Một số giải pháp khai thác tài
nguyên du lịch biển, đảo
Con người là trung tâm của phát
triển, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác
tuyên truyền dưới nhiều hình thức làm
chuyển biến và nâng cao nhận thức trong
toàn xã hội về phát triển du lịch bền
vững, trước tiên là nhận thức của đội ngũ
nhân viên du lịch. Thứ hai là tiến hành
giáo dục cư dân địa phương, để họ hiểu
được ý nghĩa và vai trò quan trọng của
phát triển du lịch đối với sự phát triển
kinh tế và xã hội ở địa phương. Thứ ba là
tuyên truyền giáo dục đối với du khách ý
thức về tôn trọng và bảo vệ bản sắc văn
hóa, môi trường tự nhiên ở những nơi họ
đến du lịch.
Hoạt động kinh tế nói chung, du
lịch nói riêng phát triển tất yếu sẽ dẫn tới
sự gia tăng trong nhu cầu sử dụng các
nguồn nước, điều này đưa đến sự thiếu
hụt nguồn nước. Cần có các dự án nghiên
cứu thêm khả năng trữ nước, khai thác và
cân đối nguồn nước cho từng khu vực.
Đầu tư phát triển hệ thống cây xanh thích
hợp vùng ven biển ngăn chặn sự di động
của cát, hạn chế những tác động nguy cơ
sa mạc hoá vùng đồng bằng và vùng ven
biển.
Đối với các khu vực đang bị hoang
hóa, cần xúc tiến các chương trình, dự án
trồng rừng phủ xanh đất trống, đồi núi
trọc. Đối với các khu vực đang khai thác
khoáng sản dọc ven biển, cần giám sát
vấn đề thu gom xử lý chất thải, nước thải
trong và sau khi khai thác. Có giải pháp
trả lại nguyên trạng mặt bằng để chuyển
giao cho các dự án đầu tư phát triển du
lịch.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 318 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài nguyên du lịch biển, đảo tỉnh Bình Thuận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Created by Simpo PDF Creator Pro (unregistered version)
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM La Nữ Ánh Vân
_____________________________________________________________________________________________________________
79
TÀI NGUYÊN DU LỊCH BIỂN, ĐẢO TỈNH BÌNH THUẬN
LA NỮ ÁNH VÂN*
TÓM TẮT
Bình Thuận có vị trí địa lí thuận lợi, tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng, nổi bật
nhất là tài nguyên du lịch biển, đảo. Tuy nhiên, Bình Thuận mới chủ yếu khai thác các bãi
biển ven bờ, nhiều tài nguyên du lịch biển, đảo còn trong dạng tiềm năng, chưa được đầu
tư.
Nghiên cứu thực trạng khai thác tài nguyên du lịch biển, đảo tỉnh Bình Thuận là cơ sở
khoa học cho việc đề xuất các giải pháp phát triển du lịch bền vững tỉnh Bình Thuận.
ABSTRACT
Sea and island tourism resources of Binh Thuan province the real
situation and solution
Binh Thuan is not only located in a favorable geographical position but also has rich
tourism resources, especially sea and island. However, Binh Thuan has just exploited
mainly the coastal areas; the rest is still the potential resource.
Surveying the status of exploiting sea and island tourism resources in Binh Thuan is
the necessary foundation to propose the solutions for developing Binh Thuan tourism in
the sustainable way.
1. Khái quát về tỉnh Bình Thuận
Bình Thuận là tỉnh duyên hải cực
Nam Trung Bộ, tiếp giáp với các tỉnh
Ninh Thuận ở phía bắc, Lâm Đồng phía
tây bắc, Đồng Nai phía tây, Bà Rịa -
Vũng Tàu phía tây nam và tiếp giáp với
Biển Đông phía đông và đông nam.
Bình Thuận nằm trong tam giác tăng
trưởng du lịch của vùng là TP Hồ Chí
Minh - Đà Lạt - Nha Trang, đồng thời
nằm trong vùng giao điểm ảnh hưởng
hoạt động của 3 trung tâm du lịch quan
trọng của cả nước: Nha Trang - Ninh Chữ
- Đà Lạt, Bà Rịa - Vũng Tàu, TP Hồ Chí
Minh và phụ cận; gắn liền với vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam, một thị trường
hết sức rộng lớn và sôi động của du lịch.
