Từ kết quả nghiên cứu trên đã cho phép rút
ra một số kết luận sau đây:
Thứ nhất, hầu hết du khách nội địa đều sẵn
lòng trả một khoản tiền từ việc đóng góp thêm
vào giá thuê phòng tại khách sạn ở Nha Trang.
Số tiền mà du khách nội địa sẵn sàng đóng góp
cho một ngày đêm nghỉ tại khách sạn là 19.561
đồng/nguời/ngày đêm. Tổng số tiền mà chỉ tính
riêng du khách nội địa sẵn lòng trả cho quỹ môi
trường của vịnh Nha Trang là trên 52,719 tỷ
đồng vào thời điểm năm 2007. Do vậy, có thể
đề nghị với chính quyền địa phương, Ban quản
lý khu bảo tồn biển vịnh Nha Trang nên sử dụng
chính sách thuế, hoặc lệ phí đối với du khách
khi sử dụng nguồn tài nguyên của vịnh bằng
cách tính thêm khoản phí vào tiền thuê phòng ở
khách sạn tại Nha Trang. Đây cũng chính là một
trong những vấn đề cốt yếu trong việc giải quyết
vấn đề hàng hóa công - hàng hóa chất lượng
môi trường.
Thứ hai, từ kết quả mô hình kinh tế lượng
cho thấy cần có những chính sách để thu hút
và tranh thủ sự ủng hộ đối với những du khách
có thu nhập cao. Do vậy, trong chiến lược phát
triển du lịch của mình, một mặt Nha Trang cần
tập trung đầu tư trở thành trung tâm du lịch lớn
với chất lượng dịch vụ - du lịch dành cho những
người có thu nhập cao, đồng thời cần có những
chính sách khuyến khích những du khách này
sẵn lòng tài trợ nhiều hơn cho các hoạt động
bảo vệ môi trường của vịnh Nha Trang.
Trong điều kiện nền kinh tế càng phát triển
thì người dân càng có điều kiện hơn về thu nhập,
vì vậy mà nhu cầu đi du lịch của người dân ngày
càng nhiều hơn và rất có thể mức giá sẵn lòng
trả của du khách cho quỹ môi trường của vịnh
Nha Trang có thể sẽ thay đổi theo chiều hướng
tích cực hàng năm. Do đó, các nghiên cứu điều
tra mức sẵn lòng trả của du khách nên được
đánh giá định kỳ từ 3 tới 5 năm một lần để xác
định mức phí phụ thu từ du khách tại khách sạn
ở Nha Trang.
Thứ ba, nếu xem xét từ góc độ nào đó
có thể thấy rằng, với ưu điểm của mình Nha
Trang là bảo tàng sinh vật biển “sống” của Việt
Nam vừa thực hiện chức năng giải trí vừa thực
hiện các chức năng về nghiên cứu - giáo dục
môi trường biển. Nên chăng những người làm
chính sách về du lịch cần có những chính sách
quảng bá nhiều hơn ngoài các sản phẩm du lịch
truyền thống mà còn hướng những sản phẩm
và dịch vụ du lịch này phục vụ cho các hoạt
động học tập và nghiên cứu. Điều này sẽ tạo
ra lợi ích không chỉ về mặt tài chính mà còn tác
động tích cực tới ý thức bảo vệ môi trường của
du khách.
Sự đóng góp của du khách, những người
được hưởng lợi trực tiếp từ tài nguyên môi
trường của vịnh sẽ là một nguồn lực tài chính
quan trọng góp phần tài trợ cho các hoạt động
bảo vệ môi trường của vịnh Nha Trang. Do vậy,
các cơ quan quản lý của địa phương có thể đề
ra chính sách cho việc tạo ra một nguồn lực tài
chính từ sự đóng góp tự nguyện của du khách
hoặc có thể đưa ra mức phí sử dụng môi trường
- tài nguyên của Nha Trang
9 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 702 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài trợ cho hoạt động bảo vệ môi trường của vịnh nha trang: Vai trò của khách du lịch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2010
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG v 79
VAÁN ÑEÀ NGHIEÂN CÖÙU
I. MỞ ĐẦU
Sự phát triển của bất kỳ ngành kinh tế nào
cũng gắn liền với những vấn đề về môi trường.
