Tại Việt Nam, năm 2008 (sau khi áp
dụng mức thuế mới 65% - tăng 10% so với
mức thuế 55% năm 2007), doanh thu từ
thuế thuốc lá đã tăng hơn 1.000 tỷ đồng so
với năm 2007 (từ 6.500 tỷ VND lên 7.500
tỷ VND) mặc dù tiêu dùng trong năm 2008
giảm khoảng 3% so với 2007. Tuy nhiên
việc tăng thuế chỉ trong một năm duy nhất
không có nhiều tác dụng, vì các năm sau đó
thuế không tăng nên tiêu dùng lại tiếp tục
trở lại xu hướng tăng như trước đó. Năm
2016 (sau khi áp dụng mức thuế mới 70%
- tăng 5% so với mức thuế 65% năm 2015),
thu thuế thuốc lá năm 2016 ước tính tăng
khoảng 4% so với năm 2015. Do mức tăng
thuế nhỏ nên tác động tới tiêu dùng hầu như
không đáng kể13.
Theo ước tính của Ngân hàng Thế
giới, trên phạm vi toàn cầu khi thuế tăng
10% sẽ giúp tăng thu thuế thuốc lá của chính
phủ thêm 7%. Theo tổ chức Y tế thế giới,
chính phủ các nước trên thế giới có thể thu
thêm 141 tỷ đô la Mỹ từ thuế thuốc lá nếu
tăng thuế với mức trung bình là 0,8 USD
mỗi bao14. Ở các quốc gia nơi mà tỷ lệ thuế
trong giá bán lẻ thấp như ở Việt Nam, tăng
thuế thuốc lá thường không dẫn tới một mức
tăng lớn trong giá bán thuốc lá hay mức
giảm mạnh đối với tiêu dùng, nhưng lại sẽ
làm tăng doanh thu từ thuế thuốc lá ở mức
rất đáng kể cho quốc gia đó
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 225 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tại sao cần tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phan Thị Hải*
Phạm Thị Duyên Thảo**
* Bác sỹ, Phó Giám dốc Quỹ phòng, chống tác hại thuốc lá
** TS. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
TẠI SAO CẦN TĂNG THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT
ĐỐI VỚI THUỐC LÁ?
Tóm tắt:
Sử dụng thuốc lá đang gây ra gánh nặng bệnh tật và kinh tế nặng
nề cho Việt Nam. Trong khi xu hướng sử dụng thuốc lá và những
hệ lụy của nó đang không ngừng gia tăng thì thuế và giá thuốc lá ở
Việt Nam lại đang ở mức thấp nhất so với các nước trên thế giới và
trong khu vực, điều này khiến sức mua thuốc lá đang không ngừng
gia tăng. Bài viết này phân tích sự bất cập về thuế và giá thuốc lá,
tính cấp thiết của việc tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá
tại Việt Nam.
Abstract
Tobacco utization is causing a severe and serious burden of
economics and diseases for Vietnam. While harmful effects by
tobacco utization are constantly on an uptrend, the imposible taxes
and tobacco prices in Vietnam are at the lowest level in comparison
to those in a number of countries in the world and in the region,
which leads to the cigarettes purchase is increasing. This article
provides analyisis of the inadequacies of tobacco taxation and
prices in Viet Nam and the urgency of increase of excise taxes
imposed on tobacco in Vietnam.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: thuế thuốc lá, tác hại của
thuốc lá, sức khoẻ cộng đồng
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 17/08/2018
Biên tập : 31/08/2018
Duyệt bài : 04/09/2018
Article Infomation:
Keywords: tobacco taxation; harmful
effects of tobacco; community health
Article History:
Received : 17 Aug. 2018
Edited : 31 Aug. 2018
Approved : 04 Sep. 2018
1. Tiêu dùng thuốc lá cao, tín hiệu báo
động về sức khỏe cộng đồng
Theo điều tra toàn cầu năm 2015
về sử dụng thuốc lá ở người trưởng thành
(trên 15 tuổi) mặc dù tỷ lệ hút thuốc có xu
hướng giảm nhưng với 15,6 triệu người hút
thuốc, Việt Nam hiện đứng thứ 3 trong khu
vực ASEAN và đứng thứ 9 trên thế giới về
số người hút thuốc cao nhất; trung bình cứ
hai nam giới trưởng thành thì có một người
hút thuốc, tỷ lệ hút thuốc ở thanh thiếu niên
(15-24 tuổi) là 24,3%; bên cạnh đó, có 28,5
triệu người không hút thuốc bị tiếp xúc với
khói thuốc thụ động ở nhà và 5,9 triệu người
không hút thuốc bị tiếp xúc với khói thuốc
CHÑNH SAÁCH
36 Số 17(369) T9/2018
thụ động tại nơi làm việc1.
