Giá trị tài nguyên vị thế tự nhiên to lớn của đảo
BLV chính là vị trí lẻ loi, xa bờ và nằm gần giữa
VBB; các yếu tố hình thể và cấu trúc không gian
như hình dáng và kích thước; độ dốc, độ cao và độ
sâu ven đảo, diện tích đảo và cấu trúc đảo nổi,
thềm triều và sườn bờ ngầm đảo; tính ổn định động
lực. Nhờ vậy, đảo:
- Trở thành vị trí tiền đồn - biên giới ở vùng
biển phía bắc Việt Nam và có nhiều lợi thế trong
tiếp nhận trọng trách và thực hiện mọi nghĩa vụ và
quyền lợi quốc gia ở khu vực trung tâm vịnh.
- Thuận lợi cho khả năng tiếp cận đảo và xây
dựng cơ sở hạ tầng tại đảo, đặc biệt là các âu cảng
cập bến và neo trú theo hai mùa gió luân đổi.
- Đảm trách đầy đủ chức năng của một đơn vị
hành chính cấp huyện, đảm bảo phát triển bền
vững kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng
và lợi ích, chủ quyền quốc gia trên biển.
- Đủ điều kiện sinh cư cho một số lượng dân cư
đáng kể, ổn định trong lâu dài, có thể phát triển
kinh tế tự cấp trong những điều kiện đặc biệt và có
khả năng phát triển dịch vụ mở rộng để mang lại
những lợi ích kinh tế cao.
Đây là những tiền đề quan trọng để hình thành
nên các giá trị tài nguyên địa kinh tế và địa chính
trị của hòn đảo này.
9 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 755 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài nguyên vị thế tự nhiên đảo bạch Long Vỹ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
477
34(4), 477-485 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 12-2012
TÀI NGUYÊN VỊ THẾ TỰ NHIÊN
ĐẢO BẠCH LONG VỸ
TRẦN ĐỨC THẠNH1, LÊ ĐỨC AN2
E-mail: thanhtd@imer.ac.vn
1Viện Tài nguyên và Môi trường Biển Hải Phòng - Viện KH&CNVN
2Viện Địa lý - Viện KH&CNVN
Ngày nhận bài: 10 - 10 - 2012
1. Mở đầu
Đảo Bạch Long Vỹ (BLV) nằm trên Vịnh Bắc
Bộ (VBB) có giá trị lớn về tài nguyên vị thế. Đó là
những lợi ích có được từ vị trí địa lý và các thuộc
tính về cấu trúc, hình thể sơn văn và cảnh quan,
sinh thái của một khu vực, có giá trị sử dụng cho
các mục đích phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo
an ninh, quốc phòng và chủ quyền quốc gia. Tài
nguyên vị thế được đánh giá theo ba hợp phần: vị
thế tự nhiên, vị thế kinh tế và vị thế chính trị [8, 9].
Bài viết này trước hết trình bày vài nét về vị thế
VBB và các kết quả nghiên cứu riêng về tài nguyên
vị thế tự nhiên của đảo BLV. Đó là cơ sở giúp cho
những đánh giá tiếp theo về tài nguyên địa kinh tế
và tài nguyên địa chính trị của đảo.
2. Tổng quan về vị thế vịnh Bắc Bộ
Là một hòn đảo nằm giữa VBB, BLV làm tăng
thêm giá trị cho vịnh, đồng thời được thừa hưởng
và hội tụ tất cả các phần giá trị của vịnh. Với vị trí
địa lý và điều kiện tự nhiên rất đặc thù và tài
nguyên thiên nhiên phong phú, Vịnh Bắc Bộ có vai
trò hết sức to lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội
của Việt Nam trong mối quan hệ với Trung Quốc và
các nước Asean. Đồng thời, vịnh có một tầm quan
trọng đặc biệt đối với đảm bảo an ninh quốc phòng
và chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên biển.
2.1. Vị thế tự nhiên
Vịnh Bắc Bộ nằm trong khoảng tọa độ 17°00’ -
21°40’VB và 105°40’ - 109°40’KĐ. Đây là vịnh
chung giữa Việt Nam và Trung Quốc, mà theo
đường phân định ranh giới vào năm 2000 thì diện
tích phía Việt Nam khoảng 53,23% và phía Trung
Quốc khoảng 46,77% [4]. Vịnh có ranh giới tự
nhiên với đường đóng cửa vịnh đến mũi Hải Vân
(hình 1), còn theo ranh giới pháp lý của vịnh trong
Hiệp định Việt - Trung năm 2000 là đường nối qua
đảo Cồn Cỏ với chiều dài bờ biển phía Việt Nam
khoảng 763km, phía Trung Quốc khoảng 695km.
Hình 1. Vị trí của đảo Bạch Long Vĩ trong Vịnh Bắc Bộ [5]
Ghi chú:1- Đường bờ; 2- Đường đẳng sâu (m); 3- Trục các
thung lũng sông cổ; 4- Các đồi, gò ngầm; 5- Các hố trũng)
VBB có nhiều nét đặc thù về hình thái, địa chất,
khí tượng - thủy văn, các hệ sinh thái và đa dạng
sinh học. Đây là một vịnh biển khá kín, nằm ở phía
478
tây Biển Đông, nơi là một trong những vùng thềm
lục địa nông, thoải và rộng nhất thế giới. Mặc dù
cấu trúc địa chất phức tạp nhưng vịnh phát triển
chủ yếu trên nền tảng của các trũng Kainozoi [11],
quá khứ và hiện tại chủ yếu nhận nước và phù sa từ
hệ thống sông Hồng có vị trí đứng thứ 14 trong số
các sông lớn của Thế giới. Tính chất nhiệt đới gió
mùa có mùa Đông lạnh, thuỷ triều đa dạng nhưng
chủ yếu là nhật triều biên độ lớn; hoàn lưu dòng
chảy theo mùa nhưng đều có những vòng xoay gần
kín trong vịnh [13, 17],... tạo nên những sắc thái
sinh thái riêng của vịnh với các hệ sinh thái đặc thù
và đa dạng sinh học rất cao. Tài nguyên vịnh phong
phú và giàu có, trước hết phải kể đến nguồn lợi sinh
vật biển [10, 15, 17], các nguồn năng lượng mà đặc
biệt là dầu khí và tài nguyên vị thế biển, có tiềm
năng lớn cho phát triển kinh tế - xã hội.
Vịnh khá kín, lõm sâu vào lục địa, gồm không
gian biển và đới bờ, nổi và ngầm, gồm luồng lạch,
bến bãi, đất đai ven biển, bán đảo và đảo, bãi cát
biển, thềm đá, hang động,... Đây là một trong
những vịnh lớn trong khu vực, rộng khoảng 130
nghìn km2, nơi rộng nhất khoảng 310km. Vịnh có
hai cửa thoát là eo biển Quỳnh Châu nằm giữa bán
đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam với bề rộng khoảng
35km và cửa chính của vịnh từ đảo Cồn Cỏ (Việt
Nam) tới mũi Oanh Ca (đảo Hải Nam), rộng
khoảng 220km.Vịnh sâu trung bình 50m và sâu
nhất 107m tại một trũng gần cửa. Phía ngoài vịnh,
mép thềm lục địa nằm ở độ sâu 200m. Địa hình
đáy vịnh khá thoải với góc dốc nhỏ hơn 5’, hiếm
khi tới 10-30’ với các trũng dạng tuyến cắt qua các
đường đẳng sâu khá phổ biến (hình 1).
