể nói rất nhiều “lần đầu tiên” mà mỗi lần như vậy cơ hội và thách thức luôn đan xen. Từ đây, các nhà khoa học được đặt trong điều kiện thuận lợi để nghiên cứu, để ứng dụng trong thực tiễn... Và cũng từ đây kết quả nghiên cứu được đánh giá phản ánh sinh động đời sống KH&CN và khẳng định vai trò then chốt đóng góp cho phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. Biên soạn:  ThS. Đặng Bảo Hà  ThS. Nguyễn Lê Hằng  ThS. Phùng Anh Tiến TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chính phủ thống nhất các chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 2014, Báo Diễn đàn Doanh nghiệp điện tử, 3/1/2014; 2. Để KH&CN trở thành động lực then chốt: Quyết liệt vượt qua rào cản tư duy cũ, thắng sức ỳ của cơ chế cũ, Báo Đại biểu nhân dân, 5/2/2014; 3. “2014 là năm hành động của ngành khoa học và công nghệ", Vietnamplus.vn, 1/2/2014 4. Triển vọng kinh tế thế giới năm 2014 và những tác động đến Việt Nam, Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số 1 – 2014; 5. Global Economic Prospects, 1/2014, The World Bank; 6. World Economic Situation and Prospects 2014, United Nations; 7. World Economic Outlook (Update), 1/2014, International Monetary Fund (IMF); 8. 2013 Global R&D Forecast, 12/2013, Battelle and R&D Magazine; 9. Le budget coréen consacré à la R&D pour 2014 sera de 7,9 milliards d'euros, 3/1/2014 ; 10. Allemagne: 8,5 milliards d'euros de financement public de la recherche en 2012, 3/1/2014.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftai_lieu_the_gioi_2014_trien_vong_kinh_te_va_dau_tu_cho_nghi.pdf