Tại Việt Nam, theo ước tính của Tổ
chức Y tế thế giới (WHO), mỗi năm có trên
40.000 ca tử vong vì các bệnh do thuốc lá
gây ra; con số này sẽ tăng lên thành 70.000
ca/năm vào năm 2030, nếu Việt Nam không
thực hiện ngay các biện pháp phòng chống
tác hại thuốc lá hiệu quả (mà chính sách thuế
và giá đóng góp 60% gảm tiêu dùng thuốc
lá trong tổng số các giải pháp)2. Các bệnh có
nguyên nhân chính từ sử dụng thuốc lá gây
ra tử vong hàng đầu ở Việt Nam là đột quỵ,
mạch vành, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính và
ung thư phổi3.
Vấn đề đáng lo ngại nữa là phần lớn
những người hút thuốc lá Việt Nam bắt đầu
hút thuốc từ khi còn rất trẻ. Năm 2015, theo
điều tra toàn cầu về sử dụng thuốc lá ở người
trưởng thành, có tới 56% người Việt Nam
hút thuốc bắt đầu hút thuốc trước tuổi 20.
Năm 2014, theo điều tra toàn cầu về sử dụng
thuốc lá ở thanh thiếu niên, có tới 17,9 %
nam thanh thiếu niên và 5,4% nữ thanh thiếu
niên ở Việt Nam trong lứa tuổi từ 13 -15 đã
từng sử dụng thuốc lá, trong đó 17% hút
thuốc trước tuổi lên 104. Hệ lụy hút thuốc
lá ở người trẻ tuổi là khả năng nghiện thuốc
khi trưởng thành cao hơn và tác hại đối với
sức khỏe sinh sản và sức khỏe của các thế hệ
sau cũng lớn hơn.
2. Sử dụng thuốc lá gây gánh nặng về kinh
tế cho hộ gia đình và quốc gia
Hút thuốc lá gây ra bệnh tật và tử vong
sớm, vì thế tạo ra gánh nặng về chi phí y tế
đối với gia đình và xã hội. Chi phí y tế do tác
hại của việc hút thuốc lá là tất cả các khoản
chi tiêu hay thu nhập bị mất đi vì bệnh tật do
1 Bộ Y tế, Điều tra toàn cầu về sử dụng thuốc lá ở người trưởng thành ở Việt Nam, 2015.
2 Lyvy DT, Bales S, Lam NT, Nikolayev L. The role of public policies in reducing smoking and deaths caused by
smoking in Vietnam: results from the Vietnam tobacco policy simulation model. Soc Sci Med. 2006; 62(7):1819-1830.
10.1016/j.socscimed.2005.08.043.
3 Bui N Linh, Nguyen TT Nhung, Tran K Long, Vos Theo, Norman Rosana, Nguyen T Huong. Risk factors of burden
of disease: a comparative assessment study for evidence-based health policy making in Vietnam. The Lancet.381:S23.
10.1016/S0140-6736(13)61277-5.
4 Bộ Y tế, Điều tra toàn cầu về sử dụng thuốc lá ở thanh thiếu niên ở Việt Nam, 2014.
5 Phạm Hoàng Anh, Lê Thị Thu. Gánh nặng bệnh tật và chi phí y tế của các bệnh liên quan đến thuốc lá. Tạp chí Nghiên
cứu Lập pháp, số 20 (276) 10/2015.
thuốc lá gây ra. Các khoản chi phí này bao
gồm: chi phí trực tiếp cho điều trị bệnh (viện
phí, chi phí mua thuốc, máu), chi phí trực
tiếp không cho điều trị bệnh (chi phí đi lại,
thuê người chăm sóc, ở trọ) và chi phí
gián tiếp (thu nhập bị mất đi do giảm năng
suất lao động vì nghỉ sớm và tử vong sớm,
do việc chăm sóc người thân bị bệnh). Cho
đến nay, nhiều quốc gia đã tổ chức nghiên
cứu về mức độ bệnh tật và ước tính chi phí
y tế do tác hại của việc hút thuốc đối với gia
đình, đối với hệ thống y tế nói riêng và xã
hội nói chung để từ đó đưa ra các khuyến
nghị về chính sách kiểm soát thuốc lá cũng
như các chính sách chăm sóc sức khỏe quốc
gia. Các nghiên cứu đều có chung kết luận
là: hút thuốc lá tạo ra một gánh nặng rất lớn
cho gia đình và xã hội do tác hại của việc hút
thuốc gây ra. Tổng chi phí y tế do tác hại của
việc hút thuốc chiếm từ 6% đến 15% tổng
chi phí y tế tại các nước phát triển và ở các
nước đang phát triển như Trung Quốc, tỷ lệ
này là 3,1%5.