Điều này càng đặc biệt có ý nghĩa đối với sự
phát triển của ngành kinh tế tổng hợp có tính liên
ngành, liên vùng, và xã hội hoá cao như du lịch.
Môi trường được xem là yếu tố quan trọng ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng, tính hấp dẫn
của các sản phẩm du lịch, qua đó ảnh hưởng
đến khả năng thu hút khách, đến sự tồn tại của
hoạt động du lịch. Hoạt động phát triển du lịch
đồng nghĩa với việc gia tăng lượng khách du lịch
TÀI TRỢ CHO HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA VỊNH NHA TRANG:
VAI TRÒ CỦA KHÁCH DU LỊCH
FINANCING ENVIRONMENTAL PROTECTION ACTIVITIES IN NHA TRANG BAY:
THE ROLE OF THE VISITORS
Phạm Hồng Mạnh
Khoa Kinh tế - Đại học Nha Trang
Tóm tắt
Nghiên cứu này nhằm xác định mức sẵn lòng trả trung bình và các yếu tố ảnh hưởng tới xác suất giá
sẵn lòng trả của du khách trong nước. Thông qua đó, đưa ra những gợi ý chính sách đối với cơ quan quản lý
địa phương trong việc tài trợ các hoạt động bảo vệ môi trường cho vịnh Nha Trang. Phương pháp tiếp cận là
hàm thỏa dụng ngẫu nhiên, phương pháp ước lượng giá sẵn lòng trả trung bình (MWTP) của Kaplan-Meier-
Turnbull và mô hình hồi quy logits được sử dụng để phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới xác suất sẵn lòng trả
(WTP) của du khách nội địa cho việc bảo vệ cảnh quan và tài nguyên môi trường của vịnh Nha Trang.
Kết quả nghiên cứu cho thấy du khách sẵn sàng đóng góp một khoản tiền cho một ngày đêm nghỉ tại
khách sạn là 19.561 đồng/nguời/ngày đêm. Tổng số tiền mà du khách sẵn lòng trả cho quỹ môi trường của
vịnh Nha Trang là trên 52,719 tỷ đồng trong năm 2007. Một số yếu tố làm tăng xác suất sẵn lòng trả của du
khách như: độ học vấn, tình trạng hôn nhân (du khách đã lập gia đình) và thu nhập. Ngược lại, các yếu tố tuổi
và giới tính (nam giới) làm giảm xác suất sẵn lòng trả của du khách cho quỹ môi trường của vịnh Nha Trang.
Abstract
This study determines the mean willingness to pay and factors affecting the probability of the
willingness to pay by domestic tourists. Through it, make out the recommendation policies for the local
administrative agency to finance the environmental protection fund for Nha Trang Bay. The approach methods
were the random untility function with estimating mean willingness to pay (MWTP) by Kaplan-Meier-Turnbull.
The logits model has been used to analyze the factors affecting the probability of the willingness to pay (WTP)
of domestic visitors for the Nha Trang Bay’ protection of landscape and environmental resource.
Research results showed that visitors were willing to contribute the environmental protection fund with
the amount of 19.561 VND /visistor/night at the hotel. Total amount for Nha Trang Bay’ environmental fund
that dometic visitors are willing to pay to is the 52,719 billion VND in 2007. Some factors increase the
probability of the willingness to pay by visitors such as: education level, marital status (tourist married) and
income. Conversely, the factors age and gender (men) decrease the probability of the willinness to pay by
visitors for Nha Trang Bay’ environmental fund.
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2010
80 v TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG
tới các địa điểm tham quan du lịch, tăng cường
phát triển cơ sở hạ tầng, dịch vụ và gia tăng nhu
cầu sử dụng tài nguyên, v.v.., từ đó dẫn đến sự
gia tăng áp lực của phát triển du lịch đến môi
trường. Chính vì vậy, bảo vệ tài nguyên và môi
trường du lịch là yêu cầu cấp bách không chỉ đối
với riêng Việt Nam mà còn là thách thức lớn đối
với các quốc gia trên thế giới.
Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu để
đưa ra hệ thống các giải pháp kinh tế - kỹ thuật
góp phần bảo vệ môi trường nói chung và môi
trường du lịch nói riêng. Trong năm 1993 tác
giả Dixon và cộng sự [1] đã sử dụng phương
pháp đánh giá ngẫu nhiên để ước lượng giá sẵn
lòng trả cho công viên bờ biển Bonaire và giá
sẵn lòng trả trung bình được xác định là 27,4
đô la Mỹ hay tác giả Churaitapvong và Jittapatr
Kruavan[2] đã sử dụng phương pháp đánh giá
ngẫu nhiên trong nghiên cứu điển hình về cải
thiện chất lượng nước của sông Chaopraya, Thái
Lan vào năm 2003. Giá sẵn lòng trả của mỗi hộ
gia đình cho việc cải thiện chất lượng nước sông
này được tìm ra là 100,81 bath/ tháng
Tại Việt Nam, cũng đã có một số nghiên cứu
dưới góc độ kinh tế tài nguyên môi trường nhằm
góp phần đưa ra những giải pháp quan trọng
cho hoạt động bảo vệ môi trường như trong năm
2001 Bộ kế hoạch và Đầu tư (MPI), Chương
trình phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) và cơ
quan hợp tác & phát triển Thụy Sỹ (SDC) đã sử
dụng phương pháp phương pháp đánh giá ngẫu
nhiên để xác định giá sẵn lòng trả trung bình để
duy trì hoạt động bảo vệ và phát triển tài nguyên
môi trường của vịnh Hạ Long. Mức giá sẵn lòng
trả trung bình được xác định là 2,32 đô la Mỹ cho
một ngày đêm nghỉ tại khách sạn ở Hạ Long[3].
Một công trình nghiên cứu khác trong năm 2007
do hai tác giả Đặng Lê Hoa & Nguyễn Thị Ý Ly
sử dụng phương pháp đánh giá ngẫu nhiên để
ước lượng giá sẵn lòng trả của các hộ gia đình
tại Thành Phố Hồ Chí Minh về kế hoạch bảo
tồn rừng quốc gia Lò Gò – Xa Mát ở Tây Ninh
là 5.666 đồng [4] Những hộ gia đình này sẵn
lòng trả giá trị trên hàng tháng được tính thêm
vào hóa đơn tiền điện tiêu dùng của các hộ gia
đình này, v.v
Với vịnh Nha Trang là vịnh biển có vai trò
rất quan trọng trong hoạt động phát triển kinh tế
du lịch của Việt Nam. Trong những năm gần đây
vịnh Nha Trang đang đứng trước nhiều thách
thức và khó khăn trong quá trình phát triển kinh
tế và quá trình đô thị hóa của địa phương. Theo
báo cáo1 của Viện hải dương học, chỉ tính từ
năm 1994 đến 2005 độ phủ của san hô sống đã
giảm từ 52,4% xuống 21,2%; tốc độ giảm trung
bình 2,8%/năm. Nếu duy trì mức độ suy giảm
như hiện nay, 30 năm nữa rạn san hô trong vịnh
Nha Trang sẽ không còn. Hòn Tằm và Hòn Miễu
là vùng rạn san hô bị suy thoái trầm trọng nhất và
rong rêu đang bắt đầu phát triển. Nguyên nhân
của tình trạng này là việc khai thác thủy sản
mang tính hủy diệt bằng chất nổ, thuốc độc,v.v
Ngoài ra, các hoạt động du lịch còn gây hại cho
rạn san hô do rác thải từ tàu du lịch, do neo đậu
tàu thuyền, giẫm đạp của du khách khi bơi lặn
và đánh bắt sinh vật rạn,v.v Chính vì thế, môi
trường vịnh Nha Trang vốn được xem là trong
sạch nay tiềm ẩn nhiều nguy cơ suy giảm.
