MYCOBACTERIA KHÔNG ĐIỂN HÌNH
Tên Các Biểu Hiện Lâm Sàng Thường Gặp Điều Trị (tổng quan) Chú Ý
M. avium complex (bao gồm M. avium
và M. intracellulare)
1. Ở bệnh nhân AIDS: nhiễm khuẩn lan tỏa kèm
sốt cao, sụt cân, viêm gan và tiêu chảy
2. Ở những người có miễn dịch:
a. Bệnh hang phổi ở thùy trên ở nam giới hút
thuốc
b. Thâm nhiễm dạng nốt ở thùy giữa và dưới
của phổi và bệnh giãn phế quản ở phụ nữ độ
tuổi trung niên không hút thuốc.
1. Bệnh nhiễm khuẩn ở bệnh nhân AIDS:
clarithromycin, rifampin hoặc rifabutin và
ethambutol
2. Bệnh phổi: clarithromycin, rifampin, ethambutol
3. Bệnh viêm hạch: phẫu thuật cắt bỏ
1. Là nguyên nhân thường gặp của Sốt
không rõ nguyên nhân (FUO) ở những
bệnh nhân AIDS.
2. Là nguyên nhân thường gặp nhất của
bệnh viêm phổi do nhiễm NTM.
M. kansasii 1. Bệnh phổi: bệnh hang phổi ở thùy trên (biểu
hiện tương tự như bệnh lao).
2. Bệnh lan tỏa (suy giảm miễn dịch)
Isoniazid, rifampin, ethambutol Là nguyên nhân thường gặp thứ 2 trong
bệnh viêm phổi do nhiễm NTM ở Mỹ
M. abscessus 1. Bệnh phổi
2. Bệnh ở da, mô mềm và xương
1. Bệnh phổi: thường yêu cầu phải phẫu thuật kết
hợp với thuốc kháng sinh để điều trị (cần có kháng
sinh đồ để giúp định hướng điều trị)
2. Nhóm macrolid (clarithromycin, azithromycin)
kết hợp với các thuốc tiêm tĩnh mạch khác
(amikacin, cefoxitin hoặc imipenem).
Nuôi cấy nhanh: thường phát triển trong
môi trường nuôi cấy < 7 ngày
M. fortuitum 1. Bệnh ở da, mô mềm và xương Hai nhóm có hiệu quả trong thực nghiệm (in vitro):
amikacin, ciprofloxacin, sulfonamid, clarithromycin
và nhiều loại khác
1. Nuôi cấy nhanh
2. Là loại lây truyền thường gặp trong
phòng thí nghiệm.
3. Thường cư trú ở những bồn rửa chân dơ
bẩn
M. chelonea 1. Bệnh ở da, mô mềm và xương
2. Bệnh lan tỏa
3. Viêm giác mạc
Hai nhóm có hiệu quả trong thực nghiệm:
tobramycin, clarithromycin, linezolid, imipenem,
amikacin
Thường đáp ứng tốt với điều trị
M. marinum Bệnh ở da, mô mềm và xương (“U Hạt Bể Bơi”) Thường sử dụng hai nhóm: clarithromycin,
ethambutol, rifampin
Phổ biến ở nước ngọt và nước mặn
M. ulcerans “Loét Buruli”: gây nên loét hoại tử da Mở ổ phẫu thuật thường kết hợp với clarithromycin
và rifampin
Được phát hiện ở rừng mưa nhiệt đới
221 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu Vi sinh lâm sàng (Phần 1), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có biểu hiện sốt trong khoảng 8 ngày,
nhưng rồi sau đó sẽ lại có cơn tái phát bệnh với những đặc điểm tương tự trong 3-6 ngày tiếp
theo. Các cơn tái phát sẽ tiếp tục xảy ra, mặc dù thời gian xảy ra tái phát này dần ngắn lại, các
triệu chứng nhẹ đi cũng như khoảng cách giữa những cơn sốt cũng kéo dài hơn.
Nhóm Netter. Study, study more, study forever!
190
Sự Biến Đổi Kháng Nguyên: Chiếc Chìa Khóa Để
Gây Bệnh Tái Phát
14.12. Vậy chúng đặt ra câu hỏi rằng: “Tại sao lại tái phát?”. Vậy thì
hãy kiểm tra “người bạn” đến từ bên ngoài của chúng ta, Boris (trong
từ Borrelia), một bậc thầy về nghệ thuật “biến đổi kháng nguyên –
antigenic variation”. Ban đầu, hắn ta được ngụy trang rất tốt ở trong
máu, nhưng các kháng thể cũng được sảm xuất ra rất sớm bởi hệ thống
miễn dịch của túc chủ. Các kháng thể đặc hiệu này có thể liên kết đặc
hiệu với các protein bề mặt của Borrelia và do đó loại bỏ được Borrelia
ở trong máu. Nhưng tên trộm lén lút Boris này nhanh chóng thay đổi
các protein bề mặt (surface protein) của hắn ta, cho nên các kháng thể
không còn nhận ra được. Bây giờ Boris có thể an toàn để sinh sôi mà
không có sự can thiệp của kháng thể, từ đó dẫn đến sốt. Ngay sau khi
hệ thống miễn dịch nhận ra được rằng là có các protein mới lạ ở trong
máu, thì hệ thống miễn dịch này lại tạo ra các kháng thể đặc hiệu với
các protein bề mặt mới này của Boris, nhưng Boris đã chuẩn bị sẵn cho
điều này và một lần nữa hắn ta lại nhanh chóng thay đổi các protein bề
mặt. Chính sự biến đổi kháng nguyên đã cho phép Boris tiếp tục gây tái
phát trong nhiều tuần.
Việc chẩn đoán được dựa trên sự nuôi cấy máu (nuôi cấy trong môi trường đặc biệt) chỉ trong
khoảng thời gian phát sốt (vì nuôi cấy máu thường cho kết quả âm tính ở những bệnh nhân không
có sốt). Nhuộm máu ngoại vi (peripheral blood) bằng phương pháp Wright và Giemsa trong
khoảng thời gian phát sốt có thể cho thấy xoắn khuẩn giữa các tế bào hồng cầu. Xem bằng kính
hiển vi trường tối cũng là một phương pháp hữu ích.
Điều trị bằng kháng sinh Doxycyclin hay Erythromycin là sự lựa chọn khá hữu hiệu.
LEPTOSPIRA
Leptospira là một xoắn khuẩn hiếu khí, có kích thước dài và mảnh. Chúng có cái móc ở một
hoặc cả hai đầu làm cho chúng có hình dạng giống như cái “kẹp nước đá”. Hiện nay, Leptospira
được chia thành 2 chủng: Một trong số đó, Leptospira interrogans, là gây bệnh trên con người và
được chia theo phương pháp huyết thanh thành 23 nhóm huyết thanh (phân nhóm) và hơn 250
chủng huyết thanh (tiểu phân nhóm).
Leptospira được tìm thấy trong nước tiểu của chó, chuột, gia súc và các loài động vật hoang
dã ở trên khắp thế giới. Các xoắn khuẩn có thể xâm nhập vào cơ thể qua da hay lớp màng nhầy bị
trầy xước khi con người tiếp xúc với nước tiểu hoặc trực tiếp hoặc do bơi lội trong nguồn nước bị
nhiễm khuẩn. Hiện nay sự bùng phát bệnh xoắn khuẩn vàng da (leptospirosis) thường có liên
quan đến các trò chơi mạo hiểm vì chúng hay xảy ra do việc bơi qua các con sông ở những vùng
Nhóm Netter. Study, study more, study forever!
191
xa xôi hay đi bộ trong những khu đầm lầy đã nhiễm Leptospira từ nước tiểu của những loài động
vật hoang dã.
Về mặt lâm sàng, gồm có 2 giai đoạn. Ở giai đoạn đầu tiên hay giai đoạn nhiễm xoắn
khuẩn huyết (leptospiremic phase) vi khuẩn xâm nhiễm vào trong máu và dịch não tủy (CSF)
gây nên cơn sốt cao đột ngột, đau đầu và đau nhức cơ dữ dội (cơ đùi và cơ lưng dưới). Về mặt
điển hình thì bệnh nhân có kết mạc mắt có màu đỏ và mắc chứng sợ ánh sáng (photophobia).
Khoảng 1 tuần sau thì có một khoảng thời gian ngắn bệnh nhân không có biểu hiện sốt và khi đó
sốt cùng các triệu chứng ở lúc ban đầu lại tái diễn, đây là giai đoạn 2 hay là giai đoạn miễn dịch
(immune phase). Ở giai đoạn này có xuất hiện các kháng thể IgM và bệnh nhân có thể tiến triển
chứng kích thích màng não (meningismus) và xét nghiệm dịch não tủy có thể thấy số lượng bạch
cầu tăng cao ở hầu hết các bệnh nhân.