Phần vịnh phía Việt Nam có khoảng 2.370 hòn
đảo, chiếm phần lớn so với trên 2.770 hòn đảo ở
ven bờ cả nước, hầu hết tập trung ở ven bờ Đông
Bắc (Quảng Ninh và Hải Phòng). Tất cả 28 tỉnh,
thành ven biển của Việt Nam có 48 vũng vịnh ven
bờ thì 5 tỉnh ven biển VBB có 11 cái với tổng diện
1.945,5km2, chiếm 48,6% tổng diện tích vũng vịnh
ven bờ của cả nước. Hệ thống cửa sông rất phát
triển ở dải ven bờ tây vịnh với khoảng cách dày ở
ven bờ Bắc Bộ (32 cửa sông/515km) và thưa hơn ở
ven bờ Bắc Trung Bộ (24 cửa sông/642km). Hệ
thống sông Hồng đứng vị trí thứ 5 ở Đông Á và thứ
hai ở Việt Nam. Bạch Đằng là vùng cửa hình phễu
rất điển hình, quy mô thứ hai ở Việt Nam, sau vùng
cửa sông Đồng Nai.
2.2. Vị thế kinh tế
Trong tương lai vị thế VBB sẽ có cơ hội được
nâng cao khi mà các tuyến hành lang kinh tế bắc -
nam và đông - tây trên bán đảo Đông Dương và
Nam Trung Quốc được tăng cường, hoàn thiện, và
đi vào hoạt động có hiệu quả, nhất là khi quan hệ
thương mại, du lịch Asean - Trung Quốc trở nên
sôi động.
Vùng bờ tây VBB có vai trò hậu cứ, làm tăng vị
thế kinh tế của biển Việt Nam. Nhiều vũng vịnh
ven bờ (Tiên Yên - Hà Cối, Bái Tử Long, Hạ
Long, Nghi Sơn,Vũng Áng,...), các cửa sông (Bạch
Đằng, Cửa Lục, Cửa Lò,...) có tiềm năng lớn phát
triển giao thông - cảng, du lịch và dịch vụ, nghề cá
biển, phát triển công nghiệp, cơ sở hạ tầng và đô
thị hóa,... Do yêu cầu của tổ chức lãnh thổ, quy
hoạch vùng và khả năng tạo vùng hấp dẫn và giao
lưu với các vùng trong nước, nhiều địa phương
đã phát triển các cảng bến, tạo đà cho phát triển
kinh tế biển. Theo Quyết định số 1353/QĐ-Tg,
trong hệ thống 15 khu kinh tế ven biển, 6 khu gắn
kết với vùng bờ tây vịnh: Vân Đồn (Quảng Ninh);
Đình Vũ - Cát Hải (Hải Phòng); Nghi Sơn (Thanh
Hóa); đông nam Nghệ An; Vũng Áng (Hà Tĩnh);
Hòn La (Quảng Bình). Vùng bờ tây vịnh có vai trò
đặc biệt quan trọng trong mối quan hệ phát triển
kinh tế quy mô quốc gia và quốc tế. Kinh tế phát
triển tạo ra nhu cầu liên kết các địa phương trong
nước và các nước trong khu vực. Vị thế kinh tế của
vùng bờ tây vịnh được phát huy theo ba hướng:
làm cửa ngõ ra biển ở phía bắc (Hải Phòng), làm
trục nối cho vành đai kinh tế VBB nối tuyến với
Hành lang kinh tế đông - tây, làm trụ đỡ và kết nối
với các tuyến hành lang Quảng Ninh - Hải Phòng -
Hà Nội - Nam Ninh và Quảng Ninh - Hải Phòng -
Hà Nội - Côn Minh.
Trung Quốc đã phát triển ba chuỗi đô thị ven
biển là: Bắc Kinh - Thiên Tân, trung tâm là Bắc
Kinh; chuỗi đô thị châu thổ sông Trường Giang,
trung tâm là Thượng Hải và chuỗi đô thị châu thổ
sông Châu Giang, trung tâm là Hồng Kông. Đồng
thời, bốn chuỗi đô thị khác bắt đầu phát triển
mạnh: Liaoning ở ven biển phía bắc; bán đảo Sơn
Đông; Phúc Kiến giữa châu thổ Trường Giang và
Châu Giang và chuỗi đô thị ven biển VBB (Quảng
Tây) [18]. Chuỗi này có diện tích đất 425.000km2,
chiếm 17,9% diện tích Quảng Tây, diện tích mặt
biển 129.300km2, nằm ở giao điểm của khu vực
mậu dịch tự do Trung Quốc - Asean, vành đai kinh
tế vùng Châu Giang mở rộng và vành đai kinh tế
Đại Tây Nam. Đó là khu vực ven biển duy nhất
phía tây Trung Quốc làm cầu nối giữa Trung Quốc
với các nước Asean; nhằm xây dựng các dải đô thị
có ảnh hưởng nhất ở vùng phía tây nam thành
479
trung tâm chế tạo, doanh vận, ngoại thương, thông
tin, tiền tệ và giao lưu văn hoá trong Khu vực mậu
dịch tự do Trung Quốc - Asean. Trong đó, Nam
Ninh, Khâm Châu, Bắc Hải và Phòng Thành là
trung tâm phát triển và cửa mở của Khu.
2.3. Vị thế chính trị
VBB về thực chất là một vùng nước lịch sử của
Việt Nam và Trung Quốc, hoàn toàn thuộc chủ
quyền của hai nước và trên thực tế hai nước đã tiến
hành phân định không gian quản lý vịnh của mỗi
nước. Theo Hiệp định phân định năm 2000, vịnh
nửa kín này được bao bọc ở phía bắc là bờ biển
lãnh thổ đất liền của hai nước Việt Nam và Trung
Quốc, phía đông là bán đảo Lôi Châu và đảo Hải
Nam của Trung Quốc, phía tây là đất liền Việt
Nam và giới hạn phía nam là đoạn thẳng nối liền từ
điểm nhô ra nhất của mũi Oanh Ca (Trung Quốc)
có tọa độ: 18°30’19” VB và 108°41’17” KĐ, qua
đảo Cồn Cỏ đến một điểm trên bờ biển của Việt
Nam có tọa độ là 16°57’40” VB và 107°08’42”
KĐ. Đường phân trên vịnh được xác định bằng 21
điểm có tọa độ địa lý xác định, nối với nhau bằng
các đoạn thẳng, trong đó, từ điểm số 1 đến điểm số
9 là biên giới lãnh hải, từ điểm số 9 đến điểm số 21
là ranh giới giữa vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa của hai nước trong vịnh.
Trên bờ vịnh có 10 tỉnh thành thuộc Việt Nam
từ Quảng Ninh đến Quảng Trị và 3 tỉnh Hải Nam,
Quảng Đông và Quảng Tây thuộc Trung Quốc.