Nếu không tìm ra những giải pháp kinh tế
- kỹ thuật mà trước hết là những nguồn lực tài
chính cần thiết để góp phần tài trợ cho các hoạt
động bảo vệ môi trường của vịnh Nha Trang thì
môi trường của vịnh Nha Trang ngày càng xấu đi
và chắc chắn không chỉ làm suy thoái tài nguyên
môi trường của vịnh Nha Trang mà còn tác động
xấu đến việc cạnh tranh và thu hút du khách của
ngành du lịch Nha Trang - Khánh Hòa.
II - CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Độ thỏa dụng - cơ sở của việc xác
định giá sẵn lòng trả (WTP)
Việc sử dụng ước lượng giá sẵn lòng trả
dựa trên mô hình cơ bản cho việc phân tích
những câu trả lời trong nghiên cứu đánh giá
ngẫu nhiên, xuất phát từ mô hình đánh giá độ
thỏa dụng ngẫu nhiên [5].
Hàm hữu dụng [6] của người trả lời thứ j
được xác định một cách gián tiếp như sau:
1 Báo cáo tham luận tại hội thảo “Vì sự phát triển bền vững
vịnh Nha Trang do UBND tỉnh Khánh Hòa tổ chức nhân
Festival biển Nha Trang tháng 6 năm 2007.
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2010
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG v 81
Uij = Ui (Yj, Zj, εij)
Trong đó: Yj là yếu tố thu nhập của người
trả lời thứ j
Zj là yếu tố thể hiện các đặc
điểm kinh tế xã hội của người
trả lời thứ j
εij là yếu tố không quan sát
được về sự ưa thích của
người trả lời
Để mô tả các đặc tính của i có hai giá trị: “0”
và “1”. Giá trị “1” là giá trị sẵn lòng trả và giá trị
‘0” là giá trị không sẵn lòng trả cho cho việc cải
thiện hàng hóa chất lượng môi trường.
Khi có sự thay đổi từ trạng thái “0” tới trạng
thái “1”, những đặc tính khác được đưa vào để
làm thay đổi từ trạng thái này sang trạng thái kia
được gọi là hàng hóa chất lượng môi trường (q)
được thể hiện trong mô hình. Vì vậy, hàm hữu
dụng[9] ở trạng thái “0” và trạng thái “1” được viết
như sau:
U0j = U0 (Yj, Zj, q
0, ε0j)
U1j = U1 (Yj, Zj, q
1, ε1j)
Một câu hỏi sẽ đề nghị người trả lời về mức
sẵn lòng trả của họ cho việc cải thiện chất lượng
môi trường. Họ sẵn lòng trả ở mức Tj và nếu như
chất lượng môi trường thay đổi từ trạng thái “0”
đến trạng thái ‘1”. Nếu câu trả lời là “Có”, điều
này có nghĩa rằng họ sẵn lòng trả và độ thỏa
dụng của họ có thể cao hơn trạng thái “0” hoặc
ở trạng thái “1”.
U1j (Yj - Tj, Zj, ε1j) > U0j (Yj, Zj, ε0j) [7]
Khả năng để du khách trả lời là “Có” là khả
năng mà người được phỏng vấn nghĩ rằng họ có
thể sẽ tốt nhất ở trạng thái “1”, mặc dù họ chỉ trả
ở trạng thái Tj
Pr(Cój) = Pr(U1j (Yj - Tj, Zj, ε1j) > U0j (Yj, Zj, ε0j)) [8]
Biến đổi một cách đơn giản, hàm hữu dụng
được viết dưới dạng:
Pr(Cój) = Pr[V1j(Yj - Tj, Zj) + ε1j > V0j(Yj, Zj) + ε0j] [9]
Hàm hữu dụng này là một hàm tuyến tính
và có thể được viết dưới dạng:
V1j(Yj - Tj) = α1Zj + β1(Yj - Tj)
V0j(Yj) = α0Zj + β0Yj
V1j - V0j = (α1 - α0)Zj + β1(Yj - Tj) - β0Yj
Với giả thiết rằng hữu dụng biên của thu
nhập là một hằng số nằm giữa trạng thái “0” và
trạng thái “1” β1 bằng với β0 [13] nên có thể viết
lại hàm như sau:
V1j - V0j = (α1 - α0)Zj - βTj
Đặt α = (α1 - α0) , do đó:
V1j - V0j = αZj - βTj
Khả năng để du khách trả lời là “Có” sẽ là:
Pr(Cój) = Pr(αZj - βTj + εj>0) εj = ε1j - ε0j [10]
Theo Kaplan-Meier-Turnbull, để xác định
mức sẵn lòng trả trung bình cần xây dựng các
mức sẵn lòng trả. Giá sẵn lòng trả trung bình
(MWTP) được xác định bằng công thức MWTP
= ∑tj (Pj – Pj+1)
[11]. Trong đó: tj là các mức sẵn
lòng trả và Pj là tỉ lệ trả lời “Có”.