Leptospira interrogans (thuộc nhóm huyết thanh điển hình icterohaemorrhagiae, nhưng cũng
có thể là thuộc nhóm huyết thanh khác) có thể gây nên một bệnh lý quan trọng được gọi là bệnh
lý Weil (Weil’s disease), hay vàng da do nhiễm khuẩn (infectious jaundice), trong đó bao gồm
suy thận, vàng da do viêm gan, thay đổi trạng thái tâm thần (metal status change) và xuất huyết ở
nhiều cơ quan.
Việc chẩn đoán được dựa vào việc nuôi cấy (trên môi trường đặc biệt) máu và dịch não tủy
trong giai đoạn sốt đầu tiên. Ở giai đoạn thứ 2 và sau nhiều tháng thì có thể nuôi cấy xoắn khuẩn
từ nước tiểu.
Chỉ có một vấn đề ở đây đó là việc điều trị phải được tiến hành nhanh chóng, trước khi bất kỳ
một xét nghiệm chẩn đoán nào có kết quả. Để đưa ra chẩn đoán xác định chúng ta phải tổng hợp
tiền sử (như là tiếp xúc với động vật hay bơi lội trong vùng nước có các loài động vật sinh sống),
các triệu chứng gợi ý về bệnh vàng da do Leptospira và các xét nghiệm cho thấy các cơ quan bị
ảnh hưởng (các xét nghiệm cho thấy có tăng chức năng năng gan và protein trong nước tiểu).
Điều trị nhanh chóng cho bệnh nhân bằng kháng sinh penicillin hoặc doxycyclin.
Hiện nay có các xét nghiệm chẩn đoán mới hơn bao gồm như tìm kháng thể đơn dòng
(monoclonal antibody) dựa vào ELISA để phát hiện các kháng nguyên Leptospira trong nước
tiểu và phản ứng chuỗi polymerase (PCR) để phát hiện ADN của vi khuẩn trong huyết thanh,
dịch não tủy và nước tiểu.
14.13. Bảng Tóm Tắt Về Các Xoắn Khuẩn
Nhóm Netter. Study, study more, study forever!
192
Nhóm Netter. Study, study more, study forever!
192
Xoắn Khuẩn
Gram(-)
Cư Trú Truyền Nhiễm
Chuyển Hóa và
Hình Dạng
Độc Lực Lâm Sàng Chẩn Đoán Điều Trị
Tổng quát về
xoắn khuẩn
1. Đa phần là sinh sản
bằng phân chia cắt
ngang
2. Di động: 6 sợi trục
cuộn xung quanh vi
khuẩn giữa lớp
peptido-glycan và lớp
màng ngoài tế bào. Sự
co kéo của sợi trục làm
cho xoắn khuẩn chuyển
động
Không có ngoại
độc tố!!!
Không thể chẩn đoán trong
môi trường nhân tạo (ngoại trừ
Leptospira)
Treponema
pallidum
Chỉ có ở con
người
Qua đường tình
dục
1. Vi hiếu khí
2. Hình dạng: hình
xoắn ốc, cứng và dày
3. Rất nhạy cảm với
nhiệt độ cao
Di động GIANG MAI
A. Giai đoạn 1: săng giang mai
không đau (loét da)
B. Giai đoạn 2:
1. Phát ban ở lòng ban tay và
lòng bàn chân
2. Sẩn phì đại: không đau, tổn
thương giống như mụn cơm, nổi ở
những vùng ẩm ướt (âm hộ, bìu)
3. Hệ TKTW, thận, mắt, xương
và/hoặc khớp có thể bị ảnh
hưởng.
C. Giai đoạn tiềm tàng: khoảng
25% số bệnh nhân tái phát trở lại
giai đoạn 2
D. Giai đoạn 3 (33%):
1. Gôm ở da và xương
2. Giang mai tim mạch
3. Giang mai thần kinh: có thể có
đồng tử Argyll-Robertson
E. Giang mai bẩm sinh: nhiễm
giang mai từ trong tử cung
1. Tổn thương da có thể được
kiểm tra bằng kính hiển vi
trường tối, miễn dịch huỳnh
quang, ELISA, nhuộm bạc.
2. Xét nghiệm xoắn khuẩn
không đặc hiệu: VDRL, RPR.
3. Xét nghiệm xoắn khuẩn đặc
hệu: FTA-ABS, MHA-TP. Tất
cả phụ nữ có thai nên được
cho xét nghiệm VDRL vì điều
trị bằng kháng sinh trước
tháng 4 thai kỳ giúp ngăn
ngừa được giang mai bẩm
sinh.
4. Phản ứng chuỗi polymerase
có tác dụng phát hiện được
ADN của vi khuẩn.
1. Penicillin G
2. Erythromycin
3. Doxycyclin
=> phản ứng Jaris-
ch-Herxheimer: có
các triệu chứng
nghiệm trong ngay
sau khi bắt đầu sử
dụng thuốc kháng
sinh
Nhóm Netter. Study, study more, study forever!
193
Treponema
pallidum phân
loài endemic-
um
Khu vực sa
mạc Châu
Phi và Trung
Đông
Dùng chung các
đồ vật sinh hoạt
và ăn uống
Không thể phân biệt
hình dạng và huyết
thanh học của T.
pallidum
Di động BEJEL
A. Các tổn thương ở giai đoạn 1
và 2: xảy ra ở niêm mạc miệng
B. Các tổn thương ở giai đoạn 3:
Gôm ở da và xương
VDRL và FTA-ABS đều
dương tính
Penicillin
Treponema
pertenue
Khu vực
nhiệt đới ẩm
Từ người sang
người hay qua
ruồi
Không thể phân biệt
hình dạng, di truyền và
huyết thanh học của T.
pallid-um
Di động YAWS
A. Các tổn thương ở giai đoạn 1
và 2: Các tổn thương loét ở da
gần vùng bị nhiễm khuẩn đầu
tiên-thường trông giống với sẩn
phì đại
B. Các tổn thương ở giai đoạn 3:
gôm ở da và xương (dẫn đến biến
dạng khuôn mặt trầm trọng)
VDRL và FTA-ABS đều
dương tính
1. Azithromycin
2. Penicillin
3. Phẫu thuật thẩm
mỹ để sửa chữa lại
khuôn mặt
Treponema
carateum
Nam Mỹ Từ người sang
người
Không thể phân biệt
hình dạng và huyết
thanh học của T.
pallidum
Di động PINTA
Các tổn thương dạng phẳng có
màu đỏ và xanh, KHÔNG loét
VDRL và FTA-ABS đều
dương tính
Penicillin
Borrelia
burgdorferi
1. Chuột
chân trắng
2. Nai đuôi
trắng
Vec-tơ = Ve
Ixodes
1. Ixodes sca-
pularis: Đông
và Trung Tây
nước Mỹ
2. Ixodes paci-
ficus: bờ biển
phía Tây nước
Mỹ
Vi hiếu khí LYME
A. Giai đoạn 1: Ban đỏ mạn tính
di chuyển (ECM)
B. Giai đoạn 2:
1. Nhiều ECM nhỏ hơn
2. Thần kinh: Viêm màng não vô
khuẩn, liệt dây TK sọ (liệt Bell),
bệnh TK ngoại biên.
3. Tim: cơn block tim thoáng qua
hoặc viêm cơ tim
4. Có nhiều cơn tấn công ngắn lên
các khớp lớp (khớp gối)
C. Giai đoạn 3
1. Viêm khớp mạn tính
2. Bệnh não
1. Nồng độ cao của các kháng
thể kháng Borrelia burgdorferi
có thể được phát hiện bởi
ELISA
2. Phương pháp miễn dịch
Western Blot
1. Doxycyclin
2. Amoxicillin
3. Ceftriaxon cho
bệnh về TK
Nhóm Netter. Study, study more, study forever!
194
18 chủng khác
của Borrelia
Các loài gậm
nhấm ở
những vùng
chưa bị phá
hoại trong
khu vực phía
Tây nước
Mỹ
Vec-tơ:
1. Borrelia re-
currentis: rận
2. Các chủng
khác của Borr-
elia: ve
Vi hiếu khí 1. Biến đổi kháng
nguyên: sự biến
đổi hình dạng các
lipoprotein Vmp
ở lớp màng ngoải
cho phép Borrelia
tránh khỏi sự
opsonin hóa và sự
thực bào
2. Không có độc
tố!!!
SỐT TÁI PHÁT
1. Sốt định kỳ cách nhau khoảng
8 ngày
2. Sốt cao kèm ra nhiều mồ hôi
3. Phát ban và phì đại lác (sple-
nomegaly)
4. Đôi khi có liên quan đến TK
1. Cấy máu trong khoảng thời
gian có sốt
2. Xét nghiệm máu được lấy
ra trong thời kỳ có sốt ở trong
vi trường tối
3. Nhuộm màu máu ngoại vi
bằng phương pháp Giemsa
hay Wright
4. Huyết thanh học
1. Doxycyclin
2. Erythromycin
3. Penicillin G
Leptospira
interrogans
23 nhóm huyết
thanh
250 chủng
huyết thanh
Lây từ động
vật sang
(chó, mèo,
gia súc và
các loài
động vật
hoang dã)
Tiếp xúc với
nước tiểu hay
thịt của động vật
bị nhiễm khuẩn.