Nằm gọn ở phía tây vịnh thuộc Việt Nam gồm có 8
tỉnh và 1 thành phố trực thuộc trung ương (không
kể tỉnh Quảng Trị), với tổng số 6 thành phố (01
loại I; 05 loại II), 7 quận, 4 thị xã và 34 huyện
(trong đó có 4 huyện đảo, chưa tính huyện đảo
Cồn Cỏ thuộc Quảng Trị) [2]. Các tỉnh, thành phố
ở dải ven biển tây vịnh có hơn 17 triệu dân, chiếm
trên 20% tổng dân số Việt Nam. Trong đó, các
huyện và quận ven biển có khoảng 7 triệu dân [16].
Vùng bờ tây có vai trò trọng yếu đối với vị thế
chính trị của vịnh vì có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
đối với đảm bảo an ninh quốc phòng và chủ quyền,
lợi ích quốc gia trên biển và tạo lập mối quan hệ
đặc biệt với Thăng Long - Hà Nội, đầu não chính
trị của đất nước, với các trung tâm chính trị trong
nước và khu vực. Đó chính là tài nguyên địa quân
sự và ngoại giao, được khai thác và sử dụng triệt để
trong chiến tranh chống ngoại xâm và phát triển
thương mại quốc tế. Việc bố trí phòng thủ và lập
các phương án tác chiến phần nhiều dựa vào các
yếu tố vị thế của vũng vịnh ven bờ.
Các vịnh Hạ Long, Bái Tử Long và Tiên Yên -
Hà Cối có độ nhạy cảm cao về chính trị theo thời
gian, có thể là tiền đồn hoặc là hậu cứ theo từng
giai đoạn lịch sử. Vào các thời Lý, Trần thịnh
vượng với thương cảng Vân Đồn, đây là một trung
tâm thương mại giao lưu với thế giới. Cuối thời
Nguyễn, khi vận nước đang suy, nơi đây đầy loạn
lạc, giặc giã và cướp biển. Trong chiến tranh chống
Mỹ, đây là một khu hậu cứ hải quân quan trọng,
một nơi xuất phát của đường Hồ Chí Minh trên
biển. Ngày nay, các vịnh này nằm trên vành đai
kinh tế VBB, cơ hội phát triển kinh tế to lớn,
nhưng vẫn giữ vai trò trọng yếu đối với phòng thủ
đất nước. Vùng cửa sông Bạch Đằng là nơi xảy ra
nhiều trận quyết chiến liên quan đến vận mệnh đất
nước như ba lần thuỷ chiến chống quân xâm lược
Nam Hán, Tống và Nguyên Mông; Bái Tử Long là
nơi còn ghi đậm chiến công của Trần Khánh Dư
đánh tan đoàn thuyền quân lương của Trương Văn
Hổ, góp phần vào chiến thắng Bạch Đằng năm
1288. Đây là nơi khởi chiến tái xâm lăng và cũng
là nơi tên lính Pháp xâm lược cuối cùng rút khỏi
miền Bắc năm 1955. Bán đảo Đồ Sơn là nơi khởi
đầu đường Hồ Chí Minh trên biển trong thời gian
chống Mỹ. Đảo Hòn Mê là nơi khởi sự cuộc xâm
lăng của không quân Mỹ ra miền Bắc vào năm
1964. Cồn Cỏ và Đảo Trần là những đảo tiền tiêu
có ý nghĩa về phân chia lãnh hải và xác định vùng
nội thuỷ. Đảo BLV có vai trò đặc biệt trong phân
định VBB và là một tiền đồn canh giữ biển trời Tổ
quốc nằm giữa vịnh.
3. Vị trí không gian đảo Bạch Long Vỹ
Nhờ có vị trí trên bình đồ cấu trúc là một bộ
phận của khối nâng nghịch đảo kiến tạo trên nền
rift địa phương được hình thành trong Kainozoi
sớm tại vùng chuyển tiếp giữa bể trầm tích Sông
Hồng ở phía tây nam và bể trầm tích Bắc Bộ ở phía
đông bắc và nhờ có biển tiến sau băng hà lần cuối
cùng xảy ra vào tận cuối Pleistocen muộn -
Holocen mà BLV trở thành hòn đảo xa bờ, đứng lẻ
loi gần giữa VBB và trở thành vị trí tiền đồn biên
giới ở vùng biển phía bắc Việt Nam.
3.1. Vị trí xa bờ
Nằm trong tọa độ địa lý: 20°07'35'' và
20°08'36'' vỹ độ Bắc; 107°42'20'' - 107°44'15'' kinh
độ Đông trong VBB, với khoảng cách 135km đến
cảng Hải Phòng, BLV là hòn đảo nằm xa bờ nhất.
Những đảo khác của Việt Nam nằm trong vịnh xa
nhất cũng chỉ cách bờ khoảng 25-30km như Thanh
Lân, Hạ Mai và Cồn Cỏ. Trong các đảo ven bờ
Việt Nam, BLV là một trong ba đảo xa bờ nhất, chỉ
480
sau Hòn Hải là một đảo rất nhỏ thuộc quần đảo
Phú Quý cách Phan Thiết khoảng 155km và đảo
Thổ Chu cách cửa Ông Đốc 146km. Xa bờ sẽ khó
khăn về tiếp ứng, nhưng đảo càng xa bờ thì chủ
quyền, lợi ích quốc gia càng mở rộng trên biển và
tuyến phòng thủ về an ninh quốc phòng càng được
đẩy xa, đảm bảo hơn cho hoạt động cảnh giới và
canh phòng trên biển. Đây là một trong những lợi
ích căn bản nhất của đảo BLV.
3.2. Vị trí gần giữa vịnh
Theo mặt cắt ngang VBB, BLV được coi là
nằm giữa vịnh (hình 1) với khoảng cách 135km
đến Hải Phòng và 130km đến mũi Ta Chiao (Hải
Nam). Theo mặt cắt vĩ tuyến thì đảo cũng nằm gần
giữa vịnh, nhưng theo mặt cắt kinh tuyến thì đảo
nằm lệch hẳn về phía bắc vịnh. Đối với một vịnh
gần kín và lõm sâu vào lục địa như VBB, vị trí gần
giữa vịnh của đảo BLV có tầm chiến lược vô cùng
quan trọng về kinh tế, tìm kiếm cứu nạn và an ninh
quốc phòng trên biển. Vị trí gần giữa vịnh cho
phép đảo khả năng quan sát bao quát và theo dõi
các quá trình tự nhiên và các hoạt động của con
người và các sự cố môi trường trên toàn vịnh tốt
nhất, đồng thời đảo cũng trở thành vị trí tốt nhất để
hưởng lợi tất cả các phần giá trị vị thế của cả VBB.
Vị trí gần giữa vịnh cho phép thực hiện nhiều hoạt
động ứng phó ở khoảng cách gần và nhanh nhất
trên vịnh, ví dụ như tìm kiếm cứu nạn và cứu hộ,
ngăn cản các vụ xâm nhập trái phép từ bên ngoài.