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới sự sẵn lòng trả
Một mô hình hữu dụng ngẫu nhiên với hàm
hữu dụng tuyến tính được sử dụng để xác định
các yếu tố ảnh hưởng tới mức sẵn lòng trả của
du khách. Do vậy, chúng ta sử dụng mô hình hồi
qui logit với hai giá trị trả lời là Có/Không đối với
câu hỏi sẵn lòng trả (biến phụ thuộc). Mô hình
hồi quy logit có dạng sau đây:
e(Yj, Zj,εij)
P (Có
j
) = −−−−−−−−−−
1 + e(Yj, Zj,εij)
Trong đó, các yếu tố: Yj, zj, εij là các biến
được giải thích tại mục 2.1
III - ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là du khách nội địa
khi thực hiện du lịch tại các địa điểm du lịch của
vịnh Nha Trang trong năm 2008. Nghiên cứu đã
tiến hành điều tra 350 du khách đến từ nhiều địa
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2010
82 v TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG
phương khác nhau của Việt Nam được phỏng
vấn bằng một bảng câu hỏi xây dựng sẵn.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định mức giá sẵn lòng trả trung bình
(MWTP) của du khách nội địa bằng phương
pháp Kaplan-Meier-Turnbull.
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến giá sẵn
lòng trả của du khách nội đối với quỹ môi trường
của vịnh Nha Trang, đồng thời xác định mức độ
ảnh hưởng của các yếu tố này đối với giá sẵn
lòng trả của du khách nội địa.
Đề xuất các chính sách nhằm cải thiện chất
lượng môi trường của Vịnh Nha Trang.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Phương pháp xác định giá sẵn lòng trả
trung bình (MWTP)
Để xác định MWTP của du khách cho quỹ
môi trường của vịnh Nha Trang, nghiên cứu này
đã xây dựng sáu mức giá sẵn lòng trả được thiết
lập đó là: t1, t2, t3, t4, t5, t6. Từ phương pháp của
Kaplan-Meier-Turnbull [12] và từ kết quả trả lời
của mẫu điều tra, số lượng mẫu trả lời là “Có” và
tỉ lệ mẫu trả lời “Có” trên tổng số mẫu trả lời là:
P1, P2, P3, P4, P5, P6. được thể hiện qua bảng 1
Bảng 1. Phương pháp của Kaplan-Meier-Turnbull
Mức sẵn lòng trả
(tj)
Số mẫu trả lời
`(n)
Số mẫu trả lời “Có”
(Y)
Tỉ lệ trả lời (Pj)
(Y/n)
t1 P1
t2 P2
t3 P3
t4 P4
t5 P5
t6 P6
(Nguồn: Haab, T.C. and K.E. McConnell)
3.3.2. Phương pháp độ thỏa dụng ngẫu nhiên
và mô hình kinh tế lượng
Phương pháp nghiên cứu dựa trên phương
pháp đánh giá độ thỏa dụng ngẫu nhiên của kinh
tế học. Một mô hình kinh tế lượng nhị thức được
xây dựng để tìm ra những yếu tố kinh tế xã hội
của du khách có tác động thực sự đến giá sẵn
lòng trả cho việc duy trì và tái tạo cảnh quan môi
trường của vịnh Nha Trang. Các biến cụ thể đưa
vào những mô hình kinh tế lượng này được diễn
giải cụ thể dưới đây.