Vi khuẩn xâm
nhiễm qua vùng
da bị tổn thương
(vd: chân) hay
qua lớp màng
nhầy (uống phải
nước bị nhiễm
khuẩn).
1. HIẾU KHÍ
2. Dạng xoắn ốc, có
móc ở trên cả 2 đầu
(“kẹp nước đá”).
3. Hai sợi trục quấn
xung quanh và chạy
dọc theo chiều dài của
xoắn khuẩn ở bên dưới
lớp lớp màng ngoài
(tiên mao chu chất)
1. Giai đoạn 1 (nhiễm xoắn khuẩn
huyết): xoắn khuẩn đi vào máu và
dịch não tủy gây nên cơn sốt cao
đột ngột, đau đầu và đau cơ
nghiêm trọng (cơ lưng và đùi).
2. Giai đoạn 2 (miễn dịch): liên
quan đến sự xuất hiện của IgM và
còn liên quan đến sự tái phát của
các triệu chứng trên, thường kèm
theo chứng kích thích màng não
(meningismus)
3. BỆNH WELL: là trường hợp
nghiêm trọng của bệnh xoắn
khuẩn vàng da có kèm suy thận,
viêm gan (và vàng da), thay đổi
trạng thái TK và xuất huyết ở
nhiều cơ quan
1. Tuần đầu tiên: nuôi cấy
máu hoặc dịch não tủy (ở môi
trường phòng thí nghiệm hoặc
tiêm vào động vật)
2. Tuần thứ 2 cho đến nhiều
tháng: nuôi cấy nước tiểu
3. Hiếm khi kính hiển vi
trường tối có hiệu quả (không
khuyến khích)
4. Tìm KT dựa vào ELISA để
phát hiện các KN Leptospira
trong nước tiểu
5. PCR để phát hiện ADN của
vi khuẩn trong huyết thanh,
dịch não tủy và nước tiểu
1. Penicillin G
2. Doxycyclin
Nhóm Netter. Study, study more, study forever!
195
VI KHUẨN KHÁNG ACID
CHƯƠNG 15. MYCOBACTERIUM
Mycobacterium bao gồm có 2 chủng mà hầu hết chúng ta đều đã được nghe nói tới:
Mycobacterium tuberculosis, gây bệnh lao (tuberculosis), và Mycobacterium leprea, gây bệnh
phong (leprosy). Mycobacterium còn bao gồm một nhóm phụ được phân loại như là vi khuẩn lao
không điển hình (nontuberculous mycobacteria hay NTM) trong đó bao gồm hơn 100 chủng vi
khuẩn. Trong đó NTM có thể không phải là một cái tên quen thuộc bởi vì bệnh lý do NTM ít phổ
biến hơn so với bệnh lao và bệnh phong. Mycobacteria là loại trực khuẩn có vách tế bào lipid
dày. Với vách lipid dày như vậy đã l àm cho chúng kháng acid trong quá trình nhuộm. Cả
Mycobacteria và Nocardia đều thuộc một nhóm nhỏ vi sinh vật kháng acid (acid-fast oganism)
và là hai vi khuẩn chủ yếu mà ta cần phải ghi nhớ.
Trong phương pháp nhuộm kháng acid (acid-fast stain), ví dụ như một mẫu đờm, thì chúng sẽ
được phủ lên chất nhuộm đỏ carbolfuchsin và được đun nóng để giúp thuốc nhuộm thấm qua dễ
dàng hơn. Dùng cồn acid (95% ethanol và 3% HCl) đổ lên mẫu vật và sau đó ta dùng chất nhuộm
tương phản (counter-stain) xanh methylen. Vách tế bào lipid của Mycobacterium không bị phá
hủy khi sử dụng cồn acid, cho nên chất nhuộm đỏ sẽ không bị rữa sạch. Vì thế các vi sinh vật
kháng acid sẽ chống lại được sử khử màu của cồn acid, chất nhuộm đỏ được giữ bền vững, trong
khi các vi khuẩn không kháng acid sẽ bị mất màu chất nhuộm đỏ và bắt màu xanh.
15.1. Hãy tưởng tượng một chiếc xe thể thao màu đỏ
(red) rất bền bỉ (fast)* để ghi nhớ về vi khuẩn kháng acid
bắt màu chất nhuộm đỏ.
Mycobacterium tuberculosis
(Bệnh Lao)
Tổ chức Y tế Thế giới đã thông báo đã có hơn 9 triệu
trường hợp mới mắc bệnh lao trên toàn thế giới và mỗi
năm có 2 triệu người tử vong do bệnh lao. Vào giữa năm
1980, tỷ lệ mắc lao lần đầu tiên đã gia tăng tại Mỹ sau
nhiều thập kỷ suy giảm. Sự gia tăng này đã trùng hợp với
đại dịch HIV/AIDS mới nổi lên. Những người nhiễm HIV bị suy giảm khả năng bảo vệ cần thiết
của hệ miễn dịch trung gian quan tế bào để chống lại bệnh lao. Có khoảng 1/3 số người nhiễm
HIV trên thế giới còn là nơi trú ẩn của Mycobacterium tuberculosis!
Đây là một trực khuẩn kháng acid hiếu khí bắt buộc, điều đó có nghĩa là chúng hầu như lây
nhiễm vào phổi, nơi có rất nhiều khí oxy. Mycobacterium tuberculosis phát triển rất chậm, mất
*
Tác giả sử dụng từ đồng âm từ “Fast” (nhanh) để cố ý nhấn mạnh sự “bền bỉ” của lớp lipid của vi khuẩn lao với
cồn acid. Đa phần các tài liệu đều dùng từ “kháng” với acid thì cũng đều có ý nghĩa tương tự nhau. -Nhóm dịch-
Nhóm Netter. Study, study more, study forever!
196
khoảng 6 tuần phát triển thì mới có thể quan sát được chúng.
Có một lớp lipid mà chỉ có ở những vi sinh vật kháng acid và có liên quan đến độc lực của vi
khuẩn lao-mycosides. Thuật ngữ này có nghĩa như sau:
1) Acid mycolic là một acid béo có trọng lượng phân tử lớn.
15.2. Cấu trúc hóa học của acid mycolic
2) Mycosid là một acid mycolic liên kết với carbohydrat, tạo nên glycolipid.
3) Yếu tố thừng (cord factor) là một mycosid được hình thành bởi sự kết hợp của 2 acid
mycolic với một disaccharid (trehalose). Mycosid này chỉ được tìm thấy ở chủng độc lực của
Mycobacterium tuberculosis. Sự hiện diện của chúng song song với sự phát triển của vi khuẩn,
xoắn cuộn lại nên xuất hiện như là một sợi dây thừng (cord). Cơ chế tác dụng chính xác của yếu
tố độc lực như thế nào thì đến nay vẫn chưa được biết đến, nhưng qua các thí nghiệm đã cho thấy
rằng yếu tố thừng gây ức chế sự di chuyển của bạch cầu đa nhân trung tính và phá hủy các ty thể.
Khi tiêm chúng vào trong chuột dẫn đến việc giải phóng ra yếu tố hoại tử u (TNF hay cachectin),
kết quả là làm sụt cân nhanh chóng. Bệnh lao ở người thường là một bệnh lý mạn tính kèm theo
sụt cân nhanh mà chính điều này có thể bị lầm tưởng sang chứng suy mòn thuộc một bệnh lý ác
tính nào đó (cachexia of malignancy). Yếu tố thừng có thể đã góp phần vào hiện tượng sụt cân
này.
4) Sulfatid là các mycosid, chúng khá giống với yếu tố thừng kèm theo gốc sulfat được gắn
thêm disaccharid. Chúng có tác dụng ức chế sự thực bào từ các lysosome có chứa các enzym diệt
khuẩn. Bản chất ký sinh nội bào tùy ý của Mycobacterium tuberculosis ở giai đoạn sơ nhiễm có
thể một phần là do sulfatid (xem Mục 2.7).
5) Sáp D (Wax D) là một mycosid phức tạp tác dụng như là một chất bổ trợ (tăng cường sự
tạo thành kháng thể để đáp ứng với kháng nguyên) và có thể là một thành phần của Mycobac-
terium tuberculosis, cho nên chúng kích hoạt hệ thống bảo vệ miễn dịch tế bào.
15.3. Hãy ghi nhớ những tên gọi của mycosid và mối liên quan của chúng với Mycobacterium
tuberculosis. Hình ảnh mô tả về 1 chàng trai lướt sóng tên Mike (mycosid). Anh ta đang bôi sáp
(WAX-ING trong Wax D) tấm ván lướt sóng (SUrfboard trong Sulfatid) và cột một sợi dây
Nhóm Netter. Study, study more, study forever!
197
thừng (CORD trong cord factor) từ tấm ván vào chân của anh ta. Cần chú ý là Mike đang bị ho
và bị sụt cân nặng.
