As a small island located near the approximately centre of The Gulf of Tonkin, the Bach
Long Vi island possesses great values on geo-economic and geo-politic position resources. On the geoeconomic resources, the island is a priority site for the country’s sea-island economy development; a central
location in the economic space of the Gulf f of Tonkin; belonging directly to Haiphong city-the biggest
economic centre in the Northern coastal zone; an advantageous area to develop many marine services such as
fishery logiistics, petroleum, tourism, seeking for/and rescue, health, environment, banking and telecom etc. On
the geo-politic resources, the island possesses very great values on the determination, enlargement, and guard
of national marine sovereignty and benefit; national defense and security concerning the country’s Northern
Part; and sea-island culture with the deepfelt love of Vietnam country in the far island.
9 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 530 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài nguyên vị thế địa - Kinh tế và địa - chính trị đảo Bạch Long Vĩ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
207
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 13, Số 3; 2013: 207-215
ISSN: 1859-3097
TÀI NGUYÊN VỊ THẾ ĐỊA - KINH TẾ VÀ ĐỊA - CHÍNH TRỊ
ĐẢO BẠCH LONG VĨ
Trần Đức Thạnh1, Lê Đức An2
1Viện Tài nguyên và Môi trường Biển-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
246 Đà Nẵng, Ngô Quyền, Hải Phòng, Việt Nam
E-mail: thanhtd@imer.ac.vn
2Viện Địa lý- Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Ngày nhận bài: 5-11-2012
TÓM TẮT: Là một đảo nhỏ nằm gần giữa vịnh Bắc Bộ, Bạch Long Vĩ có những giá trị to lớn về tài
nguyên vị thế địa - kinh tế và địa - chính trị. Về tài nguyên địa - kinh tế, đảo là một vị trí ưu tiên đối với phát
triển kinh tế biển - đảo của đất nước; vị trí trung tâm trong không gian kinh tế vịnh Bắc Bộ; trực thuộc Hải
Phòng - trung tâm kinh tế lớn nhất ở Duyên hải phía Bắc; địa bàn thuận lợi cho phát triển nhiều loại hình dịch
vụ biển như hậu cần nghề cá, dầu khí, du lịch, tìm kiếm cứu nạn và y tế, môi trường, ngân hàng và viễn thông...
Về tài nguyên địa - chính trị, đảo có những giá trị rất lớn về khẳng định, mở rộng và đảm bảo chủ quyền và lợi
ích quốc gia trên biển; an ninh quốc phòng liên quan tới phần phía Bắc của đất nước; văn hoá biển đảo với
tình yêu tổ quốc sâu đậm nơi đảo xa.
Từ khóa: Đảo Bạch Long Vĩ, vị thế địa kinh tế và địa chính trị, tài nguyên.
MỞ ĐẦU
Đảo Bạch Long Vĩ (BLV) nằm gần giữa vịnh
Bắc Bộ (VBB), trong hệ toạ độ 20o07'35'' -
20o08'36''B và 107o42'20'' - 107o44'15''Đ, cách cảng
Hải Phòng 135km về phía Đông Nam. Đảo có hình
dáng đồi thoải dạng hình tam giác, góc nhọn nhất
nằm ở phía Đông Bắc, độ cao tuyệt đối 61,5m, cao
tương đối khoảng 90m, nhô lên từ mặt đồng bằng
đáy biển sâu khoảng 30m. Tính theo đường 0m lục
địa, đảo có chu vi 6,7km. Theo niên giám thống kê
năm 2011 của Hải Phòng, huyện đảo BLV có diện
tích 3,2km2 [3]. Diện tích đảo nổi trên mực triều cao
nhất là 1,78km2, trên mực biển trung bình (ngang
0m lục địa) là 2,33km2; đến mực triều thấp nhất là
3,05km2. BLV là đảo đá trầm tích Đệ Tam duy nhất
ở ven bờ Việt Nam, đặc biệt có trầm tích Paleogen
lộ ra tại đảo [1, 8].
Nằm giữa VBB, đảo BLV làm tăng thêm giá trị
cho vịnh, đồng thời được thừa hưởng và hội tụ tất cả
các phần giá trị của vịnh. BLV có giá trị lớn về tài
nguyên vị thế - đó là những lợi ích có được từ vị trí
địa lý và các thuộc tính về cấu trúc, hình thể sơn văn
và cảnh quan, sinh thái của một khu vực, có giá trị
sử dụng cho các mục đích phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo an ninh, quốc phòng và chủ quyền quốc
gia. Tài nguyên vị thế được đánh giá theo ba hợp
phần: vị thế tự nhiên, vị thế địa-kinh tế và vị thế địa-
chính trị [6]. Bài viết này trình bày kết quả nghiên
cứu về tài nguyên địa - kinh tế và tài nguyên địa -
chính trị của đảo.
GIÁ TRỊ TÀI NGUYÊN ĐỊA-KINH TẾ
Vị trí ưu tiên đối với phát triển kinh tế biển - đảo
của đất nước
Do có vị trí đặc biệt quan trọng về an ninh quốc
phòng và chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển nên
đảo BLV được đặc biệt quan tâm và ưu tiên phát
triển kinh tế theo hướng dân sự hoá đảo và được thể
Trần Đức Thạnh, Lê Đức An
208
hiện rõ qua các chủ trương và nghị quyết của Đảng.
Từ năm 1997, Bộ Chính trị đã có Chỉ thị 20-CT/TW
ngày 22/9/1997 về phát triển kinh tế biển, trong đó
nhấn mạnh cần quy hoạch và xây dựng chương trình
phát triển kinh tế hải đảo, trước hết tập trung vào
một số đảo quan trọng về kinh tế và quốc phòng, an
ninh như Phú Quốc, Thổ Chu, Côn Sơn, Phú Quý,
Lý Sơn, Cát Bà, Cô Tô, Vĩnh Thực và BLV. Trong
Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 5/8/2003 của Bộ
Chính trị (khoá IX) về việc xây dựng và phát triển
Tp. Hải Phòng trong thời kỳ công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước, đảo BLV được nhấn mạnh
cần phải được xây dựng để sớm trở thành trung
tâm chế biến và dịch vụ nghề cá cho các tỉnh ven
biển Bắc Bộ.
