Vùng bờ Khánh Hòa có tiềm năng to lớn về
tài nguyên vị thế, kể cả ba hợp phần vị thế địa -
tự nhiên, vị thế địa - kinh tế và vị thế địa - chính
trị. Đây là nguồn lực thúc đẩy phát kinh tế dịch
vụ như: hàng hải, du lịch, hậu cần nghề cá, ngân
hàng - tài chính, viễn thông, các khu trung
chuyển, khu kinh tế trọng điểm, phát triển đô thị
ven biển và các hoạt động liên kết vùng miền,
lãnh thổ và lãnh hải . Đặc biệt, tài nguyên vị
thế vùng bờ Khánh Hòa mang lại lợi ích phòng
thủ, hậu cứ và bàn đạp để mở rộng phạm vi hoạt
động trên Biển Đông, đảm bảo chủ quyền và lợi
ích lợi ích quốc gia trên biển, trong đó có các
quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Vị thế trước đây chưa được coi là tài
nguyên, mà chỉ là “lợi thế so sánh” nên việc sử
dụng tài nguyên này mang tính tự phát và tình
huống, chưa được định dạng, điều tra và đánh
giá có căn cứ khoa học, nên còn hạn chế về
hiệu quả sử dụng. Phụ thuộc vào tài nguyên
truyền thống, ít địa phương ven biển nào, kể cả
Khánh Hòa, có được bộ số liệu điều tra đầy đủTài nguyên vị thế vùng bờ Khánh Hòa
23
và hệ thống về các cửa sông, vũng vịnh, đầm
phá, hải đảo, bán đảo và thềm lục địa . bao
gồm cả số lượng và chất lượng (hình thể, cấu
trúc, động lực .) để có các phương án sử dụng
hợp lý và tối ưu. Vì vậy, đã đến lúc phải tiến
hành điều tra, đánh giá dạng tài nguyên này ở
vùng bờ Khánh Hòa, để thay thế cho các tài
nguyên truyền thống ngày càng cạn kiệt, nhằm
tạo ra bước phát triển đột phá về kinh tế - xã
hội biển đảo
12 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 584 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài nguyên vị thế vùng bờ Khánh Hòa: tiềm năng và triển vọng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
13
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 15, Số 1; 2015: 13-24
DOI: 10.15625/1859-3097/15/1/4182
TÀI NGUYÊN VỊ THẾ VÙNG BỜ KHÁNH HÒA:
TIỀM NĂNG VÀ TRIỂN VỌNG
Trịnh Thị Minh Trang1*, Nguyễn Thị Nguyệt Hà2, Trần Đức Thạnh1
1Viện Tài nguyên và Môi trường biển-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
2Chi cục biển và Hải đảo-Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Khánh Hòa
*E-mail: minhtrang30687@gmail.com
Ngày nhận bài: 9-7-2014
TÓM TẮT: Vùng bờ tỉnh Khánh Hòa nằm ở duyên hải Nam Trung Bộ, thuộc phần nhô ra xa
nhất của đất liền Việt Nam ra vùng giữa bờ tây Biển Đông, có quan hệ đặc biệt về không gian với
quần đảo xa bờ Trường Sa, vùng địa bàn chiến lược Tây Nguyên và trung tâm kinh tế - chính trị
thành phố Hồ Chí Minh. Đây là vùng bờ có thềm lục địa phía ngoài sâu và dốc; hình thể và cấu
trúc không gian đa dạng và phức tạp với hệ thống các bán đảo, đảo, vũng vịnh, đầm và cửa sông ...
tạo ra tiềm năng to lớn về tài nguyên địa - tự nhiên, mà nổi bật là giá trị của hệ thống các vũng vịnh
và đảo ven bờ. Về tài nguyên địa - kinh tế, vùng bờ Khánh Hòa có tiềm năng lớn xây dựng cơ sở
hậu cần khai thác tài nguyên biển xa, xây dựng các cơ sở kinh tế biển lớn, phát triển kinh tế dịch vụ
biển, đặc biệt là cảng - hàng hải và du lịch sinh thái biển. Về tài nguyên địa - chính trị, đây là một
trong những vị trí có vai trò quan trọng trong việc phòng thủ và bảo vệ đất nước từ biển, đảm bảo
chủ quyền và lợi ích quốc gia trên Biển Đông, trong đó có việc trực tiếp quản lý huyện đảo Trường
Sa. Việc điều tra, đánh giá chi tiết tài nguyên vị thế vùng bờ sẽ là cơ sở khoa học quan trọng để
phát triển biển đảo tỉnh Khánh Hòa.
Từ khóa: Tỉnh Khánh Hòa, vùng bờ, tài nguyên vị thế.
MỞ ĐẦU
Tài nguyên vị thế (TNVT) là một hướng mới
về điều tra, đánh giá tài nguyên phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội, đặc biệt đối với kinh tế dịch vụ.
Quốc đảo Singapore là một ví dụ rất thành công
về sử dụng tài nguyên vị thế để phát triển đất
nước, trong điều kiện tài nguyên sinh vật và phi
sinh vật truyền thống nghèo nàn [1, 2].
Tỉnh Khánh Hòa nằm ở khu vực Nam
Trung Bộ, là tỉnh cực đông của Việt Nam có
đường mép nước tiếp giáp biển dài gần 385 km
với hơn 200 hòn đảo lớn (tài liệu của UBND
tỉnh Khánh Hòa - Cổng Thông tin Điện tử,
2014) nhỏ ven bờ và quần đảo Trường Sa nằm
giữa Biển Đông. Sự phát triển kinh tế mạnh mẽ
của tỉnh trong những năm qua chính là nhờ sử
dụng tài nguyên vị thế, có vai trò không kém gì
tài nguyên thiên nhiên truyền thống. Tuy nhiên,
việc sử dụng tài nguyên này xuất phát từ yêu
cầu của thực tiễn, mang tính tình huống, chưa
có được cơ sở khoa học làm nền tảng để định
loại và đánh giá giá trị, nên còn hạn chế về hiệu
quả và tính bền vững.Vùng bờ tỉnh Khánh Hòa
có tiềm năng lớn về tài nguyên vị thế, nếu được
điều tra, đánh giá và nghiên cứu có hệ thống,
có thể sử dụng hiệu quả hơn để phát triển bứt
phá về kinh tế biển đảo. Bài viết này là nghiên
cứu bước đầu về tài nguyên vị thế vùng bờ
Khánh Hòa dựa theo các phương pháp và tiêu
chí đánh giá của Trần Đức Thạnh và đồng
nghiệp [2].