Bệnh Lao
Mycobacterium tuberculosis chủ yếu là lây nhiễm lên phổi nhưng cũng có thể gây nên bệnh lý
ở các mô khác. Các chúng lây lan và gây tổn thương cho cơ thể phụ thuộc vào đáp ứng miễn dịch
của túc chủ. Vi khuẩn và hệ miễn dịch tương tác với nhau như sau:
1) Sinh trưởng bằng ký sinh nội bào tùy ý: ở sự lây nhiễm đầu tiên (thường là do hít vào
phổi) khi túc chủ không có khả năng miễn dịch đặc hiệu thì các vi khuẩn này xâm nhiễm vào bên
trong các đại thực bào và bạch cầu đa nhân trung tính. Do chúng có nhiều yếu tố độc lực khác
nhau vì thế mà những vi khuẩn đã bị thực bào này sẽ không bị phá hủy. Chúng sinh sôi và tồn tại
bên trong các đại thực bào. Các vi khuẩn này đi qua hệ bạch huyết và máu để đi đến những vùng
mô ở xa. Ở giai đoạn tồn tại bằng ký sinh nội bào tùy ý thì thường khá ngắn ngủi bởi vì túc chủ
đã nhanh chóng “học” được cách chủ yếu để đề kháng lại các vi khuẩn kháng acid này: miễn dịch
trung gian qua tế bào.
2) Miễn dịch trung gian qua tế bào: Một số đại thực bào đã thành công trong việc thực bào
và ngăn chặn sự xâm nhiễm của vi khuẩn. Sau đó các đại thực bào này đi chuyển đến các vùng
hạch bạch huyết và trình diện một phần còn lại của vi khuẩn cho các tế bào T hỗ trợ (T-helper
cell). Lúc này các tế bào T đã mẫn cảm sẽ được nhân rộng và đi vào trong tuần hoàn để tìm kiếm
Mycobacterium tuberculosis. Khi các tế bào T tìm thấy được các kháng nguyên đích của chúng
Nhóm Netter. Study, study more, study forever!
198
thì các tế bào này sẽ giải phóng ra lymphokin để thu hút các đại thực bào và hoạt hóa chúng khi
chúng đến nơi. Bây giờ, khi các đại thực bào đã hoạt hóa thì chúng sẽ có khả năng tiêu diệt đượcc
các vi khuẩn. Trong giai đoạn này, việc các đại thực bào tấn công vi khuẩn sẽ gây tổn thương tại
những vùng đó và kết quả là làm hoại tử nhu mô phổi. Nhu mô phổi bị hoại tử như vậy trông rất
giống như một miếng phô mai kem dạng hạt nên còn được gọi là hoại tử bã đậu (caseous
necrosis). Trung tâm của lớp bã đậu được bao quanh bởi các đại thực bào, các tế bào đa nhân
khổng lồ (multinucleated giant cell), các nguyên bào sợi (fibroblast), collagen lắng đọng và
chúng thường bị vôi hóa. Bên trong khối u hạt này, vi khuẩn được lưu trữ lại và vẫn còn khả năng
gây bệnh. Sau này, vào một lúc nào đó mà khả năng đề kháng của túc chủ bị suy giảm thì vi
khuẩn có thể phát triển trở lại.
Xét Nghiệm Da PPD
Sau quá trình mẫn cảm với Mycobacterium tuberculosis của miễn dịch trung gian qua tế bào
thì có thêm bất kỳ một sự tiếp xúc nào nữa với vi khuẩn này sẽ dẫn đến một đáp ứng quá mẫn
muộn (quá mẫn type 4). Xét nghiệm này được thực hiện bằng cách tiêm trong da một phần
protein kháng nguyên được chiết xuất từ Mycobacterium tuberculosis đã bị bất hoạt, được gọi là
PPD (Purified Protein Derivative
*
), kết quả là làm cho vùng da tại đó bị sưng phồng và đỏ. Do
đó, việc tiêm trong da PPD sẽ cho biết rằng một người đã bị nhiễm Mycobacterium tuberculosis
hay chưa. Đây là một điều rất quan trọng bởi vì có rất nhiều người bị nhiễm khuẩn nhưng lại
không có biểu hiện gì về mặt lâm sàng trong nhiều năm. Khi PPD dương tính, ta có thể điều trị và
loại trừ được bệnh trước khi chúng gây tổn thương đáng kể lên phổi hay các cơ quan khác. Một
người có PPD dương tính thì được xem như là đã mắc bệnh lao tiềm ẩn (latent tuberculosis). Khi
bạn tiếp nhận một bệnh nhân có các triệu chứng như sốt nhẹ và ho hoặc bệnh nhân đã từng tiếp
xúc với người mắc bệnh lao thì bạn sẽ quyết định cho “chỉ định PPD”. Tiêm trong da PPD (chỉ
vừa đủ để làm bóng nước nổi lên bên dưới da). Các đại thực bào ở trong da sẽ bắt lấy kháng
nguyên và đưa nó đến các tế bào T. Sau đó các tế bào T này sẽ di chuyển đến vùng da tại nơi
tiêm, giải phóng ra các lymphokin để kích hoạt đại thực bào và trong vòng 1-2 ngày thì tại vùng
đó sẽ trở nên sưng phồng, đỏ và cứng chắc. Một xét nghiệm da dương tính được định nghĩa đó là
vùng sưng cứng (area of induration) lớn hơn kích thước quy định sau 48 giờ (đó là khoảng thời
gian cần thiết để xảy ra phản ứng quá mẫn muộn). Còn khái niệm về xét nghiệm này đối với
những người có nguy cơ cao bị nhiễm lao đó là kích thước vùng sưng cứng nhỏ hơn kích thước
cần phải đạt được! Phương pháp này giúp làm giảm khả năng dương tính giả và cải thiện dương
tính thật. Xét nghiệm được xem là dương tính nếu ≥ 5mm ở những người dương tính HIV hoặc bị
suy giảm miễn dịch; ≥ 10mm ở những người thường có yếu cố nguy cơ do tiếp xúc với bệnh lao
như là đi đến vùng có tỷ lệ mắc lao cao, làm việc trong các cơ sở y tế, bị giam tù trước đó hoặc
mắc bệnh có nguy cơ cao (đái tháo đường, suy thận); và ≥ 15mm đối với các trường hợp khác.
Cần ghi nhớ đó là xét nghiệm dương tính thì không có nghĩa là bệnh nhân có bệnh lao đang
hoạt động, nó chỉ cho thấy là bệnh nhân đã bị phơi nhiễm (exposure) và nhiễm khuẩn
(infection) Mycobacterium tuberculosis ở một thời điểm nào đó trong quá khứ. Xét nghiệm
dương tính đều có ở những người nhiễm lao hoạt động, nhiễm lao tiềm ẩn và ở những người đã
Nhóm Netter. Study, study more, study forever!
199
*
Purified Protein Derivative: Dẫn xuất tinh khiết protein. -Nhóm dịch-
được điều trị khỏi bệnh lao.
Xét nghiệm dương tính giả: Ta vẫn cần phải cẩn thận với xét nghiệm này bởi vì có nhiều
người từ các quốc gia khác nhau đã được tiêm ngừa bệnh lao bằng vaccin BCG (bacillus
Calmette-Guerin). Vaccin này có hiệu quả trong việc ngăn ngừa các hình thức truyền nhiễm
nguy hiểm ở trẻ em, nhưng nó chỉ cung cấp khả năng miễn dịch tối thiểu (minimal immunity)
trong vài năm.
Xét nghiệm âm tính giả: Một vài bệnh nhân lại không hề có phản ứng gì với PPD, ngay cả
khi họ đã bị mắc bệnh lao. Những bệnh nhân này thường thuộc dạng vô ứng (anergy), có nghĩa là
họ mất đi khả năng đáp ứng miễn dịch bình thường do sử dụng steroid, suy dinh dưỡng, AIDS
Hiện nay chúng ta đã có một phương pháp mới được dùng để thay thể xét nghiệm da PPD
trong việc sàng lọc. Một nhóm xét nghiệm máu mới đã được FDA phê duyệt được gọi là IGRAS
(có thể nói nôm na đó là phương pháp làm giải phóng chuỗi ngắn interferon-gamma) được dùng
để do lường nồng độ interferon-gamma trong máu toàn phần (whole blood) trong phản ứng với
kháng nguyên lao đặc hiệu.
Các Triệu Chứng Lâm Sàng
Việc tiếp xúc đầu tiên với Mycobacterium tuberculosis còn được gọi là lao sơ nhiễm (primary
tuberculosis) và thường là một nhiễm khuẩn phổi mang tính cận lâm sàng (không có triệu chứng).
Đôi khi, lại có xảy ra các triệu chứng của nhiễm khuẩn tiên phát.
Khi một nhiễm khuẩn tiên phát (primary infection) xảy ra thì hệ miễn dịch trung gian qua tế
bào đã được mẫn cảm sẽ ngăn chặn và tiêu diệt vi khuẩn. Các vi khuẩn này sẽ trở nên bị bất hoạt
nhưng có thể sau đó sẽ lại gia tăng và gây bệnh. Đó chính là giai đoạn nhiễm khuẩn thứ phát, còn
được gọi là lao thứ phát (secondary)hay lao tái hoạt động (reactivation).