Vị trí gần gữa vịnh còn hạn chế rất nhiều phạm vi
của các hoạt động thăm dò, thám sát trái phép nếu
có xảy ra. Nhờ vị trí giữa vịnh mà tại đảo có Hải
đăng, Trạm quan trắc Khí tượng Thủy văn, trạm
quan trắc môi trường (chưa định kỳ),...
3.3. Vị trí lẻ loi
Vùng biển ven bờ tây VBB xét theo ranh giới
tự nhiên đến tận mũi Hải Vân, gồm có 2376 đảo
với diện tích 855,3km2, chiếm 85,7% tổng số đảo
và 49,7% tổng diện tích đảo ven bờ của cả nước
[1]. Tuy nhiên, các đảo phân bố không đều. Tại
ven bờ Bắc Bộ, tập trung ở Quảng Ninh và Hải
Phòng có tới 2321 đảo với diện tích 841,5km2,
chiếm 83,7% số đảo và 48,9% diện tích đảo ven bờ
cả nước. Trong đó, có 50 đảo có diện tích trên
1km2, gồm 2 đảo lớn là Cái Bầu và Cát Bà có diện
tích trên 100km2, 4 đảo diện tích 20-100km2 và 10
đảo diện tích 10-20km2 thuộc loại trung bình và 34
đảo nhỏ, 1-10km2. Ven bờ bắc Trung Bộ là vùng
có ít đảo nhất ven bờ Việt Nam, gồm 58 đảo với
tổng diện tích 14,3km2, chiếm 2,06% về số đảo và
0,83% về diện tích các đảo ven bờ Việt Nam. Các
đảo lớn nhất gồm: Hòn Mê 4,86km2, Biện Sơn
2,94km2, Cồn Cỏ 2,3km2, hòn Mắt 0,8km2,...
Nằm lẻ loi gần giữa VBB, BLV không có sự
liên kết về hình thể không gian với bất kỳ đảo hay
cụm đảo nào của Việt Nam, cách đảo xa nhất là
Cồn Cỏ thuộc Quảng Trị khoảng gần 400km và
cách đảo gần nhất là Hạ Mai thuộc Quảng Ninh
khoảng 70km. Chính nhờ vậy, đảo có vị trí độc tôn
giữa VBB, có nhiều lợi thế trong tiếp nhận trọng
trách và thực hiện mọi nghĩa vụ và quyền lợi trong
bảo đảm an ninh quốc phòng, bảo vệ môi trường và
phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực trung tâm
vịnh. Tuy nhiên, do lẻ loi đảo dễ bị cô lập trong các
tình huống đặc biệt như chiến tranh hay thiên tai.
4. Hình thể và cấu trúc không gian đảo Bạch
Long Vỹ
4.1. Hình dáng và kích thước đảo
Đảo BLV có hình dáng đồi thoải dạng hình tam
giác, góc nhọn nhất nằm ở phía đông bắc (hình 2).
Tính theo đường 0m lục địa, đảo có chu vi khoảng
6,7km, trong đó cạnh dài nhất cũng được xác định
là chiều dài của đảo khoảng 3km nằm ở vị trí bờ
tây bắc đảo (hướng đông bắc - tây nam), cạnh ngắn
nhất khoảng 1,5km nằm ở vị trí bờ tây nam đảo
(hướng tây tây bắc - đông đông nam) và cạnh còn
lại dài khoảng 2,2km nằm ở vị trí bờ đông - đông
nam đảo (hướng bắc đông bắc - nam tây nam).
Chiều rộng nhất của đảo, cũng được xác định là
đường cao của tam giác theo hướng tây bắc - đông
nam khoảng 1,3km.
Hình 2. Đảo Bạch Long Vỹ trên ảnh vệ tinh IKONOS
ngày 03/10/2006
481
Hình dáng và kích thước như đã nêu, thêm vào
đó là độ cao đảo đủ lớn để chắn gió và độ sâu ven
bờ đảo đảm bảo rất thuận lợi cho xây dựng hai âu
tầu để cập bến vào đảo và neo trú tránh gió vào hai
mùa gió có hướng gió chủ đạo khác nhau là mùa
gió Đông Bắc và mùa gió Tây Nam. Âu tàu và
luồng vào cảng tránh sóng, gió mùa gió Đông Bắc
đã được xây dựng ở vị trí bờ tây nam đảo từ năm
1998. Âu tàu và luồng vào cảng tránh sóng, gió
mùa gió Tây Nam cũng đã được quy hoạch ở vị trí
bờ tây bắc đảo theo Quyết định số 1056/QĐ-
UBND ngày 01/6/2009 của UBND Thành phố Hải
Phòng về việc phê duyệt Quy hoạch chi tiết tỷ lệ
1:2000 huyện đảo BLV và sẽ được triển khai xây
dựng trong tương lai gần. Đối với bất kỳ hòn đảo
nào, triển vọng phát triển và phát huy lợi thế của
đảo gắn với lợi thế hàng đầu là xây dựng cảng bến
và khu neo trú tránh gió bão. Đây là giá trị tài
nguyên vị thế tự nhiên quan trọng của đảo BLV.
4.2. Độ cao, độ dốc trên đảo và độ sâu ven đảo
Đảo BLV là một quả đồi dài (ảnh 1) có độ cao
tuyệt đối 61,5m, độ cao tương đối khoảng 90m,
nhô lên từ bề mặt đồng bằng đáy biển ở độ sâu
khoảng 30m. Trong số 888 đảo ven bờ Việt Nam
có độ cao được ghi nhận không vượt quá 600m,
BLV thuộc nhóm 279 đảo có độ cao trong khoảng
50-100m, trong khi có 374 đảo thuộc nhóm có độ
cao dưới 50m [3]. Thường thì gradient địa hình
càng lớn khi kích thước đảo càng nhỏ và nhóm đảo
nhỏ ven bờ Việt Nam có gradient địa hình khoảng
300-400m/km. BLV thuộc nhóm đảo nhỏ, nhưng
gradient địa hình lại không lớn, có giá trị
tương đương với các đảo lớn trong khoảng 50-
150m/km [3].
Ảnh 1. Đảo Bạch Long Vỹ (ảnh: Đàm Đức Tiến)
Điều này chứng tỏ địa hình đảo BLV thuộc diện rất
thoải so rất nhiều đảo ven bờ khác. Đảo có 62,5%
diện tích đất với góc dốc nhỏ hơn 5°, còn lại đa
phần không vượt quá 15°. Mức độ thoải nhất ở
khoảng độ cao 2-5m ứng với các thềm tích tụ biển
ở chân đảo (khoảng 2-5°), kế tiếp là bề mặt đỉnh
đồi có khoảng độ cao 55-60m (khoảng 3-8°) ứng
với một bề mặt san bằng cổ và dốc nhất ở khoảng
độ cao 25-50m ứng với sườn đồi. Là một đồi thoải,
BLV gần như không chia cắt ngang và chia cắt sâu
rất thấp, chỉ 5-10/km2.