Thành phố Phan Thiết, thủ phủ của
* ThS, Khoa Du lịch – Văn hóa
Trường Cao đẳng Cộng đồng Bình Thuận
tỉnh cách TP Hồ Chí Minh 198 km, Nha
Trang 250 km, Hà Nội 1.518 km. Đoạn
quốc lộ 1A đi qua địa bàn tỉnh có chiều
dài 178 km; đoạn đường sắt Bắc - Nam đi
qua tỉnh có chiều dài 180 km, quốc lộ 28
nối liền thành phố Phan Thiết với các
tỉnh Nam Tây Nguyên; quốc lộ 55 nối
liền với trung tâm dịch vụ dầu khí và khu
du lịch Vũng Tàu giúp cho việc đi lại hết
sức thuận lợi, mở rộng mối quan hệ giao
lưu phát triển kinh tế với các tỉnh Tây
Nguyên và cả nước, tạo điều kiện cho
tỉnh đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, tiếp thu
nhanh khoa học kỹ thuật; đồng thời cũng
là một thách thức lớn đặt ra cho việc cạnh
tranh phát triển du lịch.
2. Tài nguyên du lịch biển, đảo
2.1. Đồi cát và cồn cát ven biển
Các cồn cát và đồi cát ven biển là
một trong những tài nguyên du lịch quý
Created by Simpo PDF Creator Pro (unregistered version)
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Số 26 năm 2011
_____________________________________________________________________________________________________________
80
giá của Việt Nam nói chung và của Bình
Thuận nói riêng có khả năng thu hút
nhiều du khách vào các hoạt động tham
quan, nghiên cứu, cắm trại, và các hoạt
động thể thao, vui chơi giải trí khác biệt
trên cát ít thấy ở nước ta như thi chạy, đi
bộ, đi xe đạp, xe máy, ôtô vượt đồi cát,
chơi bóng chuyền, bóng đá, trượt ván
trên cát. Dạng tài nguyên này chiếm tới
18% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, được
phân bố dọc ven biển. Khu vực có diện
tích lớn nhất (dài 52 km, rộng 20 km) về
loại tài nguyên này là huyện Bắc Bình.
Nét khác biệt của Bình Thuận là
những vùng cát đỏ có tuổi được xác định
từ 19.000 - 27.000 năm, thời kì Trái Đất
xảy ra quá trình tân kiến tạo đới bờ trong
kỷ Đệ tứ, nhóm đất này hiện phân bố chủ
yếu ở Ninh Thuận và Bình Thuận. Những
nơi cát đỏ gắn kết, gió và nước bào mòn
đã tạo nên các kiến trúc phong thành rất
đặc trưng và đa dạng, tạo nên các khu
vực cảnh quan cục bộ đầy đủ những dạng
tháp, trụ nhũ, các cụm nấm, suối hồng
tuy không lớn nhưng kỳ lạ, tạo nên các
quần thể công viên cát đỏ, sản phẩm du
lịch đặc sắc không bị trùng lặp với nơi
khác. Khối đất cát đỏ lớn nhất phân bố ở
bắc và đông nam Phan Thiết (vùng Bắc
Bình và Tiến Thành), chiều dài khoảng
60 km, rộng khoảng 20 km.
Bảng 1. Bảng danh mục tài nguyên du lịch đồi cát ven biển
STT Tên tài nguyên Địa chỉ
1 Đồi Cát Bay phường Mũi Né, thành phố Phan Thiết
2 Đồi Cát Trinh Nữ xã Hòa Thắng, huyện Bắc Bình
Nguồn: Sở VH, TT & DL Bình Thuận
Đồi Cát Bay diện tích gần 50 ha,
đồi cát thơ mộng nhất ở Việt Nam (Trung
tâm sách kỷ lục Việt Nam đã ghi nhận)
như một bức tranh thiên nhiên sống động
với những gam màu hòa quyện mang một
vẻ đẹp rất riêng. Điểm độc đáo nhất của
đồi cát Mũi Né là sau mỗi đợt gió lớn,
hoặc trải qua khoảng thời gian một ngày
đêm thì diện mạo của đồi cát lại trở nên
mới nguyên, khác hẳn với hình dạng
trước đó, tạo nên những cảnh quan vô
cùng độc đáo. Đồi Cát Bay trở thành một
điểm tham quan hấp dẫn của du khách
trong và ngoài nước. Đây cũng là nơi các
đoàn ca nhạc, làm phim dùng làm bối
cảnh và được các nhà nhiếp ảnh chọn làm
nơi chụp những tấm ảnh nghệ thuật. Mũi
Né trở thành một trong những điểm du
lịch nổi tiếng ở Việt Nam được tìm kiếm
thông tin nhiều nhất trên mạng internet.
2.2. Các bãi biển
Bình Thuận có bờ biển trải dài 192
km chạy theo hướng Đông Bắc - Tây
Nam, nhiều nhánh núi ăn lan ra biển tạo
nên những mũi đất (Mũi La Gàn, Duồng,
Mũi Nhỏ, Mũi Né, Kê Gà), che chắn
gió bão cho thuyền, ghe, chia bờ biển
thành những vùng lõm sâu vào đất liền
như Cà Ná - Vĩnh Hảo, La Gàn, Phan
Thiết, La Gitạo nên cảnh quan thiên
nhiên hữu tình. Các bãi biển lại phân bố
ở những vị trí gần quốc lộ 1A và tuyến
đường 706 Phan Thiết - Mũi Né, tuyến
đường ven biển Phan Thiết - Tiến Thành
Created by Simpo PDF Creator Pro (unregistered version)
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM La Nữ Ánh Vân
_____________________________________________________________________________________________________________
81
- Thuận Quý - Khe Gà - Cầu Quan - La
Gi khá thuận lợi đón khách du lịch đến
tắm biển, lặn biển, tham quan đáy biển,
kết hợp với thể thao thuyền buồm, lướt
ván, du thuyền.