Các con số thực tại trong bảng số liệu thống kê: Do sự tiếp xúc gần gũi, chẳng hạn như là các
thành viên trong gia đình, có một người nào đó bị mắc lao sơ nhiễm thì cũng đã có khoảng 30%
khả năng gây truyền nhiễm. Trong số tất cả những người bị lây nhiễm đó thì có khoảng 5% sẽ
tiến triển thành bệnh lao trong 1-2 năm tới và 5% sau này sẽ tiến triển lao tái phát vào một lúc
nào đó trong cuộc sống. Vậy thì, tổng cộng có khoảng 10% trong cả cuộc đời có khả năng tiến
triển bệnh lao do Mycobacterium tuberculosis trong số những người bị lây nhiễm đó.
Lao Sơ Nhiễm
1) Mycobacterium tuberculosis thường được lây truyền qua các hạt nước ở trong không khí
được tiết ra từ đường hô hấp của một người trưởng thành bị mắc bệnh lao phổi. Người này sẽ đưa
vào trong không khí các dịch tiết khi anh ta ho, hắt hơi, nói chuyện, cười hay hát.
Nhóm Netter. Study, study more, study forever!
200
2) Các giọt nước này sẽ được hít vào trong phổi, tại nơi nhận được sự lưu thông không khí (air
flow) cao nhất: vùng giữa và vùng đáy phổi. Tại đây sẽ tạo nên một vùng viêm phổi nhỏ kèm
theo phù thũng (edema) và có bạch cầu đa nhân trung nhân, nó cũng tương tự như bất kỳ một
bệnh lý viêm phổi do nhiễm khuẩn nào khác.
3) Sau đó, vi khuẩn xâm nhập vào trong các đại thực bào, nhân đôi, lây lan qua hệ bạch huyết
và mạch máu để đi đến các vùng hạch bạch huyết, các vùng khác ở phổi và các cơ quan ở xa.
Lao là một loại bệnh lý khá “khó hiểu” bởi vì có rất nhiều thứ khác nhau có thể xảy ra. Cùng
với sự phát triển khả năng miễn dịch trung gian qua tế bào, 1) Nhiễm khuẩn có thể ẩn chứa ở
trong người bệnh nhân đến nỗi mà anh ta không hề nhận ra được rằng là mình đã bị nhiễm bệnh,
hoặc là 2) Nó có thể trở thành một bệnh lý có triệu chứng (symptomatic disease).
1) Nhiễm khuẩn tiên phát không có triệu chứng (asymptomatic primary infection): Tế bào
bảo vệ trung gian sẽ tấn công và làm cho ổ bệnh của vi khuẩn trở nên ngăn cách trong u bã đậu
(caseous granuloma). Khi đó các u bã đậu này sẽ dần bị xơ, vôi hóa và hình thành sẹo. Vi khuẩn
ở bên trong các tổn thương này sẽ giảm về mặt số lượng nhưng vẫn còn khả năng gây bệnh. Các
củ lao (tubercle) nhỏ (hay còn được gọi là u hạt) thường có kích thước quá nhỏ để có thể nhìn
thấy được ngay cả trên ảnh X-quang ngực. Chỉ có xét nghiệm PPD mới có thể “chỉ điểm” ra các
vi khuẩn này. Đôi khi kiểm tra trên phim X-quang ngực sẽ giúp gợi ý được sự nhiễm khuẩn vừa
mới xảy ra bởi hình hạch lớn vùng rốn phổi hoặc hình ảnh vôi hóa.
15.4. Một củ lao bị vôi hóa ở vùng giữa và đấy
phổi còn được gọi là ổ Ghon (Ghon focus). Một ổ
Ghon bị “kèm theo” bởi các u hạt đã vôi hóa ở
quanh vùng rốn phổi được gọi là phức hệ Ghon
(Ghon complex) hoặc phức hệ Ranke (Ranke
complex).
Lao Thứ Phát
Hầu hết các trường hợp lao ở người trưởng
thành đều xảy ra sau khi vi khuẩn đã không hoạt
động trong một thời gian dài. Điều này được gọi
là lao thứ phát hay lao tái hoạt động. Sự nhiễm
khuẩn này có thể xảy ra ở hầu hết các hệ thống cơ
quan đã từng bị ảnh hưởng ở giai đoạn nhiễm
khuẩn tiên phát. Điều này có khả năng là do sự
suy yếu tạm thời của hệ thống miễn dịch có thể đã thúc đẩy sự tái hoạt động của các vi khuẩn lao.
Rất nhiều bệnh nhân AIDS tiến triển bệnh lao theo cách này. Ở những bệnh nhân HIV bị nhiễm
Mycobacterium tuberculosis có 10% nguy cơ/năm tiến triển bệnh lao thứ phát! Ước tính rằng có
khoảng 1/3 dân số thế giới đã bị mắc lao tiềm ẩn, người ra cũng ước tính rằng có ít nhất 1/3 dân
số bị nhiễm HIV trên thế cũng đã mắc bệnh.
Nhóm Netter. Study, study more, study forever!
201
Tỷ lệ tái phát lao ở tất cả mọi người: 10% trong cả cuộc đời
Tỷ lệ tái phát lao ở những người nhiễm HIV: 10%/năm
15.6. Các hệ thống cơ quan có thể bị ảnh hưởng bởi bệnh lao:
1) Lao phổi: Đây là cơ quan rất phổ biến trong bệnh lao
tái nhiễm. Sự nhiễm khuẩn thường hay xảy ra ở vùng
đỉnh phổi, xung quanh xương đòn. Tái nhiễm thường ở
thùy trên bởi vì tại đó áp xuất của khí oxy là cao nhất, do
giảm sự tuần hoàn của phổi, và Mycobacterium
tuberculosis là một vi khuẩn hiếu khí. Những vùng bị
nhiễm khuẩn tiến triển khá chậm, bị hoại tử và tạo thành
các hang lao. Về mặt lâm sàng bệnh nhân thường có các
biểu hiện như sốt nhẹ kéo dài, đổ mồ hôi về đêm, sụt cân,
ho có đàm và có thể có máu trong đàm. Sự viêm nhiễm
chậm rải này là do các đại thực bào và các tế bào T đang
“chiến đấu” để ngăn chặn vi khuẩn.
2) Lao màng phổi và màng ngoại tim: Nhiễm khuẩn tại
những nơi này gây tích tụ dịch viêm xung quanh phổi và
tim ở những vùng tương ứng.
3) Lao hạch bạch huyết: Đây là nơi có các biểu hiện của
bệnh lao ngoài phổi phổ biến nhất. Hạch bạch huyết ở cổ
thường là nơi bị ảnh hưởng đầu tiên. Chúng trở nên sưng
phù, sần sùi và chảy dịch mủ. Lao hạch bạch huyết còn
được gọi là bệnh tràng nhạc (scrofula).
4) Lao Thận: Bệnh nhân sẽ có các tế bào hồng cầu và bạch cầu, nhưng lại không thấy có vi
khuẩn trong nhuộm Gram hoặc trong nuôi cấy (hãy nhớ lại rằng Mycobacterium tuberculosis
phải mất nhiều tuần để phát triển trong môi trường nuôi cấy và có khả năng kháng acid). Điều
này được gọi là đái mủ vô khuẩn (sterile pyuria).
5) Lao xương: Các xương thường bị ảnh hưởng là các xương cột sống ngực và thắt lưng.
Chúng phá hủy các đĩa đệm và sau đó là các thân đốt sống liền kề (bệnh Pott).
6) Lao khớp: Thường có 1 khớp bị viêm nhiễm mạn tính.
7) Lao thần kinh trung ương: Chúng gây nên viêm màng não bán cấp và hình thành nên các
u hạt ở não.
8) Lao kê (miliary tuberculosis): Là các củ lao (u hạt) có kích thước nhỏ như hạt kê, chúng lây
lan khắp toàn bộ cơ thể giống như trúng phải bạn súng săn. Thận, gan, phổi và các cơ quan khác
Nhóm Netter. Study, study more, study forever!
202
bị tổn thương dạng nốt nhỏ do các củ lao. Khi kiểm tra trên phim X-quang ngực đôi khi sẽ thấy
hình ảnh như những hạt kê ở bên trong phổi. Lao kê thường xảy ra ở người già và trẻ em.
TỔNG QUÁT: Lao thường là một bệnh lý mạn tính, triệu chứng của nó thường tiến triển
chậm như sụt cân, sốt nhẹ, ngoài ra các triệu chứng khác còn liên quan đến hệ quan bị
nhiễm bệnh. Vì chúng tiến triển chậm như vậy cho nên có thể bị lầm tưởng đến ung thư.
Mỗi khi bạn bị nhiễm khuẩn ở bất kỳ hệ cơ quan nào thì ở đâu đó, bệnh lao sẽ được ghi vào
trong danh sách chẩn đoán phân biệt của bạn. Chúng là một trong những tay bắt chước
tuyệt vời!