Chính phủ đã ra Nghị định số 15/NĐ/CP ngày
09/02/1992 về việc thành lập huyện đảo BLV thuộc
Tp. Hải Phòng. Cho đến nay, BLV trở thành một
trong mười huyện đảo ven bờ của cả nước, có
khoảng cách thuộc loại xa bờ nhất và diện tích tự
nhiên chỉ lớn hơn huyện đảo Cồn Cỏ. Đó là một sự
ưu tiên đặc biệt của Đảng và Nhà nước gắn phát
triển tổ chức hành chính với phát triển kinh tế BLV
và vùng biển xung quanh đảo.
Để thúc đẩy nhanh chóng phát triển tổ chức
hành chính và kinh tế, Thủ tướng Chính phủ đã ra
Quyết định số 379/TTg ngày 27/7/1994 phê duyệt
luận chứng kinh tế - kỹ thuật tổng thể xây dựng
BLV trở thành một đơn vị hành chính cấp huyện,
phát triển kinh tế - quốc phòng - xã hội toàn diện,
một trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá của ngư
trường VBB.
Sự ưu tiên đặc biệt đối với phát triển đảo còn
được thể hiện qua quyết sách đưa lực lượng thanh
niên xung phong ra xây dựng đảo theo Công văn số
3110/NC-CP ngày 13/8/1998 của Văn phòng Chính
phủ về xây dựng huyện đảo BLV thành huyện đảo
thanh niên. Đồng thời, Chính phủ đã có các chủ
trương cụ thể, quyết định về phát triển một số lĩnh
vực kinh tế trọng yếu tại đây như: xây dựng “Trung
tâm dịch vụ nghề cá ngư trường VBB theo Quyết
định 339/TTg; “Trung tâm nuôi thuỷ sản quý hiếm”
theo Thông báo số 40-TB/VPCP của Văn phòng
Chính Phủ và “Khu du lịch” theo Công văn số
2112/VPCP-KTTH ngày 17/5/1999 của Văn phòng
Chính phủ. Gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã ra
Quyết định số 742/QĐ-TTg ngày 26/5/2010 về việc
phê duyệt Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển
Việt Nam đến 2020, gồm 16 khu, trong đó có BLV.
Trải qua quá trình xây dựng và phát triển, BLV
đã khẳng định được lợi thế và định hướng phát triển
kinh tế của mình trong tổng thể phát triển kinh tế xã
hội Tp. Hải Phòng đến năm 2020 và tầm nhìn đến
2025 với việc UBND Tp. Hải Phòng đã ra Quyết
định số 1056/QĐ-UBND ngày 01/6/2009 về việc
phê duyệt Quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/2.000 huyện
đảo BLV.
Vị trí trung tâm của không gian kinh tế vịnh Bắc
Bộ
VBB là một vùng biển phát triển kinh tế năng
động với các lĩnh vực hàng hải, nghề cá, khai
khoáng, du lịch và các dịch vụ khác. Vượt qua VBB
là những tuyến đường hàng hải quan trọng của Bắc
Việt Nam và Nam Trung Quốc với các nước trong
khu vực và quốc tế, đặc biệt là từ cảng Hải Phòng
(Việt Nam) và Bắc Hải (Trung Quốc). Lòng đất
dưới đáy và khối nước của vịnh chứa đựng nhiều tài
nguyên thiên nhiên, đặc biệt là về dầu khí và hải sản
[4, 7]. Nằm ở trung tâm vịnh, khu vực biển - đảo
BLV được hưởng thụ từng phần của tất cả các lợi
thế này và vấn đề chỉ ở chỗ làm thế nào để phát triển
các lợi ích ấy.
Hình 1.Vị trí đảo Bạch Long Vĩ trong không gian
phát triển vùng Duyên hải Bắc Bộ
(Nguồn: Nguyễn Thành Biên và nnk, 2008. Báo cáo
quy hoạch xây dựng vùng Duyên hải Bắc Bộ đến
năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050)
BLV là một đơn vị hành chính cấp huyện của Tp.
Hải Phòng, nhưng có quan hệ không gian kinh tế gần
cách đều với tất cả các tỉnh thành thuộc dải ven bờ
Tây VBB từ Quảng Ninh đến Quảng Bình, gồm 8
tỉnh và 01 thành phố trực thuộc Trung ương với tổng
số 6 thành phố (1 loại I; 5 loại II), 7 quận, 4 thị xã và
34 huyện, với 7 triệu dân, mật độ 397 người/km2,
Tài nguyên vị thế địa - kinh tế và địa - chính trị
209
chiếm 40,3% dân số các tỉnh ven biển, có tổng GDP
năm 2007 chiếm khoảng 18% toàn quốc (461.443 tỷ
đồng). Nhóm GDP cao gồm Hải Phòng, Quảng Ninh,
Thanh Hoá và Nghệ An, cao hơn bình quân cả nước
1,3 - 1,6 lần. Tốc độ tăng trưởng các tỉnh hàng năm
8,3 - 15,3% giai đoạn 2001-2007, cao hơn trung bình
cả nước (7,7%) [2, 5].
Chính phủ đã có quyết định phê duyệt quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng ven biển Bắc
Bộ đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, trong
đó mức tăng trưởng kinh tế các tỉnh, thành đến năm
2020 đều trên 12% với cơ cấu chuyển dịch mạnh mẽ
sang công nghiệp và dịch vụ. Trong không gian phát
triển vùng, BLV có vai trò như là vị trí cửa ngõ, phụ
trợ cho các dòng vào và dòng ra trong quá trình phát
triển kinh tế hội nhập và hướng ngoại (hình 1). Đây
là nơi có những cơ hội phát triển lớn gắn với vành
đai kinh tế VBB, nối tuyến với hai hành lang kinh tế
Hải Phòng - Côn Minh và Hải Phòng - Nam Ninh
thuộc tiểu vùng sông Mê Kông. Hợp tác một vành
đai và hai hành lang được thực hiện từ năm 2005 ở
4 tỉnh của Trung Quốc là Vân Nam, Quảng Tây,
Quảng Đông, Hải Nam và 5 tỉnh, thành của Việt
Nam là Lào Cai, Lạng Sơn, Hà Nội, Hải Phòng và
Quảng Ninh với tổng diện tích 869.000km2, dân số
184 triệu người. Các lĩnh vực hợp tác gồm thương
mại, công nghiệp, nông nghiệp, du lịch, khai thác tài
nguyên, chế biến và điện lực ... trong khuôn khổ khu
vực mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN và hợp tác
tiểu vùng Mê Kông [5, 9].