Độ cao, độ dốc trên đảo và độ sâu ven đảo là
những yếu tố quan trọng liên quan đến khả năng
tiếp cận đảo và khả năng xây dựng cơ sở hạ tầng
trên đảo. Với một đảo thoải và có độ cao vừa phải
như BLV, việc xây dựng kết cấu hạ tầng, đặc biệt
là hệ thống giao thông bộ trên đảo khá thuận lợi, có
thể chọn nhiều phương án khi xây dựng công trình
cụ thể, mà ít phải bạt sườn, san nền làm biến dạng
cảnh quan tự nhiên. Mặt đỉnh đồi khá bằng phẳng
được xác định theo khoảng đường đồng mức 55-
60m là một diện tích lý tưởng để xây dựng các
công trình khống chế độ cao, đồng thời có tầm nhìn
tất cả các hướng ra biển. Với độ cao và độ dốc hợp
lý, diện tích sử dụng tối ưu, có thể bố trí quy hoạch
nhiều hạng mục công trình cấn thiết cho một đơn
vị hành chính cấp huyện, đồng thời đảm bảo cho
các hoạt động phòng thủ trên một đảo tiền tiêu.
So với phần đảo nổi, phần sườn đảo chìm thoải
hơn nhiều, góc dốc chỉ 1-2° trong khoảng từ bờ đến
độ sâu 10m, sau đó tăng lên, nhưng cũng chỉ dưới
5° trong khoảng độ sâu 10-30m. Khoảng cách của
các mức độ sâu tới bờ được trình bày trên bảng 1.
Đây là trường hợp có các mực độ sâu phân bố khá
hài hoà đảm bảo cho các lợi ích khác nhau của đảo.
Nếu độ sâu sát bờ lớn hơn, ảnh hưởng của sóng lớn
và bão tới đảo sẽ gây nhiều ảnh hưởng bất lợi lớn
hơn cho đảo, nhưng nếu độ sâu sát bờ nhỏ hơn thì
khả năng tiếp cận của tàu thuyền tới đảo cũng lại
khó khăn hơn.
Bảng 1. Khoảng cách tới bờ của các mức độ sâu
ở ven đảo BLV
Độ sâu phía đông - đông bắc Phía tây bắc Phía tây nam
6m 420m 460m 650m
10m 890m 1440m 2930m
20m 950m 1540m 3950m
30m 1400m 3370m 5350m
Đối với các đảo nhỏ không có eo vũng tại ven
bờ đảo như BLV, cảng bến và khu neo đậu phải
được xây dựng bằng các công trình nhân tạo để có
âu tàu thuyền và muốn cập bến quanh năm thì phải
có hai âu bến ở hai phía đảo khuất gió luân đổi với
các mùa gió Đông Bắc và Tây Nam. Công trình
482
cảng và khu neo đậu tàu BLV do Công ty Xây
dựng Lũng Lô, Bộ Tư lệnh Công binh xây dựng
năm 1998, có quy mô đê chính dài 650m, đê phụ
515m được che chắn bằng các khối bê tông
tetrapod, bảo đảm cho các phương tiện tàu thuyền
neo đậu an toàn trong điều kiện gió bão cấp 12. Số
lượng neo đậu có thể đạt 500-600 tàu thuyền.
Ngoài các âu bến cho tàu thuyền trọng tải vừa
và nhỏ cập đảo, trong các tình huống đặc biệt, cần
có tàu lớn ra đảo, rồi neo đậu để chuyển tải vào
đảo. Tại độ sâu 6m, tàu 6-7 nghìn tấn có thể tiếp
cận khi triều xuống và tàu 1 vạn tấn có thể tiếp cận
khi triều lên; với độ sâu 10m, tàu đến 3 vạn tấn có
thể tiếp cận và với độ sâu 20m tàu trên 10 vạn tấn
có thể tiếp cận; với độ sâu 30m, tất cả các tàu có tải
trọng lớn đều có thể qua lại ven đảo dễ dàng. Đây
là lợi thế rất lớn đối với đảo BLV.
4.3. Diện tích đảo
Tính toán và thống kê theo bản đồ địa hình tỷ lệ
1:10.000, diện tích đảo nổi BLV trên mực triều cao
nhất là 1,78km2, tính đến mực biển trung bình
(ngang 0m lục địa) là 2,33km2; đến mực triều thấp
nhất là 3,05km2; đến độ sâu 2m là 4,04km2; đến độ
sâu 6m là 7,32km2; tới độ sâu 20m thì diện tích đảo
khoảng 50km2 [6]. Tính đến độ sâu khoảng 30m,
thì tổng diện tích đảo kể cả phần nổi và phần sườn
ngầm khoảng 80km2 [7]. Theo niên giám thống kê
năm 2011 của thành phố Hải Phòng, huyện đảo
BLV được tính có diện tích là 3,2km2.
Trong hệ thống đảo ven bờ Việt Nam [1] có
2773 hòn với tổng diện tích 1721km2, BLV thường
được coi là một đảo nhỏ, nhưng thuộc nhóm 84
đảo có diện tích trên 1km2, chiếm tới 92,77 tổng
diện tích đảo. Theo cách phân chia nhóm đảo: lớn,
trung bình, nhỏ, rất nhỏ và cực nhỏ, BLV thuộc
nhóm đảo nhỏ (diện tích trong khoảng từ trên 1
km2 đến 10 km2) với 60 hòn (chiếm 2,16% tổng số
đảo ven bờ) và tổng diện tích nhóm này 183,2km2
(chiếm 10,64% tổng diện tích đảo ven bờ).
Như vậy, mặc dù là đảo nhỏ, nhưng BLV vẫn
có một vị trí diện tích xứng đáng trong hệ thống
đảo ven bờ Việt Nam. Diện tích ấy, cùng với các
lợi thế khác cho phép BLV đảm trách đầy đủ chức
năng của một đơn vị hành chính cấp huyện trong
hệ thống các đơn vị hành chính của Việt Nam.
Chính vì vậy, Chính phủ đã ra Nghị định số 15/CP
ngày 09/12/1992 về việc thành lập huyện BLV.
Ngày 27/7/1994, Thủ tướng Chính phủ ra quyết
định số 397/TTg phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ
thuật tổng thể xây dựng đảo BLV trở thành một
đơn vị hành chính cấp huyện phát triển kinh tế -
quốc phòng - xã hội toàn diện, một trung tâm dịch
vụ hậu cần nghề cá của ngư trường VBB. Cho đến
nay, trong hệ thống 10 huyện đảo ven bờ của Việt
Nam (có 5 huyện đảo nằm trong VBB), huyện đảo
BLV có diện tích chỉ đứng trên huyện đảo Cồn
Cỏ: huyện đảo Phú Quốc 589km2; Vân Đồn
551,13km2; Cát Hải 323,1km2; huyện Côn Đảo
76km2; Cô Tô 46,2km²; Kiên Hải 38,7km2; Phú
Quý 16,4km2; Lý Sơn, 9,97km2; BLV 3,2km2,
(Niên giám thống kê Tp. Hải Phòng 2011); Cồn
Cỏ, 2,3km2.