Tại Việt Nam, theo kết quả nghiên
cứu của nhóm nghiên cứu thuộc Đại học Y
tế công cộng và HealthBridge Canada tại
Việt Nam, tổng chi phí cho điều trị và mất
khả năng lao động vì bệnh tật và tử vong
sớm cho 5 nhóm bệnh bao gồm ung thư
phổi, ung thư đường tiêu hóa hô hấp trên,
bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, đột quỵ và
nhồi máu cơ tim do hút thuốc lá gây ra là
hơn 24.000 tỷ đồng, chiếm 0,97% tổng GDP
của cả nước vào năm 2011, chi phí y tế trực
tiếp cho khám và điều trị nội trú và ngoại trú
là hơn 12.464 tỷ đồng, chi phí do tử vong
sớm vì các bệnh liên quan đến hút thuốc lá
là 9.563 tỷ đồng và tổn thất do mất khả năng
CHÑNH SAÁCH
37Số 17(369) T9/2018
lao động vì bệnh tật liên quan đến thuốc lá là
2.653 tỷ đồng6.
Gánh nặng của khoản chi phí điều trị
nội trú được chia cho ba bên: nhà nước, cơ
quan bảo hiểm và gia đình người bệnh. Chi
phí của Nhà nước và các cơ quan bảo hiểm
chiếm 46% - 67% tổng chi phí tùy theo từng
nhóm bệnh. Tính trung bình ngân sách nhà
nước trả 40% chi phí điều trị nội trú, gia
đình trả 40,8% và 19,2% chi phí điều trị nội
trú là từ bảo hiểm y tế.7
Năm 2015, tổng số tiền nngười dân
Việt Nam bỏ ra mua thuốc lá lên tới 31 nghìn
tỉ đồng (GATS 2015)7. Số tiền này tương
ứng với 2,4 triệu tấn gạo (năm 2015), đủ
nuôi sống 14,3 triệu người trong một năm.
Mặc dù ngành công nghiệp thuốc lá
có những đóng góp cho ngân sách quốc gia
(khoảng 16.000 tỷ đồng năm 2015), nhưng
phần đóng góp của ngành công nghiệp thuốc
lá không đủ để bù đắp những tổn thất kinh tế
và sức khỏe do sử dụng thuốc lá gây ra đối
với các cá nhân, gia đình và xã hội.
Đáng lo ngại là có một tỷ lệ đáng kể
6 Hoang Anh PT, Thu T Le, Ross H, Quynh Anh N, Linh BN, Minh NT. Direct and indirect costs of smoking in Vietnam.
Tob Control. 2016;25(1):96-100. 10.1136/tobaccocontrol-2014-051821.
7 Bộ Y tế, Điều tra toàn cầu về sử dụng thuốc lá ở người trưởng thành ở Việt Nam, 2015.
người nghèo hút thuốc và người nghèo có xu
hướng hút thuốc nhiều hơn người giàu. Theo
điều tra mức sống hộ gia đình năm 2006, tỷ
lệ hút thuốc ở nhóm thu nhập thấp nhất là
54,8% cao hơn so với mức của nhóm thu
nhập cao nhất (43,5%). Hệ lụy của việc sử
dụng thuốc lá ở người nghèo là làm gia tăng
đói nghèo vì:
+ Thứ nhất, sử dụng thuốc lá lấy đi
một phần ngân sách hộ gia đình mà lẽ ra đã
có thể dùng cho những tiêu dùng thiết yếu
như lương thực, thực phẩm, giáo dục, mua
sắm tư liệu sản xuất, là những điều kiện cần
thiết giúp họ giảm nghèo.
+ Thứ hai, người nghèo sử dụng thuốc
lá cũng dễ mắc bệnh hơn do điều kiện dinh
dưỡng và chăm sóc sức khỏe hạn chế. Khi
mắc bệnh, do áp lực kinh tế, họ thường có
xu hướng bỏ qua những dấu hiệu sớm của
bệnh và chỉ quan tâm khi mọi chuyện trở
nên quá muộn. Việc điều trị các bệnh như
ung thư, tim mạch ở giai đoạn muộn thường
có kết quả rất hạn chế, vô cùng tốn kém, và
thường vượt quá khả năng kinh tế của phần
lớn các bệnh nhân nghèo.