TÀI NGUYÊN VỊ THẾ ĐỊA TỰ NHIÊN
VÙNG BIỂN VEN BỜ KHÁNH HÒA
Trịnh Thị Minh Trang,
14
Một vị trí không gian trung tâm cho các
quan hệ giao lưu kinh tế
Khánh Hòa là một tỉnh duyên hải Nam
Trung Bộ; phía bắc giáp tỉnh Phú Yên, điểm
cực bắc: 12052’15”B; phía nam giáp tỉnh Ninh
Thuận, điểm cực nam: 11042’50”B; phía tây
giáp tỉnh Đắk Lắk và Lâm Đồng điểm cực tây:
108040’33”Đ; phía Đông giáp Biển Đông,
điểm cực Đông: 109o27’55”Đ. Mũi Hòn Đôi
trên bán đảo Hòn Gốm, huyện Vạn Ninh mới
chính là điểm cực đông trên đất liền của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (hình 1).
Về vị trí trong không gian, vùng bờ Khánh
Hòa có những đặc điểm chủ yếu và quan trọng
như sau:
Hình 1. Quan hệ không gian hành chính của Khánh Hòa với
các tỉnh Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung Bộ
Tài nguyên vị thế vùng bờ Khánh Hòa
15
Có vị trí là trung tâm của Đông Nam Á,
nằm ở phần giữa của dải ven bờ phía tây Biển
Đông, phần chuyển tiếp của Đông Nam Á lục
địa ra biển và tiếp cận trực tiếp với phần đáy
sâu của Biển Đông do thềm lục địa hẹp và dốc
[3, 4].
Tiếp cận với phần đất liền nhô ra gần
trung tâm Biển Đông nhất so với toàn vùng bờ
Việt Nam, đồng thời cũng gần với các tuyến
đường hàng hải quốc tế nhất.
Có quan hệ đặc biệt về tự nhiên và hành
chính với cả Quần đảo Trường Sa, Quần đảo
Hoàng Sa nằm giữa Biển Đông [2].
Có một hậu phương rộng lớn là Tây
Nguyên, với tiềm năng rất lớn về nông lâm sản
và khoáng sản, đồng thời còn là cửa ngõ cho
các nước phía tây là Lào và Campuchia, đầu ra
của các tuyến hành lang đông - tây phía nam.
Không xa thành phố Hồ Chí Minh, trung
tâm kinh tế lớn nhất nước; rất gần Tây Nguyên,
một địa bàn chiến lược khi đất nước lâm nguy.
Hình thể và cấu trúc không gian thuận lợi
cho phát triển các khu dân cư, đô thị ven
biển và phát triển tổng hợp, đa ngành các
lĩnh vực kinh tế biển
Hình thái và quy mô vùng biển ven bờ
Khánh Hòa có diện tích tự nhiên là
5.197 km², chiều dài khoảng 150 km, rộng nhất
khoảng 90 km. Địa hình Khánh Hòa có thể chia
thành các đơn vị cơ bản: vùng núi, đồng bằng,
vùng biển ven bờ và các đảo. Do nằm sát dãy
núi Trường Sơn, diện tích vùng núi là chủ yếu,
đồng bằng rất hẹp, chỉ khoảng 400 km², chưa
đến 1/10 diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Đồng
bằng Khánh Hòa lại bị các dãy núi ăn ngang ra
biển ngăn thành từng ô. Vùng bờ Khánh Hòa
rất rộng (chưa có số liệu diện tích công bố), có
hình thái đa dạng và phức tạp vào loại nhất ven
bờ Việt Nam, với cả một hệ thống vũng vịnh,
đảo, bán đảo, cửa sông, đầm phá và thềm lục
địa hẹp dốc.
Hình thái bờ, bãi biển, các mũi nhô và bán
đảo
Bờ biển Khánh Hòa dài khoảng 385 km
tính theo mép nước. Vùng bờ có đặc điểm là
núi đồi thường xuyên kéo ra sát bờ biển và ăn
lan cả xuống biển. Điều này tạo nên đặc thù về
địa mạo, với sự phát triển khá rộng rãi của các
bờ đá gốc bị mài mòn, tạo nên nhiều mũi nhô
và giữa chúng là các cung bờ lõm với những
bãi cát biển trải dài tạo là những bãi tắm đẹp.
Tuyệt đại đa số các mũi nhô biển và hải đảo
đều được cấu tạo từ đá magma xâm nhập và
phun trào.
Phía bắc vùng bờ là Mũi Đôi và bán đảo
Hòn Gốm, kéo dài ra phía biển gần 20 km, một
trong những bán đảo dài nhất Việt Nam, được
hình thành từ tích tụ Đệ tứ “nối đảo” các thành
đá gốc hệ tầng Nha Trang. Ở phía nam vùng,
bán đảo Cam Ranh dài trên 25 km cũng được
tạo nên do đê cát Cam Hải Đông “nối đảo”
khối núi Cầu Hin ở phía bắc, cấu tạo từ các đá
granit của phức hệ Đèo Cả (γK đc2) và phun
trào axit, trung tính hệ tầng Nha Trang (K nt)
với khối núi Cam Linh, Ao Hồ, Bãi Thông và
Đá Cao cũng cấu tạo từ các đá phức hệ Đèo Cả
ở phía nam. Cam Đông là một trong những đê
cát lớn nhất ở ven bờ miền Trung Việt Nam,
dài trên 20 km, rộng 2 - 6 km và cao trên 10 m,
gồm các thế hệ có tuổi khác nhau từ Pleistocen
muộn (mQ13) ở phía nam, tới Holocen giữa
(mQ22) và muộn (mQ23).
Các mũi nhô che chắn tạo nên các vũng
vịnh ven biển, nổi tiếng là các vịnh Vân Phong,
Nha Trang và Cam Ranh, tạo nên các bãi cát
biển đẹp. Chúng tạo nên bờ biển đa dạng và
phức tạp, không chỉ có giá trị về cảnh quan -
sinh thái, nhiều di sản địa mạo - địa chất quý
giá, mà còn có giá trị ngăn ngừa thiên tai bão
gió, là trạm canh - tháp gác và lợi ích phòng thủ
bờ biển.