Trong điều kiện vị thế như vậy, không gian ở
BLV là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá cả trên
giá trị tiềm năng và giá trị sử dụng thực tế. Việc
quy hoạch sử dụng đất ở đây là một bài toán tối ưu
ít có. Trong diện tích 620 ha đảo và vùng nước
BLV được quy hoạch theo Quyết định số
1056/QĐ-UBND nói trên, có: đất dân dụng
45,02ha (gồm đất ở, đất công cộng, đất giao thông,
đất cây xanh,...); dịch vụ hậu cần nghề cá 14,47ha;
Du lịch 19,60 ha; đất Tổng đội Thanh niên xung
phong 2,06 ha; nông nghiệp 8,70 ha; đất dự trữ cho
dịch vụ dầu khí 8,53 ha; quân sự 47,82 ha; dịch vụ
khác 28,12 ha; Khu neo đậu tàu thuyền 49,08 ha;
đất rừng 46,65 ha; đất cây xanh cách ly 3,86 ha;
bãi đá 75,70 ha và mặt nước 249,36 ha. Thật hiếm
có nơi nào như đảo BLV, trong một không gian
nhỏ hẹp mà phân bổ diện tích cho cả kinh tế - dân
sinh, quân sự và bảo tồn tự nhiên; có đến hai âu
cảng, cả sân bay phản lực và trực thăng, khu du
lịch và dịch vụ, đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản,
4.4. Cấu trúc không gian
Về mặt địa chất, BLV là đảo đá trầm tích Đệ
tam duy nhất ở ven bờ Việt Nam, đặc biệt là có
mặt trầm tích Paleogen (Oligocen - E3) lộ ra tại
đảo [12]. Về mặt kiến trúc - hình thái, đảo có dạng
đồi thoải, kết quả của quá trình bóc mòn trên nền
nâng kiến tạo mạnh mẽ trong Pliocen - Đệ tứ, thời
gian mà hầu hết diện tích đáy VBB cuốn hút vào
chuyển động sụt hạ của các bồn trũng Kainozoi.
Một số đảo khác của Việt Nam cũng có thành tạo
đá tuổi Neogen - Đệ tứ, nhưng lại cấu tạo bằng đá
basalt như Cồn Cỏ, Lý Sơn, Phú Quý,... Hệ thống
đảo ven bờ Việt Nam gồm 10 kiểu nguồn gốc -
hình thái đảo, trong đó kiểu thứ 4 là đảo đồi thoải
bóc mòn - mài mòn hình thành do nâng nghịch đảo
Tân kiến tạo dạng vòm - địa luỹ các đá trầm tích
Kainozoi duy nhất gặp ở đảo BLV [3].
483
Nếu lấy đường 0m lục địa làm phân giới thì có
thể phân chia đảo đồi BLV thành hai phần. Phần
đảo nổi, như đã nói ở phần trên, có hình tam giác
định hướng kéo dài đông bắc - tây nam, dài nhất
3km, rộng nhất (đường cao tam giác) 1,3km, với tỷ
lệ chiều cao trên diện tích khoảng 26,4m/km2.
Trong khi đó, phần đảo ngầm tính đến chân có độ
sâu 30m có hình oval rìa lượn sóng, định hướng
kéo dài phương bắc đông bắc - nam tây nam, dài
12,5km và rộng nhất 7km, với tỷ lệ chiều cao trên
diện tích chỉ 4m/km2.
Có thể chia phần ngầm của đảo BLV thành hai
đới. Đới trên từ 0m lục đến độ sâu 6m và đới dưới
có độ sâu trong khoảng 6-30m. Đới trên có hình
thái gần tương đồng với hình thái đảo nổi, nhưng
rất thoải, thoải hơn rất nhiều so với đảo nổi và hơn
nhiều so với đới dưới. Đới dưới có những tính chất
đặc trưng cho phần đảo ngầm về kích thước, hình
thái và độ dốc.
Về mặt cấu trúc không gian, đảo nổi có hai tính
chất rất quan trọng đối với sử dụng không gian
đảo. Thứ nhất, đảo đồi khá thoải nhưng lại có mặt
các bề mặt khá bằng phẳng phân bậc tiện lợi cho
các hoạt động dân sinh - kinh tế, đặc biệt là các xây
dựng công trình cơ sở hạ tầng, tiêu biểu nhất là bề
mặt đỉnh đồi vốn là dấu tích còn sót lại của một bề
mặt san bằng cổ tuổi Đệ tứ sớm (bề mặt chia đỉnh
dài khoảng 1,3km, rộng khoảng 100m) và các bậc
thềm tích tụ bậc I có độ cao trong khoảng 2-5m, có
tầng trầm tích dày 1- 3m nằm khá liên tục ven đảo.
Bề mặt 10-15m, phân bố ở bờ đông, mũi đông bắc
đảo, hẹp hơn ở mũi tây nam đảo và bờ tây, góc dốc
3-8°. Bề mặt cao 4-6m phân bố chủ yếu ở bờ đông,
mũi đông bắc và mũi tây nam, góc dốc 3-8°. Bề
mặt cao 2-3m tạo thành một dải gần như liên tục,
phân bố quanh đảo. Thứ hai, tại BLV, các sản
phẩm tích tụ có diện phân bố đáng kể trên phần
đảo nổi. Chỉ các đảo ven bờ Việt Nam có diện tích
trên 5km2 thì mới có trên 10 dạng địa hình tích tụ
[3], riêng BLV là đảo có diện tích dưới mức này,
nhưng cũng có trên 10 dạng địa hình tích tụ, bao
gồm: tích tụ phong hoá eluvi; sườn tích tụ deluvi -
coluvi; dải tích tụ proluvi - deluvi tạo thành dải hẹp
chân sườn dày khoảng 1m, thềm tích tụ bậc II;
thềm tích tụ bậc I, bãi cát biển; bãi biển tích tụ -
mài mòn; đụn cát ven biển; mặt mài mòn - tích tụ
ngầm; tích tụ sinh học (rạn san hô). Địa hình tích tụ
chân đồi phân bố thành một dải gần như liên tục
quanh chân đồi. Bờ đảo cũng thuộc loại mài mòn -
tích tụ với độ dài tích tụ bãi cát biển chiếm tỷ lệ
đáng kể. Về mặt thực tế cũng như theo phong thủy,
“tụ” bao giờ cũng tốt hơn “phá”. Sự có mặt các
dạng sản phẩm tích tụ làm cho địa hình đỡ tương
phản, thuận lợi cho dân sinh và kinh tế như xây
dựng, canh tác, lưu trữ nước ngầm cho sinh hoạt,...