Trực thuộc Thành phố Hải Phòng - Trung tâm
kinh tế lớn nhất ở Duyên hải phía Bắc
BLV là một trong số 15 quận, huyện trực thuộc
Tp. Hải Phòng, xa trung tâm thành phố nhất, nhưng
là một điểm tựa để mở rộng phát triển kinh tế Hải
Phòng, đồng thời được thừa hưởng những nền tảng
cơ bản và sức lan tỏa của một thành phố lớn loại I,
trực thuộc trung ương để phát triển kinh tế của chính
mình. Đây chính là một lợi thế phát triển kinh tế của
vùng biển đảo BLV.
Hải Phòng nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa đồng
bằng châu thổ sông Hồng và vùng núi ven biển
Đông Bắc, có dân số 1.878 triệu người (năm 2011),
diện tích đất tự nhiên 1.507km2, chiếm 0,47% của
cả nước, có một vị trí thuận lợi đối với phát triển
kinh tế xã hội và đặc biệt quan trọng đối với an
ninh, quốc phòng. Hải Phòng chỉ cách thủ đô Hà
Nội 100km, có điều kiện giao thông thuận tiện, kể
cả đường thuỷ, đường bộ, đường sắt và hàng không,
vì thế trở thành một trong những trung tâm công
nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch của cả nước và
của vùng duyên hải Bắc Bộ; là thành phố cảng, cửa
ngõ chính ra biển của các tỉnh phía Bắc; là đầu mối
giao thông quan trọng của miền Bắc và cả nước.Với
vị trí địa lý đặc biệt, điều kiện tự nhiên thuận lợi và
tài nguyên thiên nhiên đa dạng, giàu có, Hải Phòng
có tiềm năng lớn phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh
tế biển. Hải Phòng nằm trong trọng điểm kinh tế Hà
Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh của vùng kinh tế Bắc
Bộ. Đây là điểm nút của tuyến vành đai kinh tế
VBB nối với hai tuyến hành lang kinh tế.
Nghị quyết số 32-NQ/TW của Bộ Chính trị đặt
nhiệm vụ đến năm 2020 phải tập trung xây dựng và
phát triển để Hải Phòng xứng đáng là thành phố
cảng, công nghiệp hiện đại; là đô thị trung tâm cấp
quốc gia; đầu mối giao thông quan trọng và cửa
chính ra biển của các tỉnh phía Bắc, có cảng nước
sâu; một cực tăng trưởng quan trọng của vùng kinh
tế động lực phía Bắc; một trọng điểm phát triển kinh
tế biển; một trong những trung tâm công nghiệp,
thương mại lớn của cả nước và trung tâm dịch vụ,
du lịch, thủy sản, giáo dục và y tế của vùng duyên
hải Bắc Bộ.
Theo định hướng phát triển kinh tế đến năm
2015, tầm nhìn đến năm 2020, cơ cấu kinh tế với tỷ
trọng dịch vụ của Hải Phòng là 55 - 56%; công
nghiệp 37 - 38%; nông nghiệp 6 - 7% vào năm 2015
và tương ứng 62 - 64%; 33 - 34% và 3 - 4% vào
năm 2020 (nguồn: Thành ủy Hải Phòng, 2007). Việc
phát triển hệ thống cảng (đặc biệt cảng nước sâu
Lạch Huyện), dịch vụ cảng, vận tải biển đảm bảo
đến năm 2015 lượng hàng thông qua các cảng 55 -
60 triệu tấn/năm; đến năm 2020 đạt 80 - 100 triệu
tấn/năm. Hải Phòng đẩy mạnh phát triển các khu
kinh tế, các khu công nghiệp, khu đô thị ven biển;
công nghiệp đóng mới, sửa chữa tàu thuỷ và phương
tiện nổi; kinh tế thuỷ sản và du lịch. Cùng với định
hướng phát triển đó của Hải Phòng, huyện đảo BLV
phát triển theo mô hình kinh tế đảo tiền tiêu, cơ cấu
kinh tế chuyển dịch theo hướng dịch vụ-công
nghiệp - nông nghiệp, trong đó tỷ trọng dịch vụ đến
năm 2015 là 80%, năm 2020 trên 80%.
Địa bàn thuận lợi cho phát triển nhiều loại hình
kinh tế dịch vụ biển.
Với vị trí thuận lợi nằm giữa VBB có nhiều
hoạt động kinh tế sôi động và với điều kiện diện tích
tự nhiên cho phép, BLV có tiềm năng trở thành một
trung tâm dịch vụ quan trọng về nhiều lĩnh vực ở
Trần Đức Thạnh, Lê Đức An
210
quy mô khác nhau: hậu cần nghề cá, dầu khí, du
lịch, tìm kiếm cứu nạn và y tế, dịch vụ môi trường,
ngân hàng và viễn thông, ...
Dịch vụ hậu cần nghề cá. BLV là một trong
các ngư trường tốt nhất của VBB, vào mùa cá tập
trung 800 - 900 tầu thuyền đánh bắt, đến từ nhiều
địa phương [7]. Thực tế đã đặt ra cho vùng biển đảo
nhiều yêu cầu dịch vụ, từ nơi trú đậu tránh gió bão,
cung cấp xăng dầu, nước ngọt, lương thực, thực
phẩm, ngư cụ, đến sửa chữa nhỏ, thu mua hải sản,
bảo quản, chế biến; dịch vụ tài chính và y tế. Chính
vì vậy, Nghị quyết số 32-NQ/TW đã đặt nhiệm vụ
“Nghiên cứu xây dựng đảo BLV sớm trở thành trung
tâm chế biến và dịch vụ hậu cần nghề cá cho các
tỉnh ven biển Bắc Bộ”. Trung tâm này còn phục vụ
hữu hiệu cho thực hiện Hiệp định hợp tác nghề cá,
đáp ứng được tình hình hợp tác sử dụng, khái thác
bền vững tài nguyên sinh vật trong VBB và trong
tương lai là một ưu thế kinh tế dịch vụ tại đây. BLV
còn có thể trở thành một cửa khẩu với xuất nhập
khẩu tiểu ngạch, chủ yếu về hải sản, có ý nghĩa kinh
tế lớn vì thu hút được hàng hóa hải sản trôi nổi trên
biển, mà Nhà nước không kiểm soát được. Mặc dù
cơ sở hạ tầng bến bãi và khu dịch vụ hậu cần nghề
cá được xây dựng và đưa vào sử dụng chưa phải là
đồng bộ và hiện đại, nhưng Trung tâm dịch vụ hậu
cần nghề cá BLV đi vào hoạt động từ cuối tháng 3
năm 2003 đã phát huy được tác dụng. Từ khi cảng,
khu neo đậu tầu và khu dịch vụ hậu cần nghề cá đi
vào hoạt động, tầu thuyền đánh cá đến ngư trường
BLV tăng lên rất nhanh. Ngoài ra, còn nhiều tầu thu
mua, dịch vụ thuỷ sản đến đây kinh doanh buôn bán
nhộn nhịp.