Thềm lục địa
Thềm lục địa Khánh Hòa rất hẹp, các
đường đẳng sâu 50 m, 100 m và 200 m chạy
gần song song và sát gần bờ (hình 2) do ảnh
hưởng của hệ đứt gãy sườn dốc Đông Việt
Nam chạy theo kinh tuyến 1100Đ [5]. Địa hình
đáy biển vùng bờ thể hiện tính phân bậc trong
các khoảng độ sâu 0 - 10 m, 10 - 30 m và 30 -
50 m. Địa hình vùng thềm lục địa phản ánh sự
tiếp nối của hình thái địa hình trên đất liền. Các
nhánh núi Trường Sơn dãy Phước Hà Sơn, núi
Hòn Khô và dãy Hoàng Ngưu đâm ngang ra
biển để tạo thành các mũi Hòn Thị, mũi Khe
Gà (Con Rùa) và mũi Đông Ba. Trên thềm lục
Trịnh Thị Minh Trang,
16
địa có bể trầm tích Đệ tam Phú Khánh, là bể có
triển vọng dầu khí. Quá trình tương tác của các
quá trình vật lý khí quyển - đại dương với địa
hình đáy và bờ đã hình thành vùng nước trồi
mạnh ở ngoài khơi nam Khánh Hòa - Bắc Bình
Thuận, hình thành ngư trường có nguồn lợi cao
về cá và thân mềm.
Hình 2. Hình thái thềm lục địa Khánh Hòa
[Nguồn: Chi cục biển và Hải đảo Khánh Hòa]
Hệ thống các cửa sông
Sông ngòi ở Khánh Hòa nhìn chung ngắn và
dốc, với khoảng 40 con sông nhỏ dài từ 10 km
trở lên, tạo thành một mạng lưới khá dài, trong
đó có 2 con sông chính là sông Cái (Nha Trang)
và sông Dinh (Ninh Hòa). Sông Cái Nha Trang
(còn có tên là sông Phú Lộc, sông Cù) là sông
lớn nhất tỉnh, có chiều dài 79 km, diện tích lưu
vực 1.904 km², độ cao trung bình 548 m, độ dốc
trung bình 22,8%, mật độ sông suối
0,82 km/km². Tổng lượng nước sông cả năm
1,79 km3, mùa lũ từ tháng 10 đến tháng 12,
chiếm khoảng 73% lượng dòng chảy cả năm.
Dọc bờ biển, cứ khoảng 5 - 7 km có một
cửa sông. So với vũng vịnh, hệ thống cửa sông
có vai trò khiêm tốn hơn, nhưng cũng có giá trị
rất lớn là cửa mở ra biển, nơi neo trú tránh gió
bão cho tàu thuyền, các khu nuôi tập trung và
còn có giá trị an ninh quốc phòng.
Hệ thống đảo ven bờ
Với khoảng trên 200 hòn đảo ven bờ lớn
nhỏ và diện tích trên 600 km2, Khánh Hòa là
một trong những tỉnh có nhiều đảo ven bờ, chỉ
sau Quảng Ninh, Kiên Giang và Hải Phòng [6].
Ở phía đông và phía nam, vịnh Nha Trang được
giới hạn bằng một vòng cung các đảo. Lớn nhất
là Hòn Tre (còn gọi là Hòn Lớn), diện tích
khoảng 30 km2 (hình 3), nơi có những bãi tắm
đẹp như Bãi Trũ và Bãi Tre. Ðảo Hòn Miếu có
điểm du lịch Trí Nguyên. Ðảo Hòn Mun là khu
lõi của Khu Bảo tồn biển vịnh Nha Trang, được
thành lập đầu tiên ở Việt Nam (hình 4). Ở đây
có những rạn san hô với một quần thể sinh vật
biển còn nguyên sơ, gần như độc nhất vô nhị
không chỉ của Việt Nam mà còn của cả Ðông
Nam Á. Những hòn đảo ven bờ Khánh Hòa,
không chỉ có cảnh quan nổi và ngầm tuyệt đẹp
phục vụ du lịch sinh thái, mà còn đem lại
nguồn lợi lớn yến sào cho tỉnh.
Hình 3. Hòn Tre và khu du lịch Vinpearl
nổi tiếng trên vịnh Nha Trang
[Nguồn: Trần Đức Thạnh]
Đảo Bình Ba diện tích trên 3 km², nằm
trong vịnh Cam Ranh, thuộc xã Cam Bình,
thành phố Cam Ranh (cách Nha Trang 60 km,
cách sân bay 15 km), có 700 hộ dân và khoảng
3.000 dân sinh sống chủ yếu bằng nghề nuôi
tôm hùm và đánh bắt thủy hải sản. Đảo có
nhiều thắng cảnh và bãi biển đẹp: các di tích từ
thời Pháp thuộc: lô cốt, bệ súng thần công,
đường hầm xuyên núi. Hai bãi tắm ngay tại khu
vực đảo: Bãi Nồm, Bãi Chướng. Rất nhiều các
bãi tắm khác xung quanh đảo và các nơi có thể
lặn ngắm san hô: bãi Nhà Cũ, bãi Bồ Đề, bãi
Rạn, Hòn Rùa, Hòn Me ...
Tài nguyên vị thế vùng bờ Khánh Hòa
17
Hình 4. Hòn Mun, cơ sở giám sát và bảo vệ
khu bảo tồn biển vịnh Nha Trang
[Nguồn: Trần Đức Thạnh]
Hòn Ông hay còn có tên gọi khác là Đảo
Cá Voi là một đảo nhỏ nằm trong vịnh Vân
Phong thuộc huyện Vạn Ninh, cách Tp. Nha
Trang gần 100 km. Đảo này được ví như một
thiên đường nghỉ dưỡng ở Nha Trang, một
trong 9 thiên đường nghỉ dưỡng đẹp nhất Biển
Đông được hãng thông tấn CNN giới thiệu. Với
diện tích gần 40.000 ha, nhưng chỉ có 2 ha trên
đảo được sử dụng xây dựng khu nghỉ, phần còn
lại là cánh rừng xanh tươi quanh năm.