CHÑNH SAÁCH
38 Số 17(369) T9/2018
+ Thứ ba, sự suy giảm khả năng lao
động, sự thiếu vắng lực lượng lao động
chính do ốm đau và/hoặc mất sớm khiến cho
thu nhập của các hộ gia đình này ngày càng
suy giảm, gánh nặng cơm áo rơi vào phụ nữ
và trẻ em. Những đứa trẻ trong những gia
đình này sẽ phải bỏ học để để bắt đầu lao
động kiếm sống từ rất sớm và có một vòng
xoay nghèo đói mới lại bắt đầu.
3. Sự bất cập về thuế và giá thuốc lá
Theo luật thuế hiện hành, thuế tiêu thụ
đặc biệt (TTĐB) của thuốc lá bằng 70% giá
xuất xưởng. Tuy nhiên, khi tính theo chuẩn
quốc tế là “tỷ lệ trong giá bán lẻ”, thì tỷ lệ
thuế Việt Nam (bao gồm cả thuế VAT) chỉ
chiếm khoảng 35,6% giá bán lẻ. Tỷ lệ này
thấp hơn rất nhiều so với trung bình thế giới
(56%) và so với đa số các nước ASEAN (Thái
Lan 73%, Singapore 66%, Philippines 63%,
Brunei 61,7%). Chính vì thuế thấp nên giá
thuốc lá ở Việt Nam cũng thuộc loại rẻ nhất
so với các nước trên thế giới và trong khu
vực. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới
năm 2017, giá trung bình một bao Malboro
20 điếu ở Việt Nam chỉ khoảng 1,1 USD,
chỉ cao hơn một chút so với Campuchia (~ 1
USD) và thấp hơn so với tất cả các nước còn
lại trong khu vực ASEAN.
Trong khi xu hướng sử dụng thuốc lá
và những hệ lụy của nó đang không ngừng
gia tăng thì giá thực của thuốc lá lại đang có
xu hưởng giảm đi.
Mặc dù giá bán lẻ của thuốc lá có tăng
theo thời gian nhưng thu nhập của người dân
đang gia tăng nhanh hơn. Nếu lấy mốc là năm
2005 thì trong giai đoạn 2015 - 2016, trong
khi thu nhập theo đầu người tăng gấp 4,7 lần
thì giá thuốc lá chỉ tăng 2,2 lần (số liệu của
Tổng cục Thống kê và Báo cáo của WHO).
Phân tích sức mua thuốc lá bằng chỉ số
“Giá thuốc lá tính theo phần trăm thu nhập
quốc dân trên đầu người”, hay nói cách khác
là tỷ lệ phần trăm thu nhập cần thiết để mua
được 100 bao thuốc lá (20 điếu) cho thấy,
nếu như năm 2005 người dân phải bỏ 9%
thu nhập để mua 100 bao thuốc lá Vinataba,
nhưng đến năm 2016 người dân chỉ còn phải
bỏ ra 4,3% thu nhập là có thể mua được 100
bao thuốc lá Vinataba. Điều này cho thấy giá
thuốc lá đang rẻ đi so với thu nhập trong khi
sức mua thuốc lá của người Việt Nam vẫn
đang trên đà gia tăng.
Nguồn: WHO Global Tobacco Control Report 2017
CHÑNH SAÁCH
39Số 17(369) T9/2018
4. Tăng thuế thuốc lá: Biện pháp hiệu quả
nhất giảm tiêu dùng và tăng thu ngân sách
Do những tác hại khôn lường của việc
hút thuốc lá đối với sức khỏe con người, các
quốc gia trong đó có Việt Nam đã và đang
tích cực thực hiện các biện pháp phòng,
chống tác hại của thuốc lá. Trong số các biện
pháp này, tăng thuế đối với thuốc lá là biện
pháp hiệu quả giúp giảm tiêu dùng thuốc lá
và mang lại nhiều lợi ích khác không chỉ cho
Nguồn: Số liệu từ Tổng cục Thống kê và các Báo cáo toàn cầu của
WHO về kiểm soát thuốc lá
Biểu đồ 4: Giá bán lẻ thuốc lá và thu nhập đầu người tại Việt Nam 2005-2016
Nguồn: WHO. Báo cáo Kiểm soát Thuốc lá Toàn cầu 2015
Biểu đồ 3: Giá một bao thuốc lá nhãn phổ biến nhất, tính theo đô la quốc tế
Việt Nam so với các nước khu vực Tây Thái Bình Dương 2014
CHÑNH SAÁCH
40 Số 17(369) T9/2018
người hút, cho gia đình họ mà còn cho toàn
xã hội. Tăng thuế thuốc lá có hai lợi ích cơ
bản:: (1) làm giảm sử dụng thuốc lá, giảm chi
phí khám chữa bênh do sử dụng thuốc lá, qua
đó giảm bệnh tật, tử vong và gánh nặng kinh
tế do việc sử dụng thuốc lá; (2) tăng thu cho
ngân sách nhà nước. Chính vì vậy, tăng thuế
được gọi là biện pháp có lợi đôi đường: lợi
cho sức khỏe người dân và lợi cho Nhà nước.