Dịch vụ dầu khí. Trong những năm tới, dịch
vụ dầu khí có thể hoạt động và mang lại lợi ích đáng
kể khi tiềm năng dầu khí trở thành hiện thực. Nhận
thức được khả năng này, một khu đất rộng 8,53ha kế
cận phía Đông cảng hiện nay cần được quy hoạch
dự trữ cho dịch vụ dầu khí bao gồm hệ thống các
khách sạn, nhà hàng, khu nghỉ dưỡng, văn phòng,
nhà hội thảo, phòng nghiệp vụ địa chất dầu khí, kỹ
thuật khai thác và kinh tế mỏ, khu hậu cần kỹ thuật,
thiết bị thăm dò và khai thác dầu khí, ... Khu này trở
thành cơ sở hậu cần của trường dầu, bãi giếng, giảm
tải và chí phí xây dựng giàn khoan trên biển.
Dịch vụ du lịch và nghỉ dưỡng. Du lịch BLV
sẽ trở thành một điểm hấp dẫn trong hệ thống du
lịch biển Việt Nam nối liền với Cô Tô, Móng Cái,
Hạ Long - Bái Tử Long, Cát Bà, Đồ Sơn, Sầm Sơn,
Cửa Lò và các điểm du lịch phía Nam. Do vị trí
thuận lợi, BLV sẽ là điểm đến của nhiều khách du
lịch quốc tế từ tầu du lịch vượt đại dương nếu được
tổ chức tốt. Đối tượng du lịch ở đây là cảnh quan bờ
đảo có bãi đá, bãi cát và vành đai xanh, các công
trình kiến trúc như nhà đèn biển, trạm khí tượng,
trạm nghiệm triều, cảng, công viên cây xanh, không
khí trong lành, các công trình văn hóa như nhà bảo
tàng, đài tưởng niệm, đền chùa, khu nuôi Bào ngư,
khu bảo tồn biển có cảnh quan ngầm độc đáo. Các
hoạt động du lịch và nghỉ dưỡng giữa biển khơi bao
gồm du lịch lữ hành quốc tế; du lịch khoa học địa
chất và sinh thái, du ngoạn không gian du lịch ba
chiều: mặt biển đảo, trên không và dưới đáy biển;
nghỉ dưỡng ngắn ngày (cuối tuần, sinh nhật, ...) và
dài ngày (kỳ nghỉ hè, kỳ nghỉ đông, kỳ trăng
mật,...). Phát triển các loại hình vui chơi và giải trí
như tắm biển, lặn biển; lướt ván, bơi thuyền; câu cá
và lặn bắt Bào ngư.
Dịch vụ tìm kiếm cứu nạn và y tế trên biển.
BLV có điều kiện thuận lợi cho hình thành và phát
triển một trung tâm tìm kiếm cứu nạn trên biển thực
hiện các dịch vụ cứu hộ, cứu nạn, thông tin cảnh báo
thiên tai về gió bão và lốc tố trên biển. Đặc biệt, nhu
cầu dịch vụ y tế trên biển rất cao, mang tính nhân
đạo và hỗ trợ người dân hoạt động kinh tế và thực
hiện các quyền chủ quyền và lợi ích quốc gia trên
VBB. Ví dụ, vào ngày 11/8/2012, tại khu vực biển
BLV, tàu cá mang số hiệu QNa 46386TS trong lúc
đang đánh mực thì có 2 thuyền viên bị thương nặng
do tai nạn. Quân y Đồn Biên phòng BLV đã sử dụng
hệ thống thông tin liên lạc hướng dẫn thuyền trưởng
sơ cứu người bị nạn, đồng thời cho tàu chạy vào đảo
để cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa huyện đảo. Ngày
12/8, hai người bị nạn được các bác sĩ kịp đưa vào
Hải Phòng để điều trị tiếp và đã qua khỏi tai nạn
(
3.cand).
Dịch vụ môi trường. Việc phát triển dầu khí có
thể còn kéo theo nguy cơ gây ô nhiễm môi trường
biển do dầu. Khi đó BLV sẽ là một tâm điểm phát
hiện và xử lý kịp thời rất tốt các vụ tràn dầu, hạn
chế thiệt hại cho môi sinh, con người và các hoạt
động trên biển khác. Hoạt động sản xuất và sinh
hoạt trên biển với quy mô ngày càng lớn sẽ phát thải
một lượng chất thải trên VBB ngày càng lớn và yêu
cầu bảo vệ môi trường vịnh ngày càng cao tất yếu
dẫn đến quy định bắt buộc một số chất thải không
được xả thải tự do ra môi trường. Hoạt động thu
gom rác thải trên biển để xử lý là một nhu cầu tất
yếu trong tương lại và BLV trở thành một điểm dịch
vụ xử lý rác thải, nhất là rác thải rắn.