INC – Biến số thu nhập của du khách. Kỳ
vọng nghiên cứu mang dấu dương (+). Theo
kinh nghiệm và kết quả điều tra cùng với những
nghiên cứu khác cho rằng biến số thu nhập sẽ
làm tăng xác suất sẵn lòng trả của du khách.
MR - Là biến giới tính (biến dummy), nhận
giá trị 0 nếu du khách là nữ, nhận giá trị 1 nếu
du khách là nam.
AGE - Biến số tuổi tính từ năm sinh của du
khách.
MAR - Biến tình trạng hôn nhân (là biến
Dummy), nhận giá trị 0 nếu du khách chưa có
gia đình và giá trị 1 nếu du khách đã có gia đình.
EDU - Là biến thể hiện số năm đi học của
du khách. Kỳ vọng mang dấu dương (+). Điều
này có nghĩa là trình độ học vấn của du khách
càng cao càng làm tăng xác suất sẵn lòng trả
cho quỹ môi trường
ε là sai số ngẫu nhiên của hàm hồi qui tổng
thể khi các giả định truyền thống của hàm hồi qui
tổng thể được thoả mãn.
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2010
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG v 83
Do đó, để định lượng ảnh hưởng của một
số biến số kinh tế - xã hội đối với việc du khách
được đánh giá là có sẵn lòng trả hay không, một
mô hình hồi quy logistic đã được thiết lập mà
biến phụ thuộc có giá trị bằng 1 (nếu du khách
sẵn lòng trả) và bằng 0 (cho tất cả những du
khách khác).
Mô hình Binary Logistic cho các Pi được xác
định như sau:
e (β0 + β1INC + β2MR + β3AGE + β4MAR + β5EDU + ε)
P = −−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−
1 + e (β0 + β1INC + β2MR + β3AGE + β4MAR + β5EDU + ε)
IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Nghiên cứu đã tiến hành thu thập thông
tin theo hình thức nêu trên với 350 phiếu được
phỏng vấn, sau khi loại những mẫu không đạt
yêu cầu nghiên cứu, số mẫu chỉ còn 331 mẫu đủ
chất lượng để sử dụng phân tích và sử dụng mô
hình hồi quy logit.
4.1. Ước lượng giá sẵn lòng trả của du khách
nội địa
Kết quả điều tra cho thấy có 18 du khách
không cho biết về mức sẵn lòng trả của mình
cho quỹ môi trường của vịnh Nha Trang. Mức
sẵn lòng trả của du khách ở các mức độ khác
nhau được thể hiện qua bảng dưới đây:
Bảng 2. Mức sẵn lòng trả (WTP) của du khách nội địa
Mức sẵn lòng trả Số lượng trả lời (người)
Tỉ lệ (%)
(%)
Không sẵn lòng trả 18 5,44
5 nghìn đồng 77 23,26
10 nghìn đồng 56 16,92
20 nghìn đồng 80 24,17
30 nghìn đồng 39 11,78
40 nghìn đồng 29 8,76
50 nghìn đồng 32 9,67
Tổng 331 100,0
(Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra)
Từ bảng trên cho thấy, mức sẵn lòng trả phổ biến nhất ở mức 5 nghìn đồng, 10 nghìn đồng và
20 nghìn đồng/người/1 đêm, chiếm tỉ lệ lần lượt là 23,26%, 16,92 và 24,17%. Những du khách sẵn
lòng trả ở mức cao từ 40 đến 50 nghìn đồng/người/1 đêm chỉ chiếm dưới 10%.
Mức sẵn lòng trả của du khách nội địa cho quỹ môi trường của vịnh Nha Trang được tính toán
theo phương pháp Turnbull. Mức sẵn lòng trả trung bình được xác định là 19.561 đồng/người/1 đêm
tại khách sạn.