Điển hình là bãi biển Đồi Dương
cách trung tâm thành phố Phan Thiết hơn
1 km, bờ biển thoai thoải, cát trắng mịn,
nước biển trong xanh, quanh năm nắng
ấm, dương liễu được trồng dọc theo bãi
biển và trên ngọn đồi yên ắng, thoáng
đãng, ít nơi nào có thể sánh kịp về mặt
bằng, vẻ xanh tươi, mát mẻ, sạch sẽ.
Bảng 2. Bảng danh mục tài nguyên du lịch bãi biển
STT Tên tài nguyên Địa chỉ
1 Bãi Biển Bình Thạch Xã Bình Thạch
2 Bãi Biển Cà Ná Xã Vĩnh Tân
2 Bãi Biển Cam Bình Xã Tân Phước
4 Bãi Biển Đồi Dương Xã Hòa Minh
5 Bãi biển Thương Chánh Hưng Long
6 Bãi biển Gành - Hòn Lao Mũi Né
7 Bãi biển Hà Lãng Xã Tân Thẵng
8 Bãi Biển Hòn Lan Xã Tân Thành
9 Bãi Biển Hòn Rơm Mũi Né
10 Bãi Biển Hòn Tranh Xã Tam Thanh
11 Bãi biển Lạch Vũng Môn Xã Hòa Thắng
12 Bãi biển Long Sơn suối nước P. Long Sơn
13 Bãi biển Mỹ Sơn Xã Sơn Mỹ
14 Bãi Biển Rạng P. Hàm Tiến
15 Bãi Biển Thuận Quý Khe Gà Xã Thuận Quý
16 Bãi biển Tiến Thành Tiến Thành
17 Bãi biển Hố Lỡ Tiến Thành
17 Bãi Chùa Xã Hòa Thắng
19 Bãi Đá con Ba Màu Xã Bình Thạch
20 Bãi Doi Dừa Xã Ngũ Phụng
21 Bãi Hòn Nghề Xã Hòa Thắng
22 Bãi Nhỏ Ngành Gianh Xã Tam Thanh
Nguồn: Sở VH, TT & DL Bình Thuận
2.3. Vùng biển và hải đảo
Với diện tích lãnh hải 52.000 km2,
vùng biển Bình Thuận giàu nguồn lợi về
các loại hải sản với trên 500 loài cá (tổng
trữ lượng cá vùng biển ven bờ là 220 -
240 nghìn tấn, khả năng khai thác 130 -
120 nghìn tấn/năm, trong đó có 60% cá
nổi tập trung ở 3 ngư trường Phan Thiết,
Hàm Tân và đảo Phú Quý), 146 loài san
hô, trên 100 loài động vật phù du
Nhóm động vật giáp xác cũng phong phú,
với nhiều loài có giá trị kinh tế như tôm
Created by Simpo PDF Creator Pro (unregistered version)
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Số 26 năm 2011
_____________________________________________________________________________________________________________
82
hùm, ghẹ, cua, các loài da gai có Hải
sâm, cầu gai, huệ biển, sao biển là điều
kiện thuận lợi thu hút các hoạt động du
lịch đồng thời là nguồn thực phẩm phong
phú đáp ứng nhu cầu ẩm thực của khách
du lịch.
Sóng biển ở đây thay đổi từ hướng
Đông Đông Bắc (tháng 1 - 4), chuyển
sang hướng Tây Tây Nam (tháng 5 - 10),
và hướng Đông Bắc (tháng 11,12). Độ
sóng cao trung bình 1 - 1,2m, cực đại 2,5
m. Vùng Hàm Tiến – Mũi Né trong mùa
gió Tây Nam, chiều cao sóng trung bình
ven bờ từ 1 - 3 m, hướng sóng chính là
Tây rất thuận lợi cho loại hình du lịch
lướt sóng. Chế độ hải văn nhìn chung rất
thuận lợi cho phát triển du lịch, hầu hết
các tháng trong năm đều có thể tắm biển,
đặc biệt tháng 11 và 12 thuận lợi cho
môn thể thao lướt sóng.
Vùng biển ven bờ có thủy triều
không đều. Từ mũi Kê Gà đến giáp Bà
Rịa - Vũng Tàu là bán nhật triều không
đều, từ bắc Kê Gà trở ra mang tính chất
nhật triều, trong một tháng có từ 18 - 22
ngày nhật triều. Thời gian triều dâng và
triều rút chênh lệch khá lớn, thời gian
triều cường lớn hơn thời gian thoái triều.