Hòn Lao, thường được gọi là Đảo Khỉ nằm
ở đầm Nha Phu, cách thành phố Nha Trang
15 km về phía Bắc, nơi có hơn 1.200 chú khỉ
cực kì năng động và hiếu khách, đặc biệt đã
được huấn luyện nhiều tiết mục hấp dẫn mang
lại nhiều thú vị cho du khách. Đảo Khỉ với
không khí mát mẻ, dòng nước trong xanh luôn là
điểm ưu thích trong các tour du lịch biển với
những ai thích lặn sâu ngắm rạn san hô dưới đáy
biển.
Hệ thống đảo ven bờ Khánh Hòa là một
nguồn tài nguyên vị thế quan trọng không chỉ
đối với phát triển kinh tế, bảo tồn tự nhiên, mà
còn có giá trị phòng thủ rất lớn, nhưng chưa
được điều tra đánh giá chi tiết để phát huy đầy
đủ tiềm năng.
Hệ thống vũng vịnh
Khánh Hòa có 9 vũng vịnh ven bờ, là tỉnh
có nhiều vũng vĩnh nhất cả nước, đứng trên các
tỉnh Quảng Ninh có 6; Phú Yên có 6; Bình
Định có 5; Quảng Ngãi có 4 vũng vịnh ... [7].
Về tổng diện tích, Khánh Hoà có diện tích vũng
vịnh khoảng 801 km2, chỉ sau Quảng Ninh
1597 km2. Hai vịnh tận cùng phía bắc là Vân
Phong (hình 5) và tận cùng phía nam tỉnh là
Cam Ranh (hình 6), thuộc loại có tiềm năng lớn
nhất trong hệ thống vũng vịnh Việt Nam: rộng,
sâu, kín, ít sa bồi và ít bão ... Đầm Nha Phu
trong, bản chất không phải là “đầm phá”
(lagoon) như đầm Thủy Triều, mà chỉ là một
vịnh biển nhỏ bị cạn hóa. Bảng 1 trình bày các
thuộc tính và chỉ số tài nguyên vị thế tự nhiên
của 9 vũng vịnh của Khánh Hòa, trong số đó 3
chỉ số diện tích, độ sâu và chỉ số đóng kín có
giá trị nhất. Chỉ số đóng kín vực nước được xác
định bằng công thức sau [7]:
1
2
SD
WDI
Với: S: diện tích mặt nước; D1: độ sâu cực đại
của vực nước; D2: độ sâu cực đại của cửa;
W: chiều rộng cửa; I là hệ số đóng kín của vũng
vịnh như sau: 0,05 = I < 0,1 vũng vịnh thuộc
nhóm rất hở; 0,1 = I < 0,25 vũng vịnh thuộc
nhóm hở; 0,25 = I < 0,5 vũng vịnh thuộc nhóm
nửa kín; 0,5 = I = 1 vũng vịnh thuộc nhóm gần
kín; I > 1 vũng vịnh thuộc nhóm rất kín.
Hình 5. Khu kinh tế Vân Phong [Nguồn: Cổng
thông tin điện tử tỉnh Khánh Hòa]
Trịnh Thị Minh Trang,
18
Trong số 48 vũng vịnh ven bờ của cả nước,
chỉ có 2 vũng vịnh thuộc loại rất kín (4%) là
vịnh Cửa Lục (I = 1,83, nơi có cảng Cái Lân) và
vịnh Cam Ranh (I = 1,43); 1 vũng vịnh thuộc
loại gần kín (2%) là vịnh Tiên Yên - Hà Cối (I =
0,78); 14 vũng vịnh thuộc loại nửa kín (29%),
trong đó có vịnh Vân Phong và Nha Phu của
Khánh Hòa; 22 vũng vịnh thuộc loại hở (46%)
và 9 vũng vịnh thuộc loại rất hở (19%).
Hình 6. Vịnh Cam Ranh và đầm Thủy Triều tạo nên vùng nước sâu và kín thuận lợi cho phát triển
cảng biển và nuôi trồng thủy sản [Nguồn: Chi cục biển và Hải đảo Khánh Hòa]
Tài nguyên vị thế vùng bờ Khánh Hòa
19
Bảng 1. Đánh giá các chỉ tiêu tài nguyên vị thế địa tự nhiên hệ thống
vũng vịnh ven bờ Khánh Hòa [2, 7, 8]
TT Tên vũng vịnh
Quy mô Độ sâu Mức đóng kín Biên
độ
triều
Cấu
tạo
thạch
học
bờ
Sông đổ vào vũng
vịnh
Diện
tích
(km2)
Kích
cỡ Tb/Max
Phân
loại
Hệ
số I Loại
Không
đáng
kể
Đáng kể
1 Vịnh Bến Gỏi 239,79 Lớn 8/18 Nhỏ 0,25
Nửa
kín Nhỏ Cát
Sông Hậu,
Sông Cạn,
2
Vũng Đầm
Môn - Cổ
Cò
24,52 Nhỏ 15/32 Trung bình 0,48
Nửa
kín Nhỏ
Đá
gốc
Suối
nhỏ
3 Vịnh Vân Phong 161,0
Trung
bình 20/30 Lớn 0,25
Nửa
kín Nhỏ
Đá
gốc
Các sông
suối nhỏ
4 Vũng Cái Bàn 50,48
Trung
bình 17/25 Lớn 0,13 Hở Nhỏ Cát
Các sông
suối nhỏ
5
Vũng Bình
Cang - Nha
Phu
57,81 Trung bình 3-10/18 Nhỏ 0,34
Nửa
kín Nhỏ
Đá
gốc
Một số
sông nhỏ
6 Vịnh Nha Trang 79,82 Lớn 15/28
Trung
bình 0,13 Hở Nhỏ Cát
Sông Cái
và một số
sông nhỏ
7 Vịnh Hòn Tre 10,38 Nhỏ 20/24 Lớn 0,17 Hở Nhỏ
Đá
gốc
Suối
nhỏ
8 Vịnh Cam Ranh 46,77
Trung
bình 10/24 Lớn 1,43
Rất
kín Nhỏ Cát
Sông Trà
Dục, Sông
Cạn,
9 Vịnh Bình Ba 65,61
Trung
bình 25/39
Rất
lớn 0,13 Hở Nhỏ
Đá
gốc
Suối
nhỏ
Đầm ven biển
Thủy Triều (hình 6) là đầm (lagoon) duy
nhất ở vùng bờ tỉnh Khánh Hòa và là một trong
12 đầm phá tiêu biển ven bờ miền Trung [8].