Tăng thuế làm giảm tiêu dùng
thuốc lá, ngăn ngừa thanh thiếu niên bắt
đầu hút thuốc
Bằng chứng từ các nước cho thấy, việc
tăng thuế và giá thuốc lá có tác động mạnh
đến giảm nhu cầu. Thuế cao hơn sẽ được
chuyển hóa vào giá và làm tăng giá thuốc lá.
Người tiêu dùng phản ứng với sự tăng giá
bằng cách bỏ thuốc, hoặc giảm số lượng điếu
hút. Đối với một bộ phận dân cư, giá thuốc
cao hơn sẽ giúp họ không bắt đầu hút thuốc.
Theo Ngân hàng Thế giới (năm 2003), trung
bình giá một bao thuốc lá tăng 10% sẽ làm
8 Bộ Y tế, WHO, HealthBridge, Hỏi đáp về thuế thuốc lá tại Việt Nam, 2018.
9 World Bank. Curbing The Tobacco Epidemic: Governments and the Economics of Tobacco Control. Washington DC:
World Bank; 1999.
giảm nhu cầu sử dụng thuốc lá 4% tại các
nước có thu nhập cao và 8% tại các nước
nước có thu nhập trung bình và thấp. Tại
Việt Nam theo ước tính, giá thuốc tăng 10%
sẽ làm giảm tiêu dùng thuốc lá 5%8.
Biện pháp tăng thuế rất có hiệu quả
với nhóm thanh thiếu niên. Theo ước tính,
khi giá thuốc lá tăng 10% thì sẽ giảm sử
dụng thuốc lá khoảng 10% hoặc nhiều hơn
ở nhóm trẻ tuổi (tác động mạnh hơn so vói
nhóm trưởng thành)9.
Một số liệu điều tra ở Mỹ cho thấy,
tỷ lệ hút thuốc trong nhóm học sinh lớp 12
giảm tương ứng với mức tăng giá thuốc lá
qua các năm (Hình 4).
Tăng thuế thuốc lá làm tăng nguồn
thu cho ngân sách nhà nước
Số thu từ thuế thuốc lá đối với ngân
sách nhà nước phụ thuộc vào hai yếu tố, đó
là tỷ lệ thuế/mức thuế suất và mức độ co giãn
của cầu theo giá thuốc lá. Nếu mức thuế suất
Nguồn: United states National Caner Institute & WHO. 2016
Hình 4: Xu hướng giá thuốc lá và tỷ lệ hút thuốc ở học sinh lớp 12, Hoa Kỳ,
1991-2014
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
41Số 17(369) T9/2018
càng cao sẽ làm giá thuốc lá tăng và số thu
thuế trên mỗi bao tăng. Bên cạnh đó, tăng
thuế sẽ có tác động làm tăng giá bán lẻ và
giảm lượng tiêu dùng thuốc lá, nên thay đổi
trong số thu ngân sách sẽ bằng tỷ lệ tăng của
thuế và giá trừ đi tỷ lệ giảm của sản lượng.
Việc tăng thuế thuốc lá sẽ làm tiêu
dùng thuốc lá giảm đi, tuy nhiên doanh thu
thuế vẫn tăng vì lý do sau:
- Thuốc lá là loại hàng hoá có tính gây
nghiện nên tốc độ giảm tiêu dùng sẽ chậm
hơn so với tốc độ tăng giá.
- Do sự gia tăng dân số nên ngay cả
khi tỷ lệ hút thuốc giảm vẫn luôn có một số
người mới gia nhập thị trường và tổng số
người hút sẽ giảm nhưng rất chậm.