Triều cường (Max) là 2,1 m, triều cường
(Min) là 0,4 m.
Bình Thuận có khí hậu nhiệt đới
điển hình, nhiều gió, nhiều nắng, không
có mùa đông. Nhiệt độ trung bình năm
cao 26,50C– 27,50C, tổng số ngày nắng
bình quân năm cao 348 - 360 ngày (trung
bình mỗi ngày có từ 8 - 10 giờ nắng). Độ
mây thấp, đặc biệt là vùng ven biển,
trung bình lượng mây chỉ chiếm khoảng
nửa bầu trời tạo nên một khu vực có độ
nắng dồi dào cả về lượng và chất. Điều
này rất có giá trị đối với các bệnh cần độ
nắng lớn và liên tục. Do vậy có thể tạo
nên một chế độ nghỉ dưỡng đặc biệt tại
khu vực. Nắng nóng, nhiệt độ cao tập
trung nhất vào buổi trưa, thời điểm từ 11
giờ đến 15 giờ trong các tháng 4, 5, 6 trời
có nhiều mây, nắng nóng nhất trong năm,
hạn chế các hoạt động du lịch thể thao
trên cát. Song vào thời điểm này gió
thường xuyên và tốc độ gió tương đối lớn
làm hạn chế những ảnh hưởng của nhiệt
độ đối với cơ thể con người. Lượng bốc
hơi lớn tạo nên một môi trường sinh thái
hết sức khắc nghiệt và nhạy cảm, tính đa
dạng sinh học dễ bị tổn thương, suy giảm
chỉ cần tác động nhỏ thiếu tầm soát có
thể phải trả giá lớn cho việc phục hồi sinh
thái môi trường trong nhiều năm thậm chí
vài thập kỷ.
Bình Thuận không chịu ảnh hưởng
trực tiếp của gió mùa Đông Bắc, không
có mùa đông lạnh, mùa mưa đến chậm và
rất tập trung trong 3 tháng (IX-XI). Mùa
khô kéo dài khoảng 6 đến 8 tháng, nhưng
lượng mưa mùa này chỉ chiếm khoảng
10-15% tổng lượng mưa năm. Lượng
mưa trung bình hàng năm thay đổi theo
hướng tăng dần từ Bắc xuống Nam, từ
Tây sang Đông. Lượng mưa trung bình
toàn tỉnh là 800 – 1600 mm/năm, thấp
hơn mức trung bình của cả nước. Cường
độ và lượng mưa không ảnh hưởng lớn
đến du lịch – nghỉ dưỡng, nhưng có hạn
chế một số hoạt động thể thao trên cát.
Bình Thuận nằm trong khu vực ít bị ảnh
hưởng của bão. Tuy nhiên ở một số khu
vực từ Bắc Bình trở ra, thời điểm tháng
Created by Simpo PDF Creator Pro (unregistered version)
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM La Nữ Ánh Vân
_____________________________________________________________________________________________________________
83
10, 11, 12 có xuất hiện một số cơn bão
với cấp gió không lớn.
Vùng biển Bình Thuận có nhiều
đảo gần và xa bờ. Gần bờ có Cù Lao Câu
(Tuy Phong), Hòn Nghề (Bắc Bình), Hòn
Lao (Phan Thiết), Hòn Bà (Hàm Tân)
Ngoài khơi có một số đảo, trong đó có 10
đảo thuộc huyện đảo Phú Quý (Cù Lao
Thu). Các đảo có môi trường trong lành,
nhiều sinh vật biển đặc sắc, nhiều chủng
loại san hô Các rạn san hô là nơi quần
tụ của nhiều loài sinh vật khác nhau,
thường gặp là các loài thân mềm, nhiều
loại đặc sản như Tu hài, Sò lông và
nhiều loài trai ốc đẹp. Nhiều loài cá ở rạn
san hô có màu sắc sặc sỡ, tạo sự huyền ảo
và hấp dẫn rất thích hợp cho việc tổ chức
các loại hình du lịch lặn biển, tham quan,
nghiên cứu. Riêng ở hai tỉnh Ninh Thuận
và Bình Thuận bước đầu do Viện Hải
dương học Nha Trang điều tra khảo sát
đã xác định 134 loài thuộc 48 giống san
hô cứng, 28 loài san hô mềm và 2 loài
san hô sừng, 2 loài thủy tức san hô. Số
lượng giống, loài san hô kể trên chứng tỏ
vùng biển cực Nam Trung Bộ có thành
phần san hô rất đa dạng, chiếm trên 70%
tổng số giống san hô tạo rạn của Việt
Nam (trên thế giới, những vùng biển có
số lượng khoảng 75 loài đã được xem là
vùng giàu san hô). Khu vực tập trung chủ
yếu của các rạn san hô của Bình Thuận là
vùng Cù Lao Câu và huyện đảo Phú Quý.