Tài nguyên nước ngọt trên đảo thuộc loại trữ
lượng nhỏ và khó khăn do lượng mưa nhỏ, trong
khi lượng bốc hơi lại cao. Tuy nhiên so với nhiều
đảo khác, nước ngầm tại BLV cũng rất quý giá và
đáng kể với trữ lượng nước ngầm tầng nông 450
nghìn m3/năm và nước ngầm tầng sâu qua khoan
khảo sát 792m3/ngày, bằng khoảng một phần ba
đảo Phú Quý (2316m3/ngày). Có được nguồn tài
nguyên nước này là do đảo có vỏ phong hoá dày và
có hệ thống thềm tích tụ ven chân đảo tích trữ nước
ngầm. Trước đây, đảo còn có tên gọi là Vô Thuỷ
do không có khe, suối có nước chảy và không có
nước ngầm xuất lộ. Sau này, do phát hiện nước
ngầm tầng nông có thể đào giếng ở ven chân đảo,
nên BLV mới có dân ra ở. Nguồn nước quý nơi
đảo xa gắn với canh tác và sinh hoạt. Kể từ năm
1920, khi phát hiện ra nước, hàng trăm dân đã sinh
sống lâu dài trên đảo với kinh tế nông nghiệp phần
nhiều là tự cấp. Trước năm 1965, trên đảo có 22 ha
đất lúa, cao lương, dưa hấu, bí đỏ, bí đao,... nhưng
sản lượng thấp: lúa dưới 2 tấn/ha/năm, cao lương
0,75 tấn/ha/năm, dưa hấu 0,7 tấn/ha/năm. Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, có những thời gian
dài đảo BLV bị cô lập với đất liền do hải quân và
không quân Mỹ bao vây, phong tỏa. Ngoài lương
thực, quân nhu và vũ khí được dự trữ trên đảo,
nguồn nước ngọt tại chỗ được tích lũy ở các dạng
nước ngầm trong các thể cát thềm biển ven đảo đã
đủ cấp nước giúp cho đảo đứng trụ hiên ngang và
vững vàng trước quân thù.
Bờ bồi tụ cấu tạo từ vật liệu cát, cuội, sỏi chiếm
khoảng 40% tổng chiều dài bờ đảo, đặc biệt các bãi
cát biển thoải điển hình rộng 15-30m, tổng diện
tích khoảng 7,8ha, gặp ở một số đoạn bờ như phía
tây nam và phía tây bắc đảo là những yếu tố thuận
lợi ít đảo có được để tiếp cận đảo như dùng làm
bến thuyền tự nhiên trước đây, là nơi đổ bộ quan
trọng trong phòng thủ và tác chiến.
Vùng bãi ngập triều quanh đảo có diện tích
khoảng 1,3km2, chủ yếu là thềm đá gốc do sóng
mài mòn tạo ra. Bãi triều rạn đá rộng nhất ở phía
bờ đông nam là 400m, phía đông bắc là 350m, phía
tây nam là 250m, phía tây 100m và ở phía đông
150m. Cấu trúc bãi triều rạn đá ở BLV khá rộng,
trên mặt lại nhiều đá tảng, nên có khả năng giảm
sóng rất tốt, bảo vệ cho bờ đảo và hạn chế các tai
484
biến gây ra do sóng lớn gió mùa hay sóng bão. Bãi
triều rạn đá có thể coi là không gian dự phòng cho
các kế hoạch phát triển đảo lâu dài.
Ở phần đảo ngầm, bậc địa hình từ độ sâu 0-6m
chủ yếu là đá gốc, mặt dốc 1-2°, một số nơi có san
hô sống, độ phủ cao, tạo thành dải rộng khoảng
400-700m ven đảo. Đây là vành đai phá sóng lớn
bảo vệ bờ đảo. Động lực sóng và dòng khá mạnh,
nhưng nền móng công trình tốt, mặt đáy lại khá
bằng phẳng, có thể xây dựng các công trình kiên cố
ven đảo như âu tầu, mở rộng đường băng sân bay
và các công trình ngầm.
Ở khoảng độ sâu 6-30m thuộc đới dưới của
phần đảo chìm, bề mặt khá bằng phẳng ở khoảng 6
-10m sau đó chuyển sang khá dốc ở khoảng 10-
30m, mặt nền đáy cấu tạo từ vật liệu cuội, sỏi, cát
và đá gốc. Mặc dù nền đáy khá dốc, nhưng tác
động của động lực sóng đến đáy không mạnh nên
mặt đáy khá ổn định. Tại đây có thể xây dựng các
công trình ngầm trên nền đáy cứng.
Như vậy, những giá trị và lợi ích cơ bản của
hình thể và cấu trúc không gian của đảo BLV là có
đủ điều kiện sinh cư cho nhiều người ổn định trong
lâu dài; có đủ điều kiện lập đơn vị hành chính cấp
huyện với tiềm năng phát triển cơ sở hạ tầng
trên đảo như công trình dân dụng, đèn biển, bến
cảng,... và ở một mức độ nhất định có khả năng
phát triển kinh tế tự cấp trong những điều kiện đặc
biệt và phát triển dịch vụ mở rộng để mang lại
những lợi ích kinh tế cao.
5. Động lực và tính ổn định khu vực đảo Bạch
Long Vỹ
Trong vị thế tự nhiên, yếu tố động lực và tính
ổn định liên quan mật thiết đến mức độ an toàn cho
định cư và khả năng đầu tư bền vững phát triển
kinh tế - xã hội.
BLV là một đảo đồi nhỏ, nhưng có đủ độ cao,
độ rộng và kết cấu địa chất vững chắc để tồn tại lâu
dài. Dưới tác động xâm thực, bào mòn bề mặt đảo
trong điều kiện ít mưa như ở khu vực BLV, quá
trình hạ thấp mặt đảo nổi không phải là vấn đề lớn
cần đặt ra cho lâu dài, nếu có định hướng tốt phủ
xanh mặt đảo để giữ nước và hạn chế chảy tràn,
rửa trôi.
Dưới tác động của các quá trình động lực biển,
diện tích đảo về mặt nguyên tắc sẽ thu hẹp dần
theo thời gian, nhất là trong điều kiện dâng cao
mực nước biển do biến đổi khí hậu. Bào mòn và
xâm thực lâu dài bờ đông nam đảo, đặc biệt mũi
phía đông, với tốc độ ước tính 5-7cm/năm trong
khoảng 3.000 năm qua (Holocen muộn), nếu cứ
tiếp diễn mỗi thế kỷ, đảo có thể thu hẹp đến 3-4 ha,
một con số không nhỏ so với sự trường tồn của
một đảo nhỏ giữa biển khơi. Đây là tốc độ bào mòn
đáng kể đối với bờ đá gốc trầm tích có tuổi Đệ tam,
không được rắn chắc như các bờ đá magma hay đá
trầm tích tuổi cổ hơn. Ở các đoạn bờ cát của đảo,
tốc độ xói lở bờ còn có thể thu hẹp đảo lớn hơn
nhiều. Với kịch bản tốc độ dâng cao mực nước
biển do biến đổi khí hậu ấm lên ở mức thấp, tốc độ
xói lở bãi trung bình dưới 0,1m/năm, vào năm
2100, chiều rộng bãi giảm 14-23%, cá biệt 36%.
Với kịch bản dâng cao mực nước biển mức trung
bình các bãi bị xói lở thu hẹp mất 75% và với kịch
bản cao, các bãi gần như biến mất sau một thế kỷ.
Điều này cho thấy, để ổn định và phát triển lâu dài
tại đảo BLV, phải có kế sách lâu dài bảo vệ bờ đảo
khỏi bị xâm thực và xói lở.
Khu vực đảo nằm trong vùng phát sinh và ảnh
hưởng động đất cực đại Mmax=7 và Iomax=9 [14],
do vậy nguy cơ động đất vẫn có thể xảy ra và cần
có những tính toán thận trọng khi xây dựng các
công trình kiên cố trên đảo.