Tài nguyên vị thế địa - kinh tế và địa - chính trị
211
GIÁ TRỊ TÀI NGUYÊN ĐỊA - CHÍNH TRỊ
Giá trị về chủ quyền, quyền chủ quyền và lợi ích
quốc gia trên biển
Giá trị khẳng định chủ quyền biển đảo
Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố về các vùng
biển Việt Nam ngày 12/5/1977, quy định các đảo
của Việt Nam đều có lãnh hải 12 hải lý, vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa riêng. Tuyên bố này
hoàn toàn phù hợp với nội dung của Công ước của
Liên hợp quốc năm 1982 về Luật biển là các đảo có
đời sống kinh tế riêng hoặc thích hợp cho con người
đến ở đều có quyền có lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa riêng. Thông qua nội dung
Luật biển Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày
21/6/2012 và nội dung của Hiệp định phân định
VBB giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày
25/12/2000, có thể thấy BLV có giá trị to lớn và
vững chắc về chủ quyền biển đảo của Việt Nam tại
vùng trung tâm VBB. Việt Nam là quốc gia đầu tiên
tiến hành quản lý hành chính đảo từ khi đảo còn vô
chủ. Quá trình thiết lập và củng cố chủ quyền của
Việt Nam trên đảo diễn ra lâu dài, liên tục, hoà bình
và không gặp bất kỳ một sự phản đối nào [4, 6].
Cho đến cuối thế kỷ XVIII trên đảo BLV không
có người sinh sống thường xuyên và chỉ là nơi tránh
gió bão của ngư dân Việt. Ngày 26/6/1887, Chính
phủ Pháp và Nhà Thanh (Trung Quốc) ký Công ước
hoạch định biên giới khu vực Bắc kỳ. Điều 3 của
Công ước quy định các đảo nằm về phía Tây của
đường kinh tuyến 105°43' Đông Pari (kinh tuyến
108003'13" Đông Greenwich) thuộc về Việt Nam.
BLV nằm ở phía Tây của kinh tuyến này đã đương
nhiên được thừa nhận thuộc chủ quyền Việt Nam.
Đầu thế kỷ XX, sau khi phát hiện nguồn nước
ngọt trên đảo, ngư dân tỉnh Quảng Yên đã ra lập
nghiệp trên đảo. Năm 1920, chính quyền tỉnh này đã
khuyến khích dân cư ra đảo sinh sống, lập nghiệp
bằng nghề chăn nuôi, trồng trọt trên đảo và khai
thác hải sản. Năm 1937, Chính phủ Bảo Đại phái
một tiểu đội gồm 12 người dựng đồn, lập chế độ lý
trưởng ở đảo, đổi tên đảo thành BLV. Về mặt hành
chính, đảo trực thuộc quyền quản lý của trưởng hạt
Cô Tô. Sau đó, có nhiều người ra sinh sống ở đảo,
sản phẩm thu được tại đảo được bán ở Việt Nam,
không được đem bán sang Trung Quốc. Thời đó,
BLV có ba cụm dân cư lập thành một làng lớn có lý
trưởng đứng đầu, có khoảng 70 - 80 nóc nhà, số
người khoảng 200, với 30 phụ nữ và 60 trẻ em. Trên
đảo có 20ha đất trồng trọt, gồm khoai lang, lạc, rau
và cả ruộng lúa nước; vật nuôi có bò, lợn và gia
cầm. Trong một bài báo hồi đó, một tác giả người
Pháp (P.A. Lapicque) giới thiệu về đảo BLV (tỉnh
thành xưa ở Việt Nam, tr. 36-42, Nxb. Hải Phòng,
2003) và cho biết BLV là một điểm trong vòng khép
kín các đảo phải đi tuần tra định kỳ do chính quyền
Đông Dương quy định: xuất phát từ vịnh Hạ Long
đến Cô Tô - BLV - Hoàng Sa - các đảo ven bờ
Trung Kỳ và kết thúc ở trạm thuế quan Cát Bà.
Ngày 16/01/1957, Nhà nước Việt Nam đã tiếp
quản quyền quản lý đảo với 238 người dân. Thủ
tướng Chính phủ ra Nghị định số 049-TTg ngày
15/02/1957 về vấn đề tiếp nhận đảo BLV do nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bàn giao, quy định
về mặt hành chính đảo BLV là một xã trực thuộc
UBND Tp. Hải Phòng.
Cuối năm 1965, cuộc chiến tranh phá hoại miền
Bắc Việt Nam bằng không quân của Mỹ diễn ra
ngày càng ác liệt và toàn bộ dân cư của đảo đã được
sơ tán vào đất liền, nên từ năm 1965 đến năm 1992,
trên đảo chỉ có lực lượng vũ trang.
Chính phủ ra Nghị định số 15/NĐ/CP ngày
9/12/1992 quy định thành lập huyện BLV thuộc Tp.
Hải phòng. Ngày 26/2/1993, 62 thanh niên xung
phong và một số hộ ngư dân đầu tiên đã ra sinh sống
và làm việc trên đảo. Huyện đảo BLV có dân số 910
người vào năm 2011 [3], nhưng chưa ổn định,
thường xuyên ở mức trên 1.000 người. Ngoài ra,
còn có một số lượng lớn dân vãng lai từ các tàu cá
neo đậu quanh đảo và công nhân của các đơn vị xây
dựng. Nếu tính tổng cộng cả dân cư thường xuyên
và vãng lai thì khu vực huyện đảo thường có 3.500
đến 4.000 người, với mật độ dân trên đảo xấp xỉ
2.000 người/km2.
Giá trị mở rộng chủ quyền quốc gia trên biển.
Theo đường phân định ranh giới VBB giữa Việt
Nam và Trung Quốc của Hiệp định ký kết này 25
tháng 12 năm 2000 tại Bắc Kinh thì diện tích vịnh
phía Việt Nam khoảng 53,23% và phía Trung Quốc
khoảng 46,77%. Hiệp định quy định đường phân
định từ điểm số 9 đến điểm số 21 là ranh giới vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước và
đường biên giới này đi cách đảo BLV điểm gần nhất
về phía Đông là 15 hải lý. Trong Hiệp định, đảo
BLV đã được hưởng khoảng 25% hiệu lực, mang lại
cho Việt Nam khoảng 300km2 giữa vịnh với những
tài nguyên sinh vật và phi sinh vật trong khối nước
và lòng đất dưới đáy [4, 6]. Thỏa thuận phân định
này có được là nhờ vị thế đặc biệt và vai trò mở
rộng chủ quyền vô cùng to lớn của đảo.