Cù Lao Câu diện tích khoảng
10.000 m2 cách bờ biển thị trấn Liên
Hương khoảng 8 – 10 km, nằm trong khu
vực có khí hậu khô nóng nhất Việt Nam.
Trên đảo, hệ sinh thái rất nghèo nàn chỉ
bao gồm các trảng cỏ chịu hạn, thưa thớt
các thảm thực vật lá nhỏ dạng gai. Động
vật trên đảo chỉ thấy một số loài bò sát
nhỏ và chim. Trái với hệ sinh thái đất khô
trên đảo, hệ sinh thái biển của Cù Lao
Câu vô cùng phong phú và đặc sắc.
Tháng 2, tháng 3 hàng năm trời êm, sóng
dịu là thời điểm thích hợp cho du lịch lặn
biển. Từ khu du lịch lặn biển Scuba, du
khách đi canô chỉ mất 45 phút là đến Cù
Lao Câu. Đây là vùng sinh thái nguyên
nét hoang sơ, nước trong vắt, chỉ cần đeo
kính bơi úp mặt xuống nước là có thể
nhìn thấy đáy biển sâu hơn 10 m và
những đàn cá bơi lội. Đáy biển có bãi san
hô nguyên thủy dài hơn 2 km với nhiều
loại san hô đỏ, trắng, xanh, tím, vàng.
Đặc biệt, lặn xuống độ sâu 4 – 5 m, thế
giới đại dương là ngôi nhà của hàng ngàn
loài cá quý hiếm và sinh vật lạ. Đặc biệt
là có hàng vạn khối đá kỳ thú với hình
dạng và màu sắc và kích thước khác nhau
bao quanh đảo.
Phú Quý có diện tích 16 km2, một
quần thể gồm nhiều hòn đảo lớn nhỏ cách
thành phố Phan Thiết 120 km, trong đó
chỉ có đảo lớn Phú Quý là có dân cư sinh
sống đông đúc, các đảo nhỏ còn lại là đảo
hoang, nơi trú ngụ tạm thời của ngư dân
trong mùa gió hoặc được sử dụng vào
mục đích thờ cúng cho nghề biển (cúng
cầu ngư, cúng Cá Ông Nam Hải).
Nhóm đảo nhỏ xung quanh phân bố khá
rộng và không tập trung, dân địa phương
gọi là những hòn lẻ. Phú Quý có các bãi
biển đẹp hoang sơ chưa được khai thác,
san hô tập trung mật độ cao ở bãi biển
Lạch Dù, bãi Gành Hang, xã Tam Thanh.
San hô ở đây tập trung thành cụm lớn ở
mực nước sâu, lúc còn nhỏ chúng kết
Created by Simpo PDF Creator Pro (unregistered version)
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Số 26 năm 2011
_____________________________________________________________________________________________________________
84
thành những cành cây màu trắng đục.
Trong quá trình sinh trưởng phát triển
chúng liên kết khối lại với nhau thành
những cụm lớn và trồi lên mặt biển tạo
thành những đảo nhỏ san hô và đây cũng
chính là những nơi vừa lưu chứa thức ăn
vừa là nơi ẩn nấp an toàn cho nhiều loài
cá và hải sản đặc hữu của khu vực.
Phú Quý và Cù Lao Câu là hai khu
vực được Bộ Thủy sản chọn xây dựng
thành hai khu bảo tồn biển lớn nhất của
quốc gia để bảo tồn đa dạng sinh học cho
vùng duyên hải cực nam Trung Bộ.
Bảng 3. Danh mục khu bảo tồn biển – đảo
STT Tên tài nguyên Địa chỉ
1 Khu BTTN Đảo Cù Lao Câu Xã Phước Thề
2 Khu bảo tồn biển đảo Phú Quý Phú Quý
Nguồn: Sở VH,TT &DL Bình Thuận
3. Thực trạng khai thác tài nguyên
du lịch biển, đảo
Bình Thuận có vị trí địa lí thuận lợi,
tiềm năng du lịch phong phú, đặc sắc và
hấp dẫn cho phép phát triển nhiều loại
hình du lịch. Nổi bật nhất là tài nguyên
và cảnh quan biển, đảo gồm hàng loạt các
bãi tắm đẹp, đồi cát khá đa dạng, vùng
biển và hải đảo hoang sơ, thơ mộng. Tài
nguyên du lịch biển – đảo là thế mạnh của
tỉnh, là cơ sở tổ chức các sản phẩm và loại
hình du lịch hấp dẫn.