Chẩn Đoán
1) Xét nghiệm thử da PPD: Phương pháp sàng lọc cho thấy bệnh nhân đã bị phơi nhiễm với
lao ở khoảng thời gian nào đó trong quá khứ. Có điều đáng ngạc nhiên đó là PPD có kết quả âm
tính trong hơn 1/3 số người có lao phổi đang hoạt động.
2) X-quang: Ta có thể nhận thấy một u hạt đã bị cô lập, ổ Ghon, phức hệ Ghon, sẹo cũ ở thùy
trên của phổi hay một lao phổi đang hoạt động.
3) Nhuộm đàm bằng phương pháp kháng aid và nuôi cấy: Khi xét nghiệm nhuộm kháng
acid và nuôi cấy đều dương tính thì điều này cho thấy rằng có một lao phổi đang hoạt động.
4) Xét nghiệm phát hiện nhanh phân tử (EMD) của Mycobacterium tuberculosis trong
mẫu đờm. Đây là một phương pháp giúp chẩn đoán nhanh đang được chấp nhận dùng cho các
khu vực có tỷ lệ cao mắc bệnh lao đa kháng thuốc (MDR). Nền tảng phổ biến nhất hiện nay đó là
kỹ thuật Genne Xpert MTB/RIF1, đây là một hệ thống tự động được tích hợp đầy đủ các chức
năng phân tích mẫu đờm, là kết quả của việc dựa trên cơ sở của phương pháp PCR, kể cả việc có
nhạy cảm với thuốc rifampin hay không. Kỹ thuật này khá dễ dàng, nhanh chóng, đáng tin
cậynhưng tương đối đắt tiền.
Việc điều trị và kiểm soát được bệnh lao là một điều rất phức tạp và sẽ được trình bày ở
chương các kháng sinh dùng cho loài Mycobacteria.
Lao MDR/XDR
Khi 2 sự kiện đã xảy ra lúc đó chúng ta mới nâng cao nhận thức hơn về các rủi ro được gây ra
bởi thể lao đa kháng thuốc (MDR-TB)2 và thể lao siêu kháng thuốc (XDR-TB)3. MDR-TB được
định nghĩa là thể lao đề kháng với cả isoniazid, rifampin. XDR-TB được định nghĩa là thể lao đề
kháng với isoniazid, rifampin, flouroquinolone và rất nhiều loại thuốc tiêm khác (như là
aminoglycosid). Vào năm 2005, một bệnh lao (TB) đã bùng phát tại KwaZula Natal Province,
Nhóm Netter. Study, study more, study forever!
203
Nam Phi. Đã có hơn 500 trường hợp được xác định là đã mắc bệnh lao, trong đó có khoảng 41%
là MDR-TB và khoảng 10% là XDR-TB. Đa số những người mắc XDR-TB đều có đồng nhiễm
1. Kỹ thuật Genne Xpert MTB/RIF: là một kỹ thuật được tích hợp cả 3 công nghệ tách gen, nhân gen, nhận biết gen.
Một kỹ thuật được phát triển trên công nghệ nền tảng. Ngoài việc phát hiện được vi khuẩn lao, nó còn cho ra kết quả
kép, xác định vi khuẩn đó có đề kháng với rifampin hay không. –Nhóm dịch–
2. MDR-TB: Multi Drug Resistant – Tuberculosis.
3. XDR-TB: Extensively Drug Resistant – Tuberculosis.
với HIV, và tất cả những người trong số 53 trường hợp được xác định mắc XDR-TB. Tử vong
xảy ra sau trung bình 16 ngày. Vào tháng 7 năm 2007, một luật sư trẻ ở Atlanta được báo cáo là
đã mắc XDR-TB. Mặc dù vậy nhưng ông lại trốn tránh khỏi sự quản lý của chính quyền và đi du
lịch trên nhiều chuyến bay quốc tế. Cuối cùng, ông ta đã được xác minh là mắc loại MDR ít gây
tử vong và đã hợp tác để điều trị bệnh, nhưng những tin tức về chuỗi các sự kiện này đã làm nâng
cao nhận thức về mối nguy cơ mới này.
Việc điều trị cả MDR- và XDR-TB đòi hỏi cần phải có những người chuyên về điều trị, chăm
sóc TB và việc sử dụng nhiều loại thuốc thay thế trong khoảng thời gian kéo dài (thường từ 18-24
tháng). Cũng giống như ở thời trước, trước khi kháng sinh được sử dụng thì việc phẫu thuật
thường được chỉ định để loại bỏ những vùng bị nhiễm khuẩn. Như đã chú ý ở trên, tỷ lệ thất bại
trong việc điều trị XDR-TB là rất cao! Nguyên nhân phổ biến nhất ở cả MDR- và XDR-TB đó là
thất bại trong việc điều trị bằng các loại thuốc nhạy cảm với TB ở lúc ban đầu.
“Quy Tắc Số 5” Trong Lao
1) Trung tâm điểm có kích thước 5 μm và có chứa 5 trực khuẩn Mycobacterium tuberculosis.
2) Bệnh nhân bị nhiễm Mycobacterium tuberculosis có tỷ lệ 5% tái nhiễm trong 2 năm đầu
tiên và sau đó là tỷ lệ 5% trong cả cuộc đời.
3) Một bệnh nhân đã “high five”1 với HIV sẽ có tỷ lệ 5 + 5% tái nhiễm mỗi năm.
Mycobacterium leprae
(Bệnh Phong, còn được gọi là bệnh lý Hansen)
Giống như Mycobacyerium tuberculosis, Mycobacterium leprae cũng là một trực khuẩn kháng
acid. Chúng không thể nào phát triển trong môi trường nuôi cấy nhân tạo, chúng chỉ có thể phát
triển được ở gan bàn chân của chuột (footpads of mice), ở con tatu2 và ở khỉ. Mycobacterium
leprae gây ra bệnh phong (leprosy) nổi tiếng.
Tổ chức Y tế Thế giới ước tính rằng có khoảng 2 triệu người đã bị nhiễm Mycobacterium
leprae trên thế giới và phần lớn các trường hợp này tập trung chủ yếu ở 6 quốc gia: Ấn Độ,
Brazil, Myanmar, Indonesia, Madagascar và Nepal. Hiện nay vẫn chưa rõ tại sao một số người lại
bị nhiễm bệnh và một số khác thì lại không. Rất nhiều nghiên cứu đã thử làm lây nhiễm lên
những người tình nguyện, rất ít trong số đó làm thành công. Nhiễm khuẩn xảy ra khi một người
Nhóm Netter. Study, study more, study forever!
204
(chưa rõ lý do bị nhạy cảm) tiếp xúc với dịch tiết đường hô hấp hoặc, ít có khả năng hơn, tiếp xúc
với da thương tổn của người bị nhiễm khuẩn.
1. High five: là một tiếng lóng trong giới trẻ ở Mỹ, hiện nay đã phổ biến trên thế giới, với hình ảnh giơ cao tay và
đập tay vào nhau với tinh thần gắn kết, đoàn kết với nhau, hay muốn chúc mừng một điều gì với ai đó. Ở trong
nguyên văn, tác giả dùng từ này với ngụ ý là vừa muốn nói đến bệnh nhân đã bị “gắn kết” với HIV vừa muốn nhấn
mạnh thêm từ “five” trong “Quy tắc số 5”. –Nhóm dịch–
2. Con tatu: là động vật có vú, thuộc lớp thú, phổ biến ở Bắc, Trung và Nam Mỹ. Loài tatu có thể cuộn tròn người lại
để bảo vệ bản thân, giống như ở loài tê tê. Năm 2014, tatu được chọn là linh vật cho giải bóng đá World Cup diễn ra
tại quốc gia Brazil. –Nhóm dịch–
Các biểu hiện lâm sàng của bệnh phong phụ thuộc vào 2 yếu tố: 1) Vi khuẩn phát triển tốt hơn
ở nơi có nhiệt độ cơ thể mát hơn so với bề mặt da. 2) Mức độ nghiêm trọng của bệnh phụ thuộc
vào khả năng đáp ứng của miễn dịch trung gian qua tế bào của túc chủ với trực khuẩn (giống như
Mycobacterium tuberculosis, chúng cũng tồn tại bằng ký sinh nội nào tùy ý).
15.7. Trực khuẩn kháng acid Mycobacterium
leprae được tìm thấy khi đang làm mát trên một khối
nước đá, cho nên bệnh phong thường ảnh hưởng lên
những vùng có nhiệt độ mát trên cơ thể. Chúng gây
tổn thương cho da (ít có ở những vùng có nhiệt độ
ấm như là nách, bẹn và đáy chậu), các dây thần kinh
nông (superficial nerve), mắt, mũi và tinh hoàn.