Trần Đức Thạnh, Lê Đức An
212
Là một đảo có đời sống kinh tế sôi động nằm
giữa VBB, BLV còn có đóng góp to lớn trong quá
trình thực thi Hiệp định và các thỏa thuận khác, là
cầu nối hợp tác hòa bình và hữu nghị giữa hai nước.
Việc giành được một vùng biển rộng đầy tiềm năng
xung quanh đảo có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
bảo vệ chủ quyền, quốc phòng an ninh và phát triển
kinh tế đất nước. Hiệp định phân định VBB đã tạo
ra một vành đai an toàn, ổn định tình hình, tạo môi
trường cho phát triển kinh tế - xã hội và góp phần
củng cố thế trận quốc phòng - an ninh trên biển.
Trước kia, BLV thường bị tàu nước ngoài vào đánh
cá phi pháp và nhiều lần xâm nhập sâu, bao vây đảo.
Với Hiệp định được ký, vành đai phòng thủ đã được
đẩy ra cách đảo 15 hải lý, giảm bớt căng thẳng về
bảo vệ chủ quyền vùng đảo.
Lợi ích kiểm soát đường biên giới, vùng đánh
cá chung và vùng quá độ trên VBB
Hình 2. Đường phân định ranh giới, vùng đánh cá
chung và vùng quá độ Việt - Trung trong vịnh Bắc
Bộ (Nguồn: Hiệp định Việt - Trung về phân định
lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
trong VBB và Hiệp định hợp tác nghề cá ngày
25/12/2000)
Theo Hiệp định hợp tác nghề cá và Nghị định
thư bổ sung Hiệp định hợp tác nghề cá VBB, vùng
đánh cá chung giữa hai nước có tổng diện tích là
33.500km2, chiếm khoảng 27,9% diện tích vịnh.
Thời hạn vùng đánh cá chung có hiệu lực là 12 năm
và 3 năm mặc nhiên gia hạn.
Hiệp định còn xác định vùng quá độ có diện
tích 9.080km2. Tổng công suất máy tàu của Trung
Quốc được phép vào vùng quá độ đánh bắt là
78.200 CV sẽ giảm dần 25% mỗi năm (tương đương
230 chiếc) và chấm dứt hoạt động sau 4 năm. Tàu cá
Việt Nam sang hoạt động tại hai vùng nước Hiệp
định phía Đông đường phân định tương đương về số
lượng và tổng công suất tàu cá Trung Quốc sang
hoạt động ở hai vùng nước Hiệp định phía Tây
đường phân định. Hiệp định hợp tác nghề cá Việt -
Trung tạo điều kiện cho quản lý tốt hơn tài nguyên
sinh vật trong VBB, phù hợp với quy định về hợp
tác giữa các nước ven biển nửa kín theo Công ước
năm 1982 về Luật biển. Hợp tác hai bên trong vùng
đánh cá chung và đánh cá tạm thời giúp tránh được
việc đánh bắt cạn kiệt tài nguyên bằng các phương
thức huỷ diệt. Tuy nhiên, vùng biên giới cả trên đất
liền và trên biển, nhất là nơi giàu có tài nguyên thiên
nhiên, luôn là vùng nhạy cảm. Do nằm gần sát
đường phân định biên giới trên biển và nằm sát phía
Bắc vùng đánh cá chung (hình 2), đảo BLV có giá
trị kiểm soát đường biên giới, vùng đánh cá chung
và vùng quá độ trên VBB, nhằm phát hiện kịp thời
các vi phạm và các tình huống đặc biệt hoặc khẩn
cấp cần xử lý.
Giá trị về đảm bảo an ninh quốc phòng
Đối với cả Việt Nam và Trung Quốc, VBB có
tầm quan trọng chiến lược về quốc phòng và an ninh,
nhưng với Việt Nam càng đặc biệt quan trọng vì liên
quan tới cả một nửa phía Bắc của đất nước, từ vĩ
tuyến Cồn Cỏ trở ra, trong đó có thủ đô Hà Nội.
Một cứ điểm quân sự vững chắc giữa VBB
Đảo BLV là một chiến hạm lớn không thể bị
đánh chìm, một cứ điểm quân sự vững chắc giữa
VBB. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, trước sự
tấn công điên cuồng của tầu chiến và máy bay hiện
đại nhất, với hàng ngàn tấn bom đạn, BLV vẫn kiên
cường đánh trả, bắn rơi 24 máy bay, bắn cháy và
bắn chìm nhiều tầu chiến địch, góp phần đánh tan ý
đồ chiến lược của Mỹ và đã vinh dự được công nhận
là đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang. Với một diện
tích đủ lớn, địa hình đồi cao 50 - 60m, các mũi đá ra
sát bờ biển, có điều kiện mở đường giao thông thuận
Tài nguyên vị thế địa - kinh tế và địa - chính trị
213
tiện, làm sân bay trực thăng hoặc sân bay phản lực,
lập các căn cứ phòng thủ, địa đạo và bến cảng, BLV
đủ điều kiện để trở thành một thành trì vững chắc
bảo vệ toàn vẹn vùng biển chủ quyền của đất nước.
Giữ được đảo là giữ được toàn bộ vùng biển chủ
quyền trên VBB, cũng đồng thời là khống chế được
cả khu vực trung tâm VBB.
Mắt xích quan trọng nhất trong phòng tuyến
các đảo ven bờ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ
Việc liên kết giữa các đảo, cụm và tuyến đảo
với nhau sẽ tạo thành một trận tuyến phòng thủ
vững chắc trên mặt biển để ngăn ngừa và đẩy lùi các
hoạt động lấn chiếm của nước ngoài. Tuyến phòng
thủ tiền tiêu đó bao gồm các đảo Vĩnh Thực - Trần-
Thanh Lân - Hạ Mai - BLV - Hòn Mê - Hòn Mắt, ...
trong đó BLV là có vai trò số một, do vị trí tiền tiêu
- biên giới giữa VBB của đảo. Ở vị trí này, đảo có
thể có được thông tin nhanh nhất, đa dạng, nhiều
chiều của đối phương, nhưng đồng thời lại là nơi đối
phương có thể tiếp cận sớm nhất, quan tâm đến
nhiều nhất trong các ý đồ chiến thuật của họ.