Đầm nằm trong hệ toạ độ địa lý: 11056’00’’B -
12008’00’’B và 109008’00’’Đ - 109016’30’’Đ;
cách thành phố Nha Trang 20 km về phía Nam,
cách trung tâm thành phố Cam Ranh 10 km về
phía bắc. Đầm có diện tích mặt nước 25,5 km2;
dài 16 km rộng 0,25 - 3 km, sâu trung bình
1,5 m và sâu nhất 6 m. Đầm có 1 cửa, dài 1 km,
rộng 1 km, sâu 4 m thông với vịnh Cam Ranh.
Đây là thủy vực có cấu trúc kiểu gần kín, nước
lợ và mặn; có suối Thương chảy vào từ phía tây
bắc và một số suối nhỏ khác từ phía tây. Đầm
Thủy Triều là một “bộ phận” của vịnh Cam
Ranh nhưng có cấu trúc, lịch sử hình thành và
đặc trưng khối nước của một lagoon, được tạo
nên đê cát Cam Hải Đông “nối đảo” khối núi
Cù Hin và khối núi Ao Hồ. Bờ tây đầm là các
thành tạo trầm tích biển tuổi Pleistocen giữa -
muộn (mQ1), Pleistocen muộn (mQ13), Holocen
giữa (mQ22) và trầm tích sông biển Holocen
muộn (amQ23). Bờ Bắc đầm là các đá phun trào
axit và trung tính của hệ tầng Nha Trang (K nt).
Trong số 12 đầm phá tiêu biểu ở ven bờ
miền Trung, đây là đầm duy nhất không thông
nối trực tiếp với biển, mà thông nối với vịnh
biển. Do vậy, nó có tính ổn định cao về hình thể
và đặc tính khối nước, không bị đe dọa về khả
năng bồi lấp cửa hoặc ngọt hóa đột ngột, nên rất
phù hợp với nuôi trồng thủy sản bền vững.
Động lực và tính ổn định đảm bảo đầu tư an
toàn và bền vững
Cấu tạo địa chất vùng bờ Khánh Hòa chủ
yếu là đá magma xâm nhập granit thuộc phức
hệ Định Quán - Đèo Cả (γK đc2) và các trầm
tích phun trào riolit, đaxit thuộc hệ tầng Nha
Trang (K nt) tuổi Kreta [5]. Ngoài ra còn có các
loại đá cát, đá trầm tích ở một số nơi. Về cấu
trúc kiến tạo, phần đất của Khánh Hòa đã được
hình thành từ rất sớm, là một bộ phận thuộc rìa
phía đông - nam của địa khối cổ Kon Tum,
được nổi cao khỏi mặt nước biển từ đại Cổ
sinh, cách đây khoảng 570 triệu năm. Quá trình
phong hóa vật lý, hóa học diễn ra trên nền đá
granit, riolit đã tạo thành những hình dáng độc
đáo, rất đa dạng, phong phú, góp phần làm cho
thiên nhiên vùng biển đảo ven bờ Khánh Hòa
có nhiều cảnh đẹp nổi tiếng.
Trịnh Thị Minh Trang,
20
Bờ và bãi cát biển nhiều điểm có biểu hiện
xói lở nhưng không quá lớn như nhiều nơi khác.
Vùng bờ Khánh Hòa cũng là nơi ít bão, nếu có
thường bão không lớn như các tỉnh phía bắc. Số
lượng bão và áp thấp nhiệt đới trong vòng 50
năm (1945 - 2005) tính chung cho cả khu vực
Khánh Hòa - Phú Yên là 59 cơn, ít hơn hẳn so
với 94 cơn ở khu vực phía bắc giáp kề là Đà
Nẵng - Bình Định [9]. Riêng Khánh Hòa, bão đổ
bộ khoảng 0,82 cơn bão/năm so với 3,74 cơn
bão/năm đổ bộ vào bờ biển nước ta. Vùng biển
Nam Trung Bộ có hoạt động kiến tạo trẻ khá
mạnh, gần đây nhất có trận động đất Phan Thiết
- Vũng Tàu 5,3 độ Richter ở gần Khánh Hòa.
Đây cũng là vùng có những cảnh báo đáng lưu ý
về khả năng ảnh hưởng của sóng thần, mặc dù
chưa có những khắng định nào chắc chắn về tài
liệu khoa học hay lịch sử [10].
TÀI NGUYÊN VỊ THẾ ĐỊA KINH TẾ
VÙNG BIỂN VEN BỜ KHÁNH HÒA
Vị thế thuận lợi cho khai thác tài nguyên
biển xa
Vùng bờ Khánh Hòa cùng với đới bờ Nam
Trung Bộ tạo một vòng cung lồi về phía trung
tâm Biển Đông, có một hệ thống đảo ven bờ
khá phát triển, lại có chỗ dựa phía biển khơi là
quần đảo - huyện đảo Trường Sa. Đó là điều
kiện rất thuận lợi xây dựng hậu cứ cho khai
thác tài nguyên biển khơi xa, trước hết là hải
sản, sản lượng khai thác hải sản ước đạt 82,3
nghìn tấn năm 2013, tăng 2,7% so với năm
2012. Sản lượng nuôi trồng thủy sản năm 2013
ước đạt 13,7 nghìn tấn, tương đương năm 2012
(99,7%).
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
vừa ra Quyết định số: 1044/QĐ-BNN-TCTS
ngày 14/5/2014 về việc công bố danh sách các
khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá. Theo
quyết định có 35 khu thuộc 17 tỉnh thành ven
biển. Tại Khánh Hòa, có khu Ninh Hải, thuộc
Thôn Bình Tây, phường Ninh Hải, thị xã Ninh
Hòa, tọa độ tâm 12034’B - 109013’Đ; độ sâu
vùng nước đậu tàu 2,6 m; chiều dài luồng
766 m với vị trí bắt đầu từ cảng Hòn Khoai
chiều dài luồng 766 m với vị trí bắt đầu từ cảng
Hòn Khoai; sức chứa tàu cá tại vùng nước đậu
tàu 300 chiếc; cỡ loại tàu được vào khu neo đậu
tránh trú bão ≤ 90 CV. Đây là cảng neo đậu,
phục vụ hậu cần nghề cá đầu tiên ở thị xã Ninh
Hòa đáp ứng nhu cầu đi biển của các ngư dân
phường Ninh Hải, Ninh Thủy, Ninh Diêm,
Ninh Phước và các vùng phụ cận.