Khu vực đồi cát ven biển Bình
Thuận, nơi sở hữu những vùng cảnh quan
môi trường sinh thái đẹp vào loại bậc
nhất của khu vực đã làm nên tên tuổi của
du lịch Bình Thuận, là điều kiện thuận lợi
để khai thác các sản phẩm du lịch tham
quan hệ sinh thái đồi cát, tổ chức các sự
kiện thi đấu thể thao trên cát gắn với các
loại hình du lịch dã ngoại, thăm quan
chụp ảnh lưu niệm, tham gia các trò chơi
trên cát (trượt cát, lướt ván trên cát, khinh
khí cầu, đi bộ trên cát...). Ngoài ra có thể
khai thác sản phẩm du lịch gắn với hồ
nước trên cát với các loại hình như chèo
thuyền, bơi lội, câu cá, cắm trại, tổ chức
các trại sáng tác thường niên.
Tháng 12 năm 2010, Festival
Thuyền buồm quốc tế sẽ diễn ra tại Bình
Thuận, thu hút khoảng 20 đội tuyển
thuyền buồm chuyên nghiệp đến từ nhiều
quốc gia trên thế giới như Trung Quốc,
Hàn Quốc, Nhật Bản, Tây Ban Nha, Đức,
Mỹ... tham dự. Du thuyền và đua thuyền
buồm đang còn xa lạ với công chúng Việt
Nam. Festival Thuyền buồm quốc tế Mũi
Né - Bình Thuận - Việt Nam thực sự sẽ là
một thiên đường cho những người yêu
thích giải trí thuyền buồm và du thuyền
trên thế giới, sẽ đem lại hình ảnh vô cùng
ấn tượng cho du khách, góp phần làm
phong phú thêm sản phẩm du lịch biển,
giới thiệu với du khách trong nước và
bạn bè quốc tế về tiềm năng, thế mạnh,
vẻ đẹp và sức hấp dẫn của du lịch biển
Việt Nam và tỉnh Bình Thuận.
Hoạt động khai thác du lịch đã chú
trọng điều hoà giữa khâu khai thác, cải
tạo, phục hồi và tái tạo tài nguyên. Các
loại hình vui chơi giải trí, thể thao phù
hợp với đặc thù, lợi thế về biển được
Created by Simpo PDF Creator Pro (unregistered version)
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM La Nữ Ánh Vân
_____________________________________________________________________________________________________________
85
khuyến khích phát triển như đua thuyền
trên sông Cà Ty, leo núi Tà Cú, chạy
vượt đồi cát Mũi Né, vài năm gần đây
đã đưa vào hoạt động thử nghiệm loại
hình thể thao xe địa hình vượt đồi cát
Mũi Né và đang từng bước khai thác có
hiệu quả loại hình du lịch thể thao có sức
hấp dẫn lớn đối với khách nước ngoài
như các giải golf, lướt ván diều, lướt ván
buồm quốc tế tạo ra nét mới, có sức
hấp dẫn, phong phú hơn về sản phẩm du
lịch.
Với lợi thế tài nguyên du lịch biển,
đảo tỉnh đẩy mạnh khai thác du lịch Nghỉ
dưỡng tắm biển, Nghiên cứu và khám phá
đại dương, Tham quan hệ sinh thái dưới
nước, Tổ chức các sự kiện thể thao nước
và trên cát, Tổ chức các cuộc thi sáng tác
nghệ thuật với cát, Tham quan đời sống
của cộng đồng cư dân sinh sống ven biển
và trên đảo.
Bình Thuận đã hình thành nhiều
khu du lịch ven biển như Khu du lịch
Mũi Né - Tiến Thành (Phan Thiết), Khu
du lịch ven biển Lagi, Khu du lịch ven
biển Bắc Bình, Khu du lịch ven biển Tuy
Phong.
Cùng với khu du lịch là các tuyến
du lịch đã và đang được hình thành như:
Tuyến Phan Thiết - Tuy Phong (Chùa
Hang, Gành Son, Bãi Đá màu); Tuyến
Mũi Né - Hòn Rơm - Hoà Thắng (Bàu
Trắng, Đồi cát bay Mũi Né); Tuyến
Tiến Thành - Thuận Quý - Tà Cú - Kê Gà
(Ngọn Hải Đăng, cáp treo Tà Cú)...
Những hạng mục đầu tư lớn đều có
các giải pháp phát triển bền vững tài
nguyên trong quy hoạch tổng thể và quy
hoạch chi tiết của các cụm, khu du lịch.
Các cấp quản lý của địa phương đều nhất
trí tiến hành các biện pháp khai thác tài
nguyên bền vững trong quy hoạch phát
triển du lịch. Đây là môi trường thuận lợi
cho công tác bảo vệ và sử dụng hợp lý
các nguồn tài nguyên du lịch, và hướng
các chủ đầu tư thực hiện đúng các tiêu
chí khai thác bền vững tài nguyên.