6. Kết luận
Giá trị tài nguyên vị thế tự nhiên to lớn của đảo
BLV chính là vị trí lẻ loi, xa bờ và nằm gần giữa
VBB; các yếu tố hình thể và cấu trúc không gian
như hình dáng và kích thước; độ dốc, độ cao và độ
sâu ven đảo, diện tích đảo và cấu trúc đảo nổi,
thềm triều và sườn bờ ngầm đảo; tính ổn định động
lực. Nhờ vậy, đảo:
- Trở thành vị trí tiền đồn - biên giới ở vùng
biển phía bắc Việt Nam và có nhiều lợi thế trong
tiếp nhận trọng trách và thực hiện mọi nghĩa vụ và
quyền lợi quốc gia ở khu vực trung tâm vịnh.
- Thuận lợi cho khả năng tiếp cận đảo và xây
dựng cơ sở hạ tầng tại đảo, đặc biệt là các âu cảng
cập bến và neo trú theo hai mùa gió luân đổi.
- Đảm trách đầy đủ chức năng của một đơn vị
hành chính cấp huyện, đảm bảo phát triển bền
vững kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng
và lợi ích, chủ quyền quốc gia trên biển.
- Đủ điều kiện sinh cư cho một số lượng dân cư
đáng kể, ổn định trong lâu dài, có thể phát triển
kinh tế tự cấp trong những điều kiện đặc biệt và có
khả năng phát triển dịch vụ mở rộng để mang lại
những lợi ích kinh tế cao.
Đây là những tiền đề quan trọng để hình thành
nên các giá trị tài nguyên địa kinh tế và địa chính
trị của hòn đảo này.
485
TÀI LIỆU DẪN
[1] Lê Đức An, 2008: Hệ thống đảo ven bờ Việt
Nam - Tài nguyên và phát triển. Nxb. KHTN&CN.
Hà Nội. 199tr.
[2] Lê Đức An, Nguyễn Chu Hồi, 2010: Đánh
gía tài nguyên vị thế dải ven biển và các đảo ven
bờ Bắc Bộ. Báo cáo chuyên đề. Dự án 14/47. Lưu
trữ Viện TN&MT Biển.
[3] Lê Đức An, Uông Đình Khanh, 2012:. Địa
mạo Việt Nam: Cấu trúc - Tài nguyên - Môi
trường. Nxb. KHTN&CN. Hà Nội, 659tr.
[4] Lưu Văn Lợi, 2007: Những điều cần biết về
Đất, Biển, Trời Việt Nam, Nxb. Thanh Niên Hà
Nội, 303tr.
[5] Nguyễn Thanh Sơn, Đinh Văn Huy, Trần
Đức Thạnh, 1996: Địa hình đáy Vịnh Bắc Bộ. Tài
nguyên và Môi trường biển. Nxb. KH&KT. Hà
Nội, tr.16-26.
[6] Trần Đức Thạnh (chủ biên), 2005: Quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế xã hội huyện đảo Bạch
Long Vỹ đến năm 2010 và 2020. Lưu trữ Viện
TN&MT Biển.
[7] Trần Đức Thạnh và nnk, 2010: Quy hoạch
chi tiết khu bảo tồn biển Bạch Long Vỹ - Hải
Phòng. Lưu trữ tại Viện TN&MT Biển.
[8] Trần Đức Thạnh, Nguyễn Hữu Cử, Trần
Đình Lân, 2010: Nhận thức cơ bản về tài nguyên vị
thế biển Việt Nam. Tuyển tập Hội nghị Khoa học
kỷ niệm 35 năm Viện KH&CN Việt Nam. Tiểu
ban KH&CN Biển. Nxb. KHTN&CN. Hà Nội,
tr.134-140.
[9] Trần Đức Thạnh, Lê Đức An, Nguyễn Hữu
Cử, Trần Đình Lân, Nguyễn Văn Quân và Tạ Hoà
Phương, 2012: Biển đảo Việt Nam - Tài nguyên vị
thế và những kỳ quan sinh thái, địa chất. Nxb.
Khoa học Tự nhiên và Công nghệ. Hà Nội, 300tr.
[10] Phạm Thược, 2002: Sử dụng hợp lý và
quản lý đa dạng sinh học ở Vịnh Bắc Bộ. Tài
nguyên và Môi trường Biển. T.VIII. Nxb. KH&KT.
[11] Trần Văn Trị, Vũ Khúc (đồng chủ biên),
2009: Địa chất và Tài nguyên Việt Nam, Nxb.
KHTN&CN, Hà Nội, 589tr.
[12] Phạm Quang Trung, Nguyễn Quốc An, Đỗ
Bạt, Đặng Vũ Khởi, 1997: Tài liệu mới về tuổi
trầm tích Đệ tam ở đảo Bạch Long Vỹ. Tài nguyên
và Môi trường Biển. T.IV. Nxb. KH&KT. Hà Nội,
tr. 81-87.
[13] Nguyễn Thế Tưởng và nnk, 2006: Điều tra
tổng hợp điều kiện tự nhiên, tài nguyên và môi
trường Vịnh Bắc Bộ. Đề tài cấp Nhà nước. Mã số
KC.09.17.
[14] Hoàng Quang Vinh, Phan Trọng Trịnh,
Bùi Văn Thơm, 2010: Hồ sơ kỳ quan địa chất đảo
Bạch Long Vĩ. Báo cáo chuyên đề. Dự án 14/47.
Điều tra cơ bản và đánh giá tài nguyên vị thế, kỳ
quan sinh thái,địa chất vùng biển và các đảo Việt
Nam. Lưu trữ tại Viện TN&MT Biển.
[15] Bộ Thủy Sản, 1996: Nguồn lợi thủy sản
Việt Nam. Nxb. Nông Nghiệp. Hà Nội, 616tr.
[16] Cục Thống kê tỉnh các tỉnh phía Bắc
(Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định,
Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng
Bình), 2008: Niên giám Thống kê các tỉnh năm
2007. Nxb. Thống kê. Hà Nội.
[17] Đội Liên hiệp điều tra Việt - Trung 1965:
Báo cáo điều tra tổng hợp Vịnh Bắc Bộ. Lưu trữ
Viện TN&MT Biển.
[18] Viện Nghiên cứu Trung Quốc, 2007: Khu
kinh tế Vịnh Bắc Bộ (Quảng Tây). Tạp chí Nghiên
cứu Trung Quốc, số 5, tr.82-85.
SUMMARY
Natural Position Resources in Bach Long Vy Island
Bach Long Vy is a far coastal island, and alonely locates in the approximate centre of The Gulf of Tonkin. By those,
it possess the unique location, becomes an border - outpost in the sea of North Vietnam, and possesses the great
advantages for accepting important liabilitis; and realizing many obligations and interests for the purpose of ensuring
national security, defense and sovereignty, protecting environment, and developing socio-economy. The combination of
shape, size, slope and height of island; and its coastal depth are appropriate to preventing the strong wind and wave;
favorable for accessing and building the infrastructure at the island, especially wharf and anchorage sites for two wind
seasons alternately. Small in area, but the island has fully responsibility for the functions of an administrative district in
Vietnam. By the basic values and advantages on the spacial morphology and structure, and dynamic stability, the island
has enough the conditions for considerable inhabitants, and sustainable socio-economic development.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2807_9227_1_pb_6561_2108026.pdf