Vị thế cho xây dựng các cơ sở kinh tế lớn
Vị thế quan trọng của vùng bờ về phát triển
kinh tế kinh tế được thể hiện bởi vai trò của
khu kinh tế Vân Phong, với diện tích
150.000 ha, một trong số 15 khu kinh tế trọng
điểm có quyết định quy hoạch ban đầu (hình 6).
Mặc dù do điều kiện thời điểm, số khu kinh tế
trọng điểm của cả nước rút xuống còn 5 khu,
nhưng khu vực Vân Phong vẫn có một tiềm
năng phát triển lớn trong tương lai không thể
lãng quên, cần đến sự năng động và sáng tạo
của tỉnh Khánh Hòa. Các khu công nghiệp lớn
trong tỉnh như Suối Dầu, Ninh Hòa, Bắc và
Nam Nha Trang, cùng với những cảng biển lớn
đang được đầu tư xây dựng, đã giúp cho Khánh
Hòa trở thành một trong 10 tỉnh thành có tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao nhất nước.
Vị thế cho xây dựng các ngành kinh tế dịch
vụ
Vùng bờ Khánh Hòa hội tụ đầy đủ các điều
kiện cho phát triển các ngành kinh tế dịch vụ,
đặc biệt là giao thông vận tải, hậu cần khai thác
hải sản và du lịch sinh thái biển [11].
Hệ thống cảng biển có tiềm năng phát triển
to lớn nhờ có tài nguyên vị thế địa tự nhiên có
giá trị cao của hệ thống vũng vịnh và vị trí nằm
gần các tuyến đường hàng hải quốc gia và quốc
tế [2, 3]. Trong danh mục phân loại cảng biển
Việt Nam, toàn quốc có 11 cảng biển loại I,
trong đó có cảng Vân Phong của Khánh Hòa.
Về chức năng, Vân Phong là một trong 3 cảng
tổng hợp cửa ngõ quốc tế của cả nước. Đặc
biệt, cảng được đầu tư xây dựng để trở thành
cảng trung chuyển quốc tế lớn của Việt Nam,
với khu bến Đầm Môn cho trung chuyển
container (cho tàu lớn và cực lớn, khoảng 12 -
15 nghìn TEU); khu bến nam vịnh Vân Phong
cho trung chuyển dầu thô và sản phẩm dầu (tàu
40 vạn DWT). Ngoài cảng Vân Phong, Khánh
Hòa còn có cảng Nha Trang - Ba Ngòi, phát
triển theo hướng du lịch, du thuyền. Đó là chưa
kể vịnh Cam Ranh, một cảng vịnh có ưu thế to
lớn về địa - quân sự cấp khu vực.
Hệ thống đô thị ven biển đã được nối tuyến
giữa hai thành phố biển Nha Trang và Cam
Tài nguyên vị thế vùng bờ Khánh Hòa
21
Ranh, trở thành đầu mối giao thông, dịch vụ
khác, là trung tâm phát triển kinh tế biển với
các tuyến trục đường Bắc - Nam và Đông - Tây
(Đà Nẵng, Quy Nhơn, Tuy Hòa, Nha Trang,
Phan Rang và Phan Thiết). Ngoài nâng cấp và
hoàn thiện tuyến đường bộ giáp biển, việc ưu
tiên phát triển các tuyến đường ngang lên Tây
Nguyên và các cửa khẩu phía tây không chỉ ý
nghĩa kinh tế mà vô cùng quan trọng về quốc
phòng trong bối cảnh Biển Đông ngày càng
phức tạp, để có được hậu phương Tây Nguyên
vững chắc. Các tuyến đường ngang không phải
trực tiếp qua sông, mà chỉ phải vượt các đèo,
được tăng thêm vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ
(đèo Ngoạn Mục).
Hình 7. Bãi biển Nha Trang (hình 7a*) và Hòn
Chồng (hình 7b**) [*: Nguồn Nguyễn Thị Nguyệt
Hà, **: Nguồn Nguyễn Thanh Sơn]
Du lịch biển đảo là thế mạnh có được từ
các giá trị tài nguyên vị thế địa kinh tế (cảnh
quan tự nhiên, vị trí) của vùng bờ Khánh Hòa.
Đó là các giá trị về danh lam thắng cảnh, bãi
cát biển, đảo đá, rạn san hô ngầm, với nhiều di
sản có giá trị kỳ quan địa chất - địa mạo và sinh
thái (hình 7), cùng các di tích văn hóa và lịch
sử [2]. Vùng bờ này còn có điều kiện thuận lợi
phát triển dịch vụ hậu cần nghề cá, đồng thời
với các dịch vụ thương mại, hàng hải, cứu hộ
trên biển; cũng như tổ chức các sự kiện văn hóa
- thể thao biển quốc gia và quốc tế. Tại vùng bờ
này, Khu bảo tồn biển vịnh Nha Trang đã được
xây dựng sớm nhất trong hệ thống 16 khu bảo
tồn biển đã được Thủ tướng Chính phủ đã ra
Quyết định số 742/QĐ-TTg phê duyệt quy
hoạch ngày 26/5/2010.
Về vai trò cửa ngõ cho Tây Nguyên và
nam Lào, Campuchia. Vùng có nhiều cơ hội
phát triển, do tiềm năng kinh tế của các địa
phương đó là rất lớn, nhất là về cây công
nghiệp, chăn nuôi đại gia súc và khai khoáng.
Các đô thị - cửa ngõ ven biển đã hình thành.
Vấn đề chủ yếu ở đây là xây dựng các tuyến
đường ngang Đông - Tây, bổ sung và nâng cấp
mạnh mẽ hơn để đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế trong đó có du lịch là nhằm khai thác
tốt vai trò cửa ngõ này.
TÀI NGUYÊN VỊ THẾ ĐỊA CHÍNH TRỊ
VÙNG BIỂN VEN BỜ KHÁNH HÒA
Vai trò bảo vệ đất nước
Tỉnh Khánh Hòa được thành lập từ năm
1832 trên cơ sở của trấn Bình Hòa (1808) và xa
hơn nữa là thành Duyên Khánh (1793) [11].
Tỉnh có 9 huyện, thị xã và thành phố, trong đó
có đô thị loại I - thành phố biển Nha Trang, 4
huyện và thị xã giáp biển và huyện đảo Trường
Sa nằm gữa Biển Đông. Các đơn vị hành chính
giáp biển và hải đảo có số dân là 984.052
người, chiếm 83,8% dân số toàn tỉnh (2013).