Bảng 3. Ước lượng giá sẵn lòng trả bằng phương pháp Turnbull
Mức giá sẵn lòng trả (tj)
Số du khách phản
hồi (n)
Số lượng du khách đồng ý
sẵn lòng trả (Y)
Tỉ lệ trả lời “Có” sẵn lòng
trả (Pj) (%)
(Y/n)
5 nghìn đồng 331 313 94,56
10 nghìn đồng 331 236 71,30
20 nghìn đồng 331 180 54,38
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2010
84 v TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG
30 nghìn đồng 331 100 30,21
40 nghìn đồng 331 61 18,43
50 nghìn đồng 331 32 9,67
(Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra của tác giả)
MWTP = ∑tj (Pj – Pj+1) = 19.561 đồng/người/đêm
4.2. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới giá sẵn lòng trả (WTP) của du khách đối với vịnh Nha
Trang
Theo kết quả điều tra từ mẫu điều tra cho thấy có tới 38,4% số lượng du khách được hỏi đều
không thích việc tồn tại nhiều rác thải tại các khu du lịch của vịnh Nha Trang; có khoảng 21% số du
khách không hài lòng về việc bán hàng rong và tranh cãi của những người bán hàng, trong khi đó có
7,6% số du khách không thích về thái độ phục vụ của nhân viên du lịch và khoảng 12% số du khách
không hài lòng về những nguyên nhân khác. Những vấn đề về môi trường du lịch của Nha Trang
được thể hiện qua bảng 4.
Bảng 4. Những vấn đề về môi trường du lịch ở Nha Trang
Những vấn đề Số lượng (Người) Tỉ lệ (%)
Rác thải 127 38,4
Bán hàng rong nhiều 69 20,8
Cãi nhau trên bãi biển 71 21,5
Thái độ phục vụ của nhân viên du lịch 25 7,6
Khác 39 11,8
Tổng 331 100,0
(Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra)
Mục tiêu của ngành du lịch Nha Trang là
không chỉ dựa vào nguồn lực của địa phương
mà còn tranh thủ sự ủng hộ của toàn xã hội,
nhất là du khách trong việc duy trì, tái tạo
tài nguyên môi trường của vịnh Nha Trang.
nghiên cứu đã sử dụng mô hình hồi qui
binary logistis để phân tích các nhân tố tác
động thực sự tới giá sẵn lòng trả và ước lượng
xác suất sẵn lòng trả của du khách. Từ kết quả
hồi quy cho thấy tỉ lệ dự đoán đúng về giá sẵn
lòng trả của du khách nội địa của toàn bộ mô
hình là 94,6% . Điều này có nghĩa rằng có tới
94,6% du khách nội địa sẵn lòng trả một khoàn
tiền cho việc duy trì cảnh quan và bảo vệ môi
trường của vịnh Nha Trang. Như vậy, nếu như
trong năm 2007, chỉ tính riêng du khách nội địa
đến Nha Trang là 925 nghìn du khách với tổng
số ngày lưu trú là 2.847,8 ngày, trung bình một
du khách nội địa lưu trú là 3,08 ngày thì số
tiền mà du khách sẵn lòng trả cho quỹ bảo vệ
môi trường của vịnh Nha Trang sẽ là: 925.000
du khách * 3,08 ngày *94,6% *19.561 đồng/
du khách/ngày đêm = 52.719.907.394 đồng
(52,719 tỷ đồng)
Kết quả cụ thể của mô hình trong trường
hợp này được thể hiện qua bảng 4.
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2010
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG v 85
Bảng 4. Mô hình Binary Logistic về giá sẵn lòng trả (WTP)
Biến phụ thuộc: Giá sẵn lòng trả của
du khách (Sẵn lòng trả = 1, không
sẵn lòng trả = 0)
Hệ số
(bk )
S.E. Wald df Sig. Exp(B)
Nam giới (biến dummy) MR -1,141 0,584 3,825 1 0,050** 0,319
Tuổi AGE -0,033 0,020 2,784 1 0,095* 0,968
Tình trạng hôn nhân MAR 0,931 0,754 1,526 1 0,217 2,538
Trình độ học vấn EDU 0,741 0,573 1,675 1 0,196 2,099
Thu nhập INC 0,001 0,000 6,072 1 0,014** 1,001
Hằng số β0 2,428 0,994 5,963 1 0,015** 11,333
Số quan sát 331
-2 Log likelihood 116,167