Ở Thổ Nhĩ Kỳ, năm 2010, do dân số
tăng, nên ngay cả khi tỷ lệ hút thuốc giảm
vẫn luôn có một số người mới gia nhập thị
trường, do đó, tổng số người hút giảm nhưng
rất chậm. Khi tăng thuế, đã làm tăng giá
thuốc lá mạnh hơn, giá thuốc lá bán đến tay
người dùng tăng khoảng hơn gấp đôi. Kết
quả, doanh thu thuế thuốc lá của Chính phủ
tăng khoảng hơn 40% từ 11 tỷ TL năm 2009
lên thành 15,9 tỷ TL năm 2011. Trong khi
tiêu dùng thuốc lá giảm đáng kể, từ 5,3 tỷ bao
năm 2009 xuống còn 4,5 tỷ bao năm 201110.
Ở Nam Phi, trong giai đoạn 1991-2012
thuế thuốc lá (sau khi đã trừ lạm phát) đã
tăng từ mức 2 Rands (1USD = 12,7 Rands)
lên mức 10 Rands mỗi bao. Kết quả là thu
thuế thuốc lá đã tăng từ 3 tỷ Rands lên gần
12 tỷ Rands trong cùng giai đoạn11.
Ở Thái Lan, từ năm 1993-2015, thuế
thuốc lá đã tăng từ 55% lên 87% giá bán
buôn đã có thuế (tương đương mức tăng
từ 120% giá xuất xưởng lên thành 670%
giá xuất xưởng như cách tính thuế của
Việt Nam). Kết quả, thu ngân sách từ thuế
10 Bộ Y tế, WHO, HealthBridge, tlđd, 2018.
11 Bộ Y tế, WHO, HealthBridge, tlđd, 2018.
12 Bộ Y tế, WHO, HealthBridge, tlđd, 2018.
13 Bộ Y tế, WHO, HealthBridge, tlđd, 2018.
14 World Health Organization. World No Tobacco Day 2017 brochure: "Tobacco threatens us all: protect health, reduce
poverty and promote development". 2017.
thuốc lá tăng gấp 4 lần (từ 500 triệu USD
năm 1993 lên 2,1 tỷ USD năm 2015, tỷ lệ
hút thuốc chung giảm từ 32% (năm 1991)
xuống còn 19,9% (năm 2015), trong khi sản
lượng thuốc lá không thay đổi nhiều, dao
động quanh con số 2 tỷ bao mỗi năm12.
Tại Việt Nam, năm 2008 (sau khi áp
dụng mức thuế mới 65% - tăng 10% so với
mức thuế 55% năm 2007), doanh thu từ
thuế thuốc lá đã tăng hơn 1.000 tỷ đồng so
với năm 2007 (từ 6.500 tỷ VND lên 7.500
tỷ VND) mặc dù tiêu dùng trong năm 2008
giảm khoảng 3% so với 2007. Tuy nhiên
việc tăng thuế chỉ trong một năm duy nhất
không có nhiều tác dụng, vì các năm sau đó
thuế không tăng nên tiêu dùng lại tiếp tục
trở lại xu hướng tăng như trước đó. Năm
2016 (sau khi áp dụng mức thuế mới 70%
- tăng 5% so với mức thuế 65% năm 2015),
thu thuế thuốc lá năm 2016 ước tính tăng
khoảng 4% so với năm 2015. Do mức tăng
thuế nhỏ nên tác động tới tiêu dùng hầu như
không đáng kể13.
Theo ước tính của Ngân hàng Thế
giới, trên phạm vi toàn cầu khi thuế tăng
10% sẽ giúp tăng thu thuế thuốc lá của chính
phủ thêm 7%. Theo tổ chức Y tế thế giới,
chính phủ các nước trên thế giới có thể thu
thêm 141 tỷ đô la Mỹ từ thuế thuốc lá nếu
tăng thuế với mức trung bình là 0,8 USD
mỗi bao14. Ở các quốc gia nơi mà tỷ lệ thuế
trong giá bán lẻ thấp như ở Việt Nam, tăng
thuế thuốc lá thường không dẫn tới một mức
tăng lớn trong giá bán thuốc lá hay mức
giảm mạnh đối với tiêu dùng, nhưng lại sẽ
làm tăng doanh thu từ thuế thuốc lá ở mức
rất đáng kể cho quốc gia đó■
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
42 Số 17(369) T9/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tai_sao_can_tang_thue_tieu_thu_dac_biet_doi_voi_thuoc_la.pdf