Do nằm sát một vòng cung lồi lục địa vươn ra
biển khơi,vùng bờ Khánh Hòa có chức năng
quan trọng và điều kiện rất thuận lợi đối với
phòng thủ, đảm bảo an ninh chủ quyền và lợi
ích quốc gia trên Biển Đông, đặc biệt là đối với
quần đảo Trường Sa về khả năng tiếp ứng hậu
cần và ứng phó với các tình huống khẩn cấp [2,
4]. Nhà nước giao trọng trách cho các tỉnh và
thành phố có tiềm lực phát triển mạnh, đảm
nhận vai trò hậu cứ về cả kinh tế, chính trị và
quốc phòng phụ trách các huyện đảo xa bờ: Hải
Phòng phụ trách huyện Bạch Long Vĩ; Đà
Nẵng phụ trách huyện Hoàng Sa; Khánh Hòa
(thành phố Nha Trang là đô thị loại I) phụ trách
huyện Trường Sa và Bà Rịa - Vũng Tàu phụ
trách huyện Côn Đảo. Không chỉ là hậu cứ
a)
b)
Trịnh Thị Minh Trang,
22
vững chắc, vùng bờ Khánh Hòa còn có vị trí và
khoảng cách thuận lợi để tiếp cận nhanh chóng
với các sự việc và tình huống trên Biển Đông
gần nhất và nhanh nhất.
Đặc điểm của địa hình vùng bờ với cấu tạo
bờ đá gốc chủ yếu là magma, hệ thống vịnh,
đảo, các mũi nhô, đỉnh cao trên đảo và cả trên
bờ giúp vùng bờ Khánh Hòa trở thành đai cảnh
giới và kiểm soát một vùng biển rộng lớn và là
tuyến phòng thủ kiên cố, với các căn cứ hải
quân quan trọng và bảo vệ vững chắc vùng đất
liền và biển khơi.
Tây Nguyên có vai trò địa chính trị và địa
quân sự quan trọng cho cả Đông Dương,vùng
bờ Khánh Hòa là vành đai bảo vệ phía biển cho
Tây Nguyên, đồng thời có Tây Nguyên là hậu
phương rộng lớn và vững chắc. Đó là một mối
quan hệ tương hỗ và gắn kết chặt chẽ giữa Tây
Nguyên và vùng bờ Khánh Hòa về vị thế địa
chính trị.
Vai trò mở rộng lãnh thổ trên biển và của
đất nước
Nhờ có vị trí không gian của các đảo mà
vùng nội thủy của Việt Nam đã được mở rộng
đáng kể và tiếp bên ngoài là vùng lãnh hải và
đặc quyền kinh tế, với nhiều ngư trường tiềm
năng lớn về hải sản và các bể Kainozoi có triển
vọng dầu khí, cũng như tiếp cận với các tuyến
đường hàng hải quốc tế. Theo tuyên bố ngày
12-11-1982 của Chính phủ Việt Nam về tính
đường cơ sở, có 11 điểm cơ sở được chọn,
trong đó có 2 điểm liên quan trực tiếp đến vùng
bờ Khánh Hòa là: Điểm A7 tại đảo Hòn Đôi (N
12039’0 - E 109028’0) thuộc Khánh Hòa và
Điểm A8 tại mũi Đại Lãnh (N 12053’8 - E
109o27’2) thuộc Phú Yên nhưng sát gần vùng
bờ Khánh Hòa (điểm cơ sở duy nhất không
phải là đảo).
Vùng bờ Khánh Hòa là một trong số nơi có
vùng nước nội thủy ở khoảng gần nhất đường
lưỡi bò 9 đoạn (từ ngày 25/6/2014 là 10 đoạn)
phi lý và ngang ngược của Trung Quốc. Những
vấn đề đấu tranh bảo vệ và mở rộng chủ quyền
đòi hỏi phải có những hiểu biết tường tận về vị
thế địa - tự nhiên và vị thế địa - chính trị vùng
biển này.
Vai trò trong quan hệ quốc tế và nâng cao
uy tín quốc gia
Nhờ có các cảng biển lớn, các khu kinh tế
và khu công nghiệp và đầu tư nước ngoài ngày
càng tăng, nhờ là lối ra cho các tuyến hành lang
Đông - Tây gần với các tuyến hàng hải quốc tế
và nằm ở trung tâm Khu vực Đông Nam Á,
trên trục bản lề giữa Đông Dương và Biển
Đông, vùng bờ có vị trí thuận lợi cho phát triển
mở rộng quan hệ quốc tế để nâng cao uy tín của
Việt Nam.
Vùng bờ Khánh Hòa là phần chuyển tiếp
của Đông Nam Á lục địa với Đông Nam Á hải
đảo trải dài trên 1.000 km theo phương bắc -
nam, nên còn có vai trò gắn kết Việt Nam với
các nước trong khu vực thông qua các tuyến
hành lang Đông - Tây và Bắc - Nam, không
những trên bộ mà còn cả trên biển, với các
tuyến hàng hải nối với Philippines, Indonesia,
Malaysia ... Cùng với việc phát triển kinh tế
biển mạnh mẽ trên vùng biển chủ quyền, trong
đó có du lịch biển, đặc biệt trên các huyện đảo
ven bờ và huyện - quần đảo Trường Sa,vùng bờ
Khánh Hòa sẽ có vai trò quan trọng, góp phần
đưa nước ta thành một Quốc gia biển, một
Quốc gia nửa bán đảo - nửa quần đảo, có vị thế
quốc tế xứng đáng [4, 12].