Trạm gác, tháp canh tiền tiêu và bao quát rộng
lớn trên VBB
Nằm giữa VBB, BLV án ngữ đường vào cảng
cửa ngõ Hải Phòng và kiểm soát tất cả các con
đường hàng hải trong vịnh. Từ đảo, bằng các
phương tiện quan sát hiện đại, có thể kiểm tra, kiểm
soát mọi ngả đường thủy từ phía Nam, phía Bắc và
phía Đông vịnh đi vào Hải Phòng, Quảng Ninh và
các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Hơn thế nữa, mọi hoạt
động quân sự trong vịnh cũng đều có thể được phát
hiện nhanh chóng kịp thời, kể cả các hoạt động
không quân. Có thể nói BLV là một trong các cứ
điểm quan trọng nhất, là tai - mắt của Bộ chỉ huy
bảo vệ vùng biển chủ quyền trong VBB và cả vùng
đất liền Bắc Bộ.
Trong chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế
quốc Mỹ, các cuộc không kích, pháo kích của đối
phương vào Hải Phòng và các tỉnh ven VBB đều đi
qua BLV và được phát hiện kịp thời. Trong giai
đoạn hòa bình, đảo vẫn là một tiền đồn quan trọng
đứng gác trong VBB, làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến
đấu, canh phòng và bảo vệ đảo cùng vùng biển xung
quanh.Với vị trí tiền tiêu đặc biệt quan trọng đã
được khẳng định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
đảo đã trở thành căn cứ tiền đồn vững chắc để tham
gia vào mạng lưới bảo vệ, kiểm soát vùng biển,
vùng trời của Tổ quốc, kiểm tra các hoạt động tàu
thuyền ra vào, đi lại trên vùng biển của ta. Đảo là
địa bàn thuận lợi để bố phòng và triển khai lực
lượng quân sự khi cần thiết.
Cơ sở hậu cần và vị trí trung chuyển cho các
hoạt động tác chiến xa bờ
BLV là cơ sở hậu cần và vị trí trung chuyển cho
các hoạt động tác chiến xa bờ. Với vị trí giữa vịnh
của mình, đảo có điều kiện vô cùng thuận lợi làm
nhiệm vụ hậu cần cho các tầu thuyền làm nhiệm vụ
an ninh trên biển trong hòa bình và thực thi các
nhiệm vụ tác chiến trong chiến tranh hoặc chống
khủng bố. BLV cũng có thể trở thành nơi dự trữ
chiến lược, làm nhiệm vụ trung chuyển cho các hoạt
động của tầu thuyền xa bờ và dài ngày. Ngoài ra,
đảo còn là các cơ sở hậu cần trên biển cả về nhân
lực và vật lực, làm cầu nối giữa đất liền với biển
khơi, đảm bảo an toàn và thuận lợi cho các hoạt
động quân sự trên biển. Đây là một trong những tiền
đồn kiểm soát tình hình an ninh trật tự trên biển,
phòng thủ từ xa, làm tốt việc phát triển kinh tế, kết
hợp chặt chẽ với an ninh quốc phòng.
Trong bối cảnh quốc tế và tiềm lực quân sự hiện
nay, nếu chỉ dựa vào yếu tố quân sự thì không đủ để
giữ đảo. Phát triển kinh tế - xã hội vững mạnh sẽ tạo
điều kiện bảo vệ đảo tốt hơn. Nhưng nếu chỉ lo phát
triển kinh tế - xã hội, lơ là cảnh giác thì sẽ dễ để mất
an ninh, chủ quyền trên đảo. Giải quyết mối quan hệ
giữa phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc
phòng an ninh không chỉ là nhiệm vụ của huyện đảo
và Tp. Hải Phòng, mà cần phải có sự chỉ đạo sát sao
của Trung ương.
Giá trị về văn hoá biển đảo
Đảo BLV là một điểm sáng của văn hoá Việt
Nam trên biển, mang đậm nét huyền thoại. Người
Việt nhận mình là con Rồng, cháu Tiên và Rồng là
một hình tượng thiêng liêng nhưng quen thuộc trong
đời sống văn hóa - tâm linh của người Việt Nam từ
hàng nghìn năm trước. Nhiều vùng đất nổi tiếng của
đất nước gắn với tên Rồng (Long): thủ đô thì có
Thăng Long (Rồng Thăng); đồng bằng thì có Cửu
Long (Chín Rồng); sông thì có Hoàng Long (Rồng
Vàng, ở Ninh Bình); vịnh thì có Hạ Long (Rồng Hạ)
và Bái Tử Long (Rồng Phục), đảo thì có BLV (Đuôi
Rồng Trắng), quần đảo có Long Châu (Ngọc Rồng)
ở vùng biển Hải Phòng và bãi biển có Long Hải
(Rồng Biển) ở Tp.Vũng Tàu. Hạ Long, Bái Tử Long
và BLV có chung một truyền thuyết đẹp. Thủa xưa,
khi người Việt gặp nạn giặc ngoại xâm, Ngọc
Trần Đức Thạnh, Lê Đức An
214
Hoàng đã sai Rồng mẹ đưa theo một đàn Rồng con
xuống hạ giới giúp dân đánh giặc. Nơi Rồng mẹ
xuống là vịnh Hạ Long, nơi Rồng con xuống là vịnh
Bái Tử Long, còn nơi đuôi Rồng quẫy nước trắng
xóa là đảo BLV.
Đảo BLV còn có những tên đẹp khác như Phù
Thuỷ Châu (Hòn Ngọc nổi trên mặt nước) và Hoạ
Mi (hình dáng đảo được liên tưởng với chim hoạ
mi). Phạm Quang Trung và đồng nghiệp (1999), đã
dùng hai tên Hoạ Mi và Phù Thủy Châu để đặt tên
cho hai phân vị địa tầng địa chất mới được thành lập
là Hệ tầng Hoạ Mi (N12 - N2 hm) và Hệ tầng Phù
Thuỷ Châu (E3 ptc) [8].
Chùa Bạch Long Tự đã được xây dựng và hoàn
thành vào ngày 22/3/2009, được thiết kế với diện
tích 300m2 trong khuôn viên 1.000m2 toạ lạc ở khu
vực trung tâm đảo. Đi chùa thờ Phật là một phần
không thể thiếu của đời sống tâm linh và văn hoá
người Việt, dù ở hòn đảo nhỏ giữa biển khơi. Đồng
thời, chùa Bạch Long Tự để lại dấu ấn cùng thời
gian, mãi mãi góp phần khẳng định chủ quyền quốc
gia trên vùng biển đảo BLV.