Tuy nhiên, khai thác tài nguyên du
lịch ở Bình Thuận thời gian qua chủ yếu
là khai thác tài nguyên sẵn có. Hiện tại
ngành du lịch mới chỉ tập trung khai thác
phần ngọn là các bãi biển dọc bờ (nhưng
mới chỉ có 50% các bãi biển được khai
thác đáng kể phục vụ du lịch), chưa đầu
tư phát triển những sản phẩm du lịch biển
khác, chẳng hạn hệ thống các đảo. Những
đảo còn nhiều hoang sơ để cho khách du
lịch khám phá như Phú Quý, Cù Lao
Câu... chưa được chú trọng đầu tư. Hải
đăng Khe Gà hơn 100 năm tuổi, điểm
tham quan tuyệt vời chưa thật sự thu hút
du khách.
Khoảng 80% các điểm du lịch đang
được khai thác trên địa bàn tỉnh tập trung
ở ven biển. Hoạt động du lịch đòi hỏi
lượng nước sạch rất lớn phục vụ nhu cầu
của khách. Bình Thuận nằm trong vùng
khô hạn nhất cả nước. Các nguồn nước
toàn tỉnh nói chung, nhất là khu vực ven
biển rất hạn chế. Vùng ven biển Tuy
Phong, Bắc Bình thiếu nước trầm trọng.
Phần lớn việc khai thác nước ngầm tầng
nông chưa được quản lý, kiểm soát chặt
chẽ. Trong điều kiện chưa có khả năng
điều tra mở rộng các mỏ nước ngầm mới,
việc tăng nhanh nhu cầu nước cho sản
xuất và sinh hoạt và du lịch khu vực ven
biển sẽ làm tăng mức độ suy thoái và ô
Created by Simpo PDF Creator Pro (unregistered version)
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Số 26 năm 2011
_____________________________________________________________________________________________________________
86
nhiễm các nguồn nước ngầm hiện đang
khai thác.
Các tài nguyên cảnh quan ven biển,
vốn là đặc trưng du lịch của Bình Thuận
đang có xu hướng suy thoái rõ rệt. Ở một
số nơi có nguy cơ bị sa mạc hóa, xói lở,
cát bay... trở ngại cho vấn đề bảo tồn cũng
như phát triển cảnh quan du lịch. Sa mạc
hóa hiện mới chỉ xảy ra cục bộ ở một số
khu vực ven biển, song tốc độ ngày càng
tăng và có nguy cơ gắn kết với nhau tạo
thành những khu vực lớn, rất khó khắc
phục.
Chất thải ven biển đang trở thành
một vấn đề bức xúc. Dân cư ven biển có
thói quen đổ rác xuống biển, biển nơi đây
chứa đựng tất cả những thứ không dùng
được của con người. Mặc dù các ngành
chức năng, các địa phương đã quan tâm
đến việc giải quyết chất thải, tổ chức thu
gom rác trên sông, ven biển nhưng tỷ lệ
thu gom rác thải mới đạt từ 55-70%. Kết
quả kiểm tra 135 cơ sở du lịch và chế
biến hải sản ven biển năm 2009 của sở
Tài nguyên và Môi trường, đã có đến 77
cơ sở không thực hiện đăng ký đạt tiêu
chuẩn môi trường, một số cơ sở lưu trú
chưa đầu tư hệ thống xử lý nước thải, phổ
biến là nước thải cho tự thấm hoặc thải
trực tiếp ra biển gây ảnh hưởng tới cảnh
quan và môi trường ven biển.
4. Một số giải pháp khai thác tài
nguyên du lịch biển, đảo
Con người là trung tâm của phát
triển, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác
tuyên truyền dưới nhiều hình thức làm
chuyển biến và nâng cao nhận thức trong
toàn xã hội về phát triển du lịch bền
vững, trước tiên là nhận thức của đội ngũ
nhân viên du lịch. Thứ hai là tiến hành
giáo dục cư dân địa phương, để họ hiểu
được ý nghĩa và vai trò quan trọng của
phát triển du lịch đối với sự phát triển
kinh tế và xã hội ở địa phương. Thứ ba là
tuyên truyền giáo dục đối với du khách ý
thức về tôn trọng và bảo vệ bản sắc văn
hóa, môi trường tự nhiên ở những nơi họ
đến du lịch.
Hoạt động kinh tế nói chung, du
lịch nói riêng phát triển tất yếu sẽ dẫn tới
sự gia tăng trong nhu cầu sử dụng các
nguồn nước, điều này đưa đến sự thiếu
hụt nguồn nước. Cần có các dự án nghiên
cứu thêm khả năng trữ nước, khai thác và
cân đối nguồn nước cho từng khu vực.
Đầu tư phát triển hệ thống cây xanh thích
hợp vùng ven biển ngăn chặn sự di động
của cát, hạn chế những tác động nguy cơ
sa mạc hoá vùng đồng bằng và vùng ven
biển.