Miễn dịch trung gian qua tế bào một lần nữa lại
đóng vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của
bệnh lý này. Các tế bào miễn dịch ngoài để hạn chế
sự lây lan của vi khuẩn đã gây ra viêm và u hạt, nhất
là ở da và thần kinh. Về mặt lâm sàng, dựa vào mức
độ của miễn dịch trung gian qua tế bào thì bệnh phong chia thành 5 thể, được thể hiện bằng mức
độ nghiêm trọng của bệnh:
1) Phong u (Lepromatous Leprosy): Đây là thể nghiêm trọng nhất của bệnh phong bởi vì
bệnh KHÔNG THỂ tạo ra miễn dịch trung gian qua tế bào để đáp ứng với Mycobacterium
leprae. Giả thuyết được đưa ra đó là do sự khiếm khuyết các tế bào T – ức chế (các tế bào T – 8)
đã ức chế các tế bào T – hỗ trợ đáp ứng
với các kháng nguyên Mycobacterium
leprae.
15.8. Bệnh phong u (LL): Đại thực bào
“bại trận” đang bị bao phủ bởi các trực
khuẩn kháng acid Mycobacterium leprae,
điều này cho thấy khả năng miễn dịch tế
bào là rất thấp. Bệnh nhân mắc LL không
thể nào tạo ra được một phản ứng quá
mẫn chậm. LL chủ yếu gây ảnh hưởng
Nhóm Netter. Study, study more, study forever!
205
lên da, mắt, các dây thần kinh và tinh hoàn nhưng trực khuẩn thì lại được tìm thấy ở khắp nơi
(dịch tiết đường hô hấp và mọi cơ quan của cơ thể). Các thương tổn da ở khắp cơ thể đều trở nên
dày hơn và tạo thành các u cục. Da mặt có thể trở nên dày hơn làm cho khuôn mặt nhìn giống
như mặt sư tử (khuôn mặt sư tử - leonin facies). Sụn mũi có thể bị phá hủy, gây nên biến dạng
mũi yên ngựa (saddle nose deformity) và có sự tổn thương bên trong tinh hoàn (dẫn đến vô
sinh). Phần trước của mắt còn có thể bị ảnh hưởng, dẫn đến sự mù lòa. Hầu hết các dây thần kinh
ngoại vi bị dày lên và bị mất cảm giác ở những vùng mà dây thần kinh đó chi phối. Việc không
có khả năng cảm giác ở các ngón tay và ngón chân dẫn đến việc tổn thương bị tái đi tái lại và các
nhiễm khuẩn thứ phát, cuối cùng là gây nên sự co kéo ở các ngón tay và chân Cuối cùng thì bệnh
phong u vẫn sẽ gây tử vong nếu không được điều trị.
2) Phong củ (Tuberculoid Leprosy): Bệnh nhân mắc bệnh phong thể củ (TL) có thể tạo ra
miễn dịch trung gian qua tế bào để chống lại vi khuẩn, nên các tổn thương ở da vì thế không phải
là quá nặng. Chúng sẽ bình phục và đôi khi bệnh sẽ tự giới hạn.
15.9. Phong củ: Đại thực bào đang nuốt chửng các trực khuẩn kháng acid Mycobacterium leprae,
chứng tỏ khả năng đề kháng cao với phong củ của miễn dịch trung gian qua tế bào với bệnh.
Phản ứng quá mẫn muộn không bị mất đi, cho nên việc xét nghiệm lepromin trên da thường cho
kết quả dương tính. Bệnh nhân có các biểu hiện khu trú nông, ở phần da ở một bên cơ thể và
thần kinh chi phối vùng đó. Trong thể bệnh lao này, thường có 1 hoặc 2 tổn thương da. Chúng
được miêu tả là các vết mất sắc tố (hypopigmentation) nổi cao trên bề mặt da. Trong vùng phát
ban này thường thì không có lông kèm theo giảm hoặc mất cảm giác và các dây thần kinh ở gần
vùng da thương tổn bị phì đại đến nỗi ta có thể sờ thấy được. Các dây thần kinh thường bị phì đại
là những dây thường nằm gần da – thần kinh tai lớn (great auricular nerve), thần kinh trụ (ulnar
nerve), thần kinh chày (posterior tibial nerve), thần kinh mác (peroneal nerve). Rất khó để tìm
thấy trực khuẩn trong các tổn thương hoặc máu. Bệnh nhân sẽ không bị viêm nhiễm (non-
infectious) và thường là tự hồi phục.
Nhóm Netter. Study, study more, study forever!
206
Ba thể còn lại miêu tả sự tiếp diễn giữa LL và TL. Chúng được gọi là phong thể trung gian u
(Borderline Lepromatous – BL), phong thể trung gian (Borderline – BB) và phong thể trung
gian củ (Borderline Tuberculoid – BT). Các tổn thương da trong BL sẽ nhiều hơn và đa hình thể
hơn so với BT.
Phản ứng lepromin trên da là một xét nghiệm tương tự như xét nghiệm PPD được sử trong
bệnh lao. Nó đánh giá khả năng tạo ra phản ứng quá mẫn muộn để chống lại các kháng nguyên
Mycobacterium leprae. Xét nghiệm này được dùng để tiên lượng bệnh nhiều hơn là dùng để chẩn
đoán và được dùng để áp dụng trên bệnh nhân trong phương pháp sắc ký miễn dịch
(immunologic spectrum). Xét nghiệm này có ý nghĩa trong chẩn đoán khi bệnh nhân mắc TL đã
hình thành đáp ứng miễn dịch trung gian qua tế bào trước đó, cho nên kết quả sẽ dương tính trong
xét nghiệm lepromin trên da, còn ở những bệnh nhân không thể tạo ra được đáp ứng miễn dịch
trung gian qua tế bào, sẽ đáp ứng âm tính với lepromin.
Xem Chương 19 về phần trình bày trong điều trị bệnh phong
15.10. Bảng sắc ký của bệnh phong
Thể Củ Thể Trung Gian Thể U
Số tổn thương ở da Một Một vài Nhiều
Lông tóc ở vùng da bị tổn
thương
Không mọc Mọc lưa thưa Không bị ảnh hưởng
Cảm giác ở những vùng
ngoại biên bị tổn thương
Mất hoàn toàn Mất nhiều Không bị ảnh hưởng*
Trực khuẩn kháng acid ở
những vùng bị tổn thương
Không Nhiều Vô số
Phản ứng lepromin trên da Dương tính mạnh Không phản ứng Không phản ứng
*(Nhưng tổn thương các dây thần kinh ngoại biên gây ra tình trạng tê liệt các bàn tay và chân là một món quà!)
MYCOBACTERIA KHÔNG ĐIỂN HÌNH
Mycobacteria không điển hình (Mycobacteria nontuberculous) là một phân nhóm phụ của
loài Mycobacterium, chúng cư trú trong môi trường đất và nước. Ở những người có hệ miễn dịch
khỏe mạnh hiếm khi bị phát bệnh mặc dù có tiếp xúc nhiều lần, thậm chí là hằng ngày với vi
khuẩn. Hiện nay, tỷ lệ mắc bệnh đang ngày càng gia tăng, mặc dù có gia tăng về sự nhận thức
cũng như các phương pháp chẩn đoán của phòng xét nghiệm đã được cải thiện. NTM có thể gây
ra một loạt các bệnh lý từ việc xâm thực không triệu chứng (asymptomatic colonization) cho đến
viêm phổi mạn tính không thể chữa trị.
Nhóm Netter. Study, study more, study forever!
207
Thái độ điều trị đầu tiên của người thầy thuốc đối với NMT cũng giống như ở những bệnh
nhân AIDS có kèm theo bệnh lý nhiễm khuẩn Mycobacterium avium complex (MAC). Đây là
một bệnh lý nhiễm khuẩn cơ hội rất phổ biến ở những bệnh nhân mắc AIDS và có nồng độ tế bào
T–CD4 <50 tế bào/mm3. Ở những bệnh nhân này thường có biểu hiện sốt không rõ nguyên nhân,
sụt cân, tiêu chảy, căng thẳng và chỉ số phosphatase kiềm thường quy cao. Việc chẩn đoán xác
định được dựa nào xét nghiệm cấy máu để tìm vi khuẩn. Nhửng bệnh nhân này thường đáp ứng
tốt khi được điều trị bằng các kháng sinh thích hợp và bằng việc bắt đầu điều trị kháng virus
(ART) trong HIV.
MAC còn là nguyên nhân phổ biến nhất trong bệnh lý viêm phổi do nhiễm NTM. Nó thường
biểu hiện theo một trong hai cách sau: 1) bệnh hang thùy trên phổi, chủ yếu là ở nam giới có hút
thuốc lá hoặc 2) thùy phổi giữa và dưới có liên quan đến giãn phế quản và các thâm nhiễm dạng
nốt (nodular infitrate) ở phụ nữ độ tuổi trung niên không có hút thuốc. Điều trị bệnh viêm phổi do
nhiễm MAC là rất lâu dài và gian khổ, yêu cầu phải kéo dài trung bình 18 tháng trong điều trị với
nhóm macrolid (clarithromycin, azithromycin) dựa vào phác đồ điều trị.
NTM có thể gây ra bệnh phổi, viêm hạch, các tổn thương da, viêm xương và khớp, và còn
nhiều hơn thế. Xem Mục 15.11 để có cái nhìn tổng quan hơn về các vi khuẩn NTM này.
15.11. Bảng Tóm Tắt Về Mycobacteria.
Nhóm Netter. Study, study more, study forever!
208
Nhóm Netter. Study, study more, study forever!
208
Trực
Khuẩn
Hình Thể Chuyển Hóa Độc Lực Độc Tố Lâm Sàng Chẩn Đoán Điều Trị Chú Ý
M
y
co
b
ac
te
ri
u
m
t
u
b
er
cu
lo
si
s
1. 40% tổng
lượng khô của
tế bào là lipid
2. Chủ yếu là
acid myc-olic
3. dài và mỏng
4. Không di
động
1. Hiếu khí
2. Catalase (+)
3. Phát triển
chậm
1. Mycosid
A. Yếu tố thừng: chỉ
thấy ở các chủng có
độc lực cao (có thể có
vai trò làm giải phóng
TNF (cachectin), gây
ra sụt cân).
B. Sulfatid: ức chế
chức năng thực bào
của lysosom
C. Wax D: hoạt động
như là một chất bổ
trợ
2. Thể chứa sắt
(Mycobactin)
3. Ký sinh nội bào
tùy ý: M.tuberculosis
có thể tồn tại và phân
đôi bên trong đại thực
bào
Chú ý!!!
a. Không di động
b. Không vỏ nhày
c. Không pili
Không có nội
độc tố và cả
ngoại độc tố (có
lipopolysaccha-
rid, nhưng
không có Lipid
A)
Bệnh Lao
A. Lao sơ nhiễm:
1. Không triệu chứng
2. Có triệu chứng,
thường liên quan đến
phổi hoặc các cơ quan
khác.
B. Lao thứ phát:
1. Bệnh phổi
2. Màng phổi hoặc
màng ngoài tim.
3. Viêm hạch lympho
4. Thận
5. Xương
6. Khớp
7. Hệ thần kinh trung
ương
8. Lao kê
1. Nhuộm kháng acid
2. Nuôi cấy nhanh: nuôi
cấy phóng xạ bactec, là
một phương pháp làm
hóa lỏng trong ống
nghiệm, bằng palmitate
phóng xạ như là một
nguồn carbon.
Mycobacteria sinh
trưởng và sử dụng nguồn
carbon, cho phép phát
hiện sớm vi khuẩn (1-2
tuần)
3. Xét nghiệm PPD
4. IGRA (thử nghiệm
giải phóng interferon
gamma).
5. X-quang
6. Genne Xpert MTB/Rif
5 dòng thuốc:
1. Isoniazid (INH)
2. Rifampin
3. Pyrazinamid
4. Ethambutol
5. Streptomycin
Xét nghiệm PPD
A. Vùng sưng cứng
có ý nghĩa:
1. Phản ứng (+):
a. ≥ 5mm (ở người bị
suy giảm miễn dịch)
b. ≥ 10mm (ở người
có bệnh lý mạn tính
hoặc có yếu tố nguy
cơ khi tiếp xúc với
TB).
c. ≥ 15mm (tất cả
những người còn lại)
B. Phản ứng (+)
không có nghĩa la
bệnh lý đang hoạt
động
C. Có thể có (-) giả ở
những bệnh nhân
AIDS hoặc ở những
người bị suy dinh
dưỡng nặng
Nhóm Netter. Study, study more, study forever!
209
Trực
Khuẩn
Hình Thể Chuyển Hóa Độc Lực Độc Tố Lâm Sàng Chẩn Đoán Điều Trị Chú Ý
M
y
co
b
ac
te
ri
u
m
l
ep
ra
e
1. Catalase (+)
2. Phát triển tốt
ở nhiệt độ thấp
3. Phenolase (+)
, chuyển hóa
Dopa thành một
sản phẩm sắc tố
(được sử dụng
cho chẩn đoán)
1. Không di động
2. Ký sinh nội bào
tùy ý
Bệnh Phong
A. Phong u (LL):
1. Miễn dịch trung gian
qua tế bào giảm thấp
2. Vi khuẩn được tìm
thấy ở mọi nơi ( các cơ
quan và máu)
3. Da, dây thần kinh,
mắt, tinh hoàn: nổi
nhiều u và nốt sẩn ở da,
mặt sư tử, mũi hình yên
ngựa, đau thần kinh
ngoại biên, co kéo các
ngón tay và chân, mù,
vô sinh (do tổn thương
tinh hoàn)
B. Các thể trung gian:
BL, BB và BT
C. Phong củ (TL):
1. Vẫn còn miễn dịch
trung gian qua tế bào
2. Khó nuôi cấy M. le-
prae từ da hoặc máu
3. Da và các dây thần
kinh bị ảnh hưởng: các
tổn thương nông ở một
bên cơ thể
1. KHÔNG thể phát triển
trên môi trường nuôi cấy
nhân tạo; chỉ có thể được
nuôi cấy ở một vài loài
động vật như là lòng bàn
chân chuột, con tatu hoặc
khỉ.
2. Sinh thiết da và thần
kinh: sẽ phát hiện trực
khuẩn kháng acid (phong
u) hoặc u hạt (phong củ).
1. Rifampin
2. Dapsone
3. Clofazimine
*Các phản ứng
phong (type 1 và
type 2) có thể xảy
ra trong lúc điều
trị (xem thảo luận
về thuốc điều trị
phong để biết
thêm chi tiết).
Xét nghiệm lepromin
trên da: Mặc dù
không có nhiều hữu
ích cho việc chẩn
đoán, nhưng nó giúp
xác định kết quả
trong phương pháp
sắc ký miễn dịch.
Nhóm Netter. Study, study more, study forever!
210
MYCOBACTERIA KHÔNG ĐIỂN HÌNH
Tên Các Biểu Hiện Lâm Sàng Thường Gặp Điều Trị (tổng quan) Chú Ý
M. avium complex (bao gồm M. avium
và M. intracellulare)
1. Ở bệnh nhân AIDS: nhiễm khuẩn lan tỏa kèm
sốt cao, sụt cân, viêm gan và tiêu chảy
2. Ở những người có miễn dịch:
a. Bệnh hang phổi ở thùy trên ở nam giới hút
thuốc
b. Thâm nhiễm dạng nốt ở thùy giữa và dưới
của phổi và bệnh giãn phế quản ở phụ nữ độ
tuổi trung niên không hút thuốc.
1. Bệnh nhiễm khuẩn ở bệnh nhân AIDS:
clarithromycin, rifampin hoặc rifabutin và
ethambutol
2. Bệnh phổi: clarithromycin, rifampin, ethambutol
3. Bệnh viêm hạch: phẫu thuật cắt bỏ
1. Là nguyên nhân thường gặp của Sốt
không rõ nguyên nhân (FUO) ở những
bệnh nhân AIDS.
2. Là nguyên nhân thường gặp nhất của
bệnh viêm phổi do nhiễm NTM.
M. kansasii 1. Bệnh phổi: bệnh hang phổi ở thùy trên (biểu
hiện tương tự như bệnh lao).
2. Bệnh lan tỏa (suy giảm miễn dịch)
Isoniazid, rifampin, ethambutol Là nguyên nhân thường gặp thứ 2 trong
bệnh viêm phổi do nhiễm NTM ở Mỹ
M. abscessus 1. Bệnh phổi
2. Bệnh ở da, mô mềm và xương
1. Bệnh phổi: thường yêu cầu phải phẫu thuật kết
hợp với thuốc kháng sinh để điều trị (cần có kháng
sinh đồ để giúp định hướng điều trị)
2. Nhóm macrolid (clarithromycin, azithromycin)
kết hợp với các thuốc tiêm tĩnh mạch khác
(amikacin, cefoxitin hoặc imipenem).
Nuôi cấy nhanh: thường phát triển trong
môi trường nuôi cấy < 7 ngày
M. fortuitum 1. Bệnh ở da, mô mềm và xương Hai nhóm có hiệu quả trong thực nghiệm (in vitro):
amikacin, ciprofloxacin, sulfonamid, clarithromycin
và nhiều loại khác
1. Nuôi cấy nhanh
2. Là loại lây truyền thường gặp trong
phòng thí nghiệm.
3. Thường cư trú ở những bồn rửa chân dơ
bẩn
M. chelonea 1. Bệnh ở da, mô mềm và xương
2. Bệnh lan tỏa
3. Viêm giác mạc
Hai nhóm có hiệu quả trong thực nghiệm:
tobramycin, clarithromycin, linezolid, imipenem,
amikacin
Thường đáp ứng tốt với điều trị
M. marinum Bệnh ở da, mô mềm và xương (“U Hạt Bể Bơi”) Thường sử dụng hai nhóm: clarithromycin,
ethambutol, rifampin
Phổ biến ở nước ngọt và nước mặn
M. ulcerans “Loét Buruli”: gây nên loét hoại tử da Mở ổ phẫu thuật thường kết hợp với clarithromycin
và rifampin
Được phát hiện ở rừng mưa nhiệt đới
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tai_lieu_vi_sinh_lam_sang_phan_1.pdf