“BLV đảo quê hương” như tên bài hát của nhạc
sỹ Huy Du là hình ảnh tuyệt đẹp của tình yêu quê
hương nơi biển đảo. Đó là tình yêu thiết tha với
thiên nhiên và con người nơi đảo xa của Tổ quốc, ở
đó có thôn xanh Phủ Thuỷ Châu với trúc anh đào
xanh thắm, quê hương của Bào ngư với sóng bạc
đầu và gió biển rì rào năm tháng. Hòn đảo đầy nắng
gió giữa biển xanh ấy ngày càng được khu vực và
thế giới biết đến như một huyện đảo trù phú, an
lành, hòa bình và hữu nghị của Việt Nam.
KẾT LUẬN
Về tài nguyên địa - kinh tế, BLV là một đảo tiền
tiêu, nên đặc biệt được ưu tiên đối với phát triển
kinh tế. Đảo nằm ở vị trí trung tâm của không gian
kinh tế VBB, nên được hưởng thụ từng phần của tất
cả các lợi thế của vịnh. Đảo trực thuộc Hải Phòng,
trung tâm kinh tế lớn nhất ở duyên hải phía Bắc, nên
vừa là một điểm tựa để mở rộng phát triển kinh tế
Hải Phòng, đồng thời được thừa hưởng những yếu
tố nền tảng của một thành phố lớn loại I, trực thuộc
trung ương. Đảo là địa bàn thuận lợi cho phát triển
nhiều loại hình dịch vụ biển như hậu cần nghề cá,
dầu khí, du lịch, tìm kiếm cứu nạn và y tế, dịch vụ
môi trường, ngân hàng và viễn thông, ...
Về tài nguyên địa - chính trị, BLV có giá trị
khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam ở khu
vực trung tâm VBB, có lợi ích to lớn mở rộng chủ
quyền quốc gia trên biển và kiểm soát đường biên
giới, vùng đánh cá chung và vùng quá độ trên VBB.
Đây là một cứ điểm quân sự vững chắc giữa VBB;
một mắt xích quan trọng nhất trong phòng tuyến các
đảo ven bờ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ; là trạm gác,
tháp canh tiền tiêu và bao quát rộng lớn trên vịnh và
là cơ sở hậu cần và vị trí trung chuyển cho các hoạt
động tác chiến xa bờ. Đảo BLV còn là một điểm
sáng của văn hoá Việt Nam trên biển, mang đậm nét
huyền thoại, một địa danh đẹp, thiên nhiên đẹp và
sâu đậm tình yêu biển đảo nơi xa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Đức An, Uông Đình Khanh, 2012. Địa mạo
Việt Nam: cấu trúc - tài nguyên - môi trường.
Nxb. KHTN&CN. Hà Nội. 659tr.
2. Cục Thống kê tỉnh các tỉnh phía Bắc (Quảng
Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh
Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng
Bình), 2008. Niên giám Thống kê các tỉnh năm
2007. Nxb. Thống kê. Hà Nội.
3. Cục Thống kê Tp. Hải Phòng, 2012. Niên giám
thống kê Tp. Hải Phòng 2011. Nxb. Thống kê.
Hà Nội. 287tr.
4. Lưu Văn Lợi, 2007. Những điều cần biết về Đất,
Biển, Trời Việt Nam, 303tr. Nxb. Thanh Niên.
Hà Nội.
5. Trần Đức Thạnh, Nguyễn Hữu Cử, Đỗ Công
Thung, Trần Đình Lân, Đinh Văn Huy, Phạm
Hoàng Hải, 2011. Định hướng quản lý tổng hợp
vùng bờ biển Bắc Bộ. Nxb. KHTN&CN. Hà Nội.
250tr.
6. Đức Thạnh, Lê Đức An, Nguyễn Hữu Cử, Trần
Đình Lân, Nguyễn Văn Quân và Tạ Hoà
Phương, 2012. Biển đảo Việt Nam - Tài nguyên
vị thế và những kỳ quan địa chất, sinh thái tiêu
biểu. Nxb. KHTN&CN. Hà Nội. 324tr.
7. Thược, 2010. Nghề cá VBB qua những chặng
đường điều tra nghiên cứu. Nxb. Nông nghiệp.
Hà Nội. 200tr.
8. Phạm Quang Trung, Nguyễn Quốc An, Đỗ Bạt,
Đặng Vũ Khởi, 1997. Tài liệu mới về tuổi trầm
tích Đệ Tam ở đảo Bạch Long Vĩ. Tài nguyên và
Môi trường biển. T.IV. Nxb. KH&KT. Hà Nội.
Tr. 81-87.
9. Viện Nghiên cứu Trung Quốc, 2007. Khu kinh
tế vịnh Bắc Bộ (Quảng Tây). Tạp chí Nghiên
cứu Trung Quốc. Số 5. Tr. 82-85.
Tài nguyên vị thế địa - kinh tế và địa - chính trị
215
GEO-ECONOMIC AND GEO-POLITIC POSITION
RESOURCES OF THE BACH LONG VY ISLAND
Tran Duc Thanh1, Le Duc An2
1Institute of Marine Environment and Resources-VAST
2Institute of Geography-VAST
ABSTRACT: As a small island located near the approximately centre of The Gulf of Tonkin, the Bach
Long Vi island possesses great values on geo-economic and geo-politic position resources. On the geo-
economic resources, the island is a priority site for the country’s sea-island economy development; a central
location in the economic space of the Gulf f of Tonkin; belonging directly to Haiphong city-the biggest
economic centre in the Northern coastal zone; an advantageous area to develop many marine services such as
fishery logiistics, petroleum, tourism, seeking for/and rescue, health, environment, banking and telecom etc. On
the geo-politic resources, the island possesses very great values on the determination, enlargement, and guard
of national marine sovereignty and benefit; national defense and security concerning the country’s Northern
Part; and sea-island culture with the deepfelt love of Vietnam country in the far island.
Keywords: Bach Long Vi island, geo-economic and geo-politic position, resources.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3525_11917_1_pb_1915_2079587.pdf