KẾT LUẬN
Vùng bờ Khánh Hòa có tiềm năng to lớn về
tài nguyên vị thế, kể cả ba hợp phần vị thế địa -
tự nhiên, vị thế địa - kinh tế và vị thế địa - chính
trị. Đây là nguồn lực thúc đẩy phát kinh tế dịch
vụ như: hàng hải, du lịch, hậu cần nghề cá, ngân
hàng - tài chính, viễn thông, các khu trung
chuyển, khu kinh tế trọng điểm, phát triển đô thị
ven biển và các hoạt động liên kết vùng miền,
lãnh thổ và lãnh hải ... Đặc biệt, tài nguyên vị
thế vùng bờ Khánh Hòa mang lại lợi ích phòng
thủ, hậu cứ và bàn đạp để mở rộng phạm vi hoạt
động trên Biển Đông, đảm bảo chủ quyền và lợi
ích lợi ích quốc gia trên biển, trong đó có các
quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Vị thế trước đây chưa được coi là tài
nguyên, mà chỉ là “lợi thế so sánh” nên việc sử
dụng tài nguyên này mang tính tự phát và tình
huống, chưa được định dạng, điều tra và đánh
giá có căn cứ khoa học, nên còn hạn chế về
hiệu quả sử dụng. Phụ thuộc vào tài nguyên
truyền thống, ít địa phương ven biển nào, kể cả
Khánh Hòa, có được bộ số liệu điều tra đầy đủ
Tài nguyên vị thế vùng bờ Khánh Hòa
23
và hệ thống về các cửa sông, vũng vịnh, đầm
phá, hải đảo, bán đảo và thềm lục địa ... bao
gồm cả số lượng và chất lượng (hình thể, cấu
trúc, động lực ...) để có các phương án sử dụng
hợp lý và tối ưu. Vì vậy, đã đến lúc phải tiến
hành điều tra, đánh giá dạng tài nguyên này ở
vùng bờ Khánh Hòa, để thay thế cho các tài
nguyên truyền thống ngày càng cạn kiệt, nhằm
tạo ra bước phát triển đột phá về kinh tế - xã
hội biển đảo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Đức Thạnh, Trần Đình Lân, Nguyễn
Hữu Cử, 2009. Tài nguyên vị thế biển Việt
Nam: Định dạng, tiềm năng và định hướng
phát huy giá trị. Khoa học và Công nghệ
biển, 9( Phụ trương 1): 1-17.
2. Trần Đức Thạnh, Lê Đức An, Nguyễn Hữu
Cử, Trần Đình Lân, Nguyễn Văn Quân, Tạ
Hòa Phương, 2012. Biển đảo Việt Nam -
Tài nguyên vị thế và những kỳ quan địa
chất, sinh thái tiêu biểu. Nxb. KHTN &
CN. Hà Nội. 324 tr.
3. Lê Đức An, Trần Đức Thạnh, 2011. Vị thế
Biển Đông. Tuyển tập báo cáo Hội nghị
KH & CN Biển Toàn quốc lần thứ V.
Quyển 3: Địa lý, Địa chất và Địa Vật lý
biẻn. Nxb. KHTN&CN. Hà Nội. Tr. 59-68.
4. Lê Đức An, Trần Đức Thạnh, 2012. Vị thế
Việt Nam. Trong: “Khoa học Địa lý với
phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi
trường biển đảo Việt Nam”. Tuyển tập Hội
nghị Khoa học Địa lý Toàn quốc lần thứ 6.
Huế, 30/9/2012. Nxb. KHTN & CN. Hà
Nội. Tr. 207-214.
5. Trần Văn Trị và Vũ Khúc (chủ biên), 2009.
Địa chất và tài nguyên Việt Nam. Nxb.
KHTN & CN. Hà Nội. 589 tr.
6. Lê Đức An, 2008. Hệ thống đảo ven bờ
Việt Nam - Tài nguyên và phát triển. Nxb.
KHTN & CN. Hà Nội. 199 tr.
7. Trần Đức Thạnh, Nguyễn Hữu Cử, Đỗ
Công Thung, Đặng Ngọc Thanh, 2008.
Vũng vịnh ven bờ biển Việt Nam và tiềm
năng sử dụng. Nxb. KKHTN & CN. Hà
Nội. 295 tr.
8. Trần Đức Thạnh, Nguyễn Chu Hồi, Trần
Đình Lân, Nguyễn Hữu Cử, 1996. Tiềm
năng sử dụng và những vấn đề quản lí đầm
phá ven bờ miền Trung. Hoạt động Khoa
học. Số 9: 4-6.
9. Vũ Thanh Hằng, Ngô Thị Thanh Hương,
Phan Văn Tân, 2010. Đặc điểm hoạt động
của bão ở vùng biển gần bờ Việt Nam giai
đoạn 1945-2007. Tạp chí Khoa học
ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công
nghệ 26, Số 3S (2010): 344‐353.
10. Bùi Công Quế (chủ biên), 2010. Nguy hiểm
động đất và sóng thần ở vùng ven biển Việt
Nam. Nxb. KHTN & CN, Hà Nội. 312 tr.
11. Lê Thông (chủ biên), 2010. Việt Nam - các
tỉnh và thành phố. Khánh Hòa. Nxb. Giáo
dục Việt Nam. Tr. 645-662.
12. Vũ Hồng Lâm, 2008. Tài nguyên địa chính
trị của Việt Nam.
POSITION RESOURCES IN THE COASTAL AREA OF KHANH HOA
PROVINCE: POTENTIAL AND PROSPECTS
Trinh Thi Minh Trang1, Nguyen Thi Nguyet Ha2, Tran Duc Thanh1
1Institute of Marine Environment and Resources-VAST
2Sub-Department of Sea and Islands-Department of Natural
Resources and Environment, Khanh Hoa
ABSTRACT: Coastal area in Khanh Hoa Province belongs to Coastal South Central Region,
where the Vietnam mainland juts out farthest into the west of the East Sea, and has a special
Trịnh Thị Minh Trang,
24
relationship in space with the offshore Spratly islands, the geo-strategic Highlands and economic -
political centre of Ho Chi Minh City. This coastal area is close to the sloping and deep continental
shelf; possesses the diverse landforms and complex spatial structure with the systems of peninsula,
islands, bays, lagoons and river mouths etc. that creates enormous potential for geo-natural
position resources, of which highlights are the values of coastal bays and islands. In the geo-
economic position resources, Khanh Hoa coastal area has great potential to build the base for
exploiting offshore resources, establish large marine economic zones, and develop the economy of
marine services, especially the port - navigation and coastal ecotourism. In the geo-political
position resources, this is one of leading sites for defending and protecting the country from sea,
and ensuring the sovereignty and national interests in the East Sea including the direct
administration of Spratly island district. The detailed investigation and assessment of the position
resources in this coastal area will be an important scientific basis for the sea and island
development in Khanh Hoa province.
Key words: Khanh Hoa province, coastal area, position resources.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4182_22076_1_pb_8821_2079628.pdf