Đối với các khu vực đang bị hoang
hóa, cần xúc tiến các chương trình, dự án
trồng rừng phủ xanh đất trống, đồi núi
trọc. Đối với các khu vực đang khai thác
khoáng sản dọc ven biển, cần giám sát
vấn đề thu gom xử lý chất thải, nước thải
trong và sau khi khai thác. Có giải pháp
trả lại nguyên trạng mặt bằng để chuyển
giao cho các dự án đầu tư phát triển du
lịch.
Tăng cường đầu tư, phát triển 2 khu
bảo tồn thiên nhiên Núi Ông và Núi
Takou và 2 khu bảo tồn biển Cù Lao Câu
và Phú Quý trở thành những điểm đếm
du lịch hấp dẫn và nổi tiếng. Đồng thời
tăng cường đầu tư quy hoạch, hình thành
các trục du lịch mới: trục du lịch khu bảo
tồn thiên nhiên Núi Ông – khu bảo tồn
Created by Simpo PDF Creator Pro (unregistered version)
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM La Nữ Ánh Vân
_____________________________________________________________________________________________________________
87
thiên nhiên Núi Takou, trục du lịch khu
bảo tồn biển Cù Lao Câu - Đảo Phú Quý,
trục Phan Thiết - Hàm Thuận - Đa Mi và
trục Phan Thiết - Thác Bà. Xúc tiến kêu
gọi đầu tư, tổ chức tour du lịch nghiên
cứu, khám phá văn hóa, đời sống đồng
bào dân tộc thiểu số ở tỉnh, tạo nên một
sự đồng bộ và liên hoàn trong khai thác,
tạo ra một tổ hợp đa dạng các loại hình
du lịch núi – biển – đảo mà nhiều tỉnh
khác không thể có được.
Căn cứ vào tiềm năng tài nguyên du
lịch biển, đảo trên địa bàn tỉnh, những
loại hình du lịch chủ yếu có thể tổ chức
được bao gồm:
- Du lịch nghỉ dưỡng (có tính hấp
dẫn cao): các khu du lịch ven biển thuộc
thành phố Phan Thiết, huyện Hàm Thuận
Nam, huyện Tuy Phong, huyện Hàm Tân,
huyện đảo Phú Quý.
- Du lịch tham quan, nghiên cứu: Các
Di tích văn hoá lịch sử (thành phố Phan
Thiết, huyện Hàm Thuận Nam, huyện
Bắc Bình), hệ động thực vật trên cạn,
dưới biển (Chùa núi Tà Cú - Hàm Thuận
Nam, Cù Lao Câu - Tuy Phong, huyện
đảo Phú Quý).
- Du lịch câu cá, lặn biển, thể thao
trên biển: các khu DLST ven biển thuộc
thành phố Phan Thiết, huyện Hàm Tân,
huyện Tuy Phong, huyện đảo Phú Quý,
huyện Hàm Thuận Nam.
- Du lịch mạo hiểm: Cù Lao Câu -
Tuy Phong, đảo Phú Quý, chùa núi Tà Cú
- Hàm Thuận Nam.
- Du lịch chữa bệnh: các khu DLST
ven biển (Thành phố Phan Thiết, Hàm
Thuận Nam, Hàm Tân, Tuy Phong).
- Du lịch thể thao: chơi Golf (Phan
Thiết), đua thuyền (Phan Thiết, Hàm
Thuận Nam, Tuy Phong).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cục Thống kê Bình Thuận (2009), Chân dung Thủ đô Resort.
2. Cục Thống kê Bình Thuận, Niên giám thống kê 2002 - 2009.
3. Đinh Kiệm (2008), Nghiên cứu định hướng phát triển du lịch sinh thái tỉnh Bình
Thuận và vùng Duyên hải cực Nam Trung Bộ đến năm 2020, Trường Đại học Kinh tế
TP HCM.
4. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bình Thuận, Đề án phát triển du lịch sinh thái tỉnh
Bình Thuận.
5. UBND tỉnh Bình Thuận, Báo cáo Sơ kết thực hiện Nghị quyết 19-NQ/TU của Tỉnh uỷ
về phát triển du lịch đến năm 2010.
6. UBND tỉnh Bình Thuận, Báo cáo tình hình du lịch từ năm 2001 - 2003 phương
hướng mục tiêu và giải pháp phát triển du lịch đến năm 2005 và 2010.
7. UBND tỉnh Bình Thuận, Báo cáo tình hình thực hiện Chiến lược phát triển du lịch
Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 của tỉnh Bình Thuận, Số:79/BC-UBND.
8. UBND tỉnh Bình Thuận, Báo cáo tình hình phát triển du lịch năm 2009, nhiệm vụ và
giải pháp năm 2010.
9. La Nữ Ánh Vân (2005), Phát triển du lịch bền vững tỉnh Bình Thuận, Luận văn Thạc
sĩ, Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tai_nguyen_du_lich_bien_dao_tinh_binh_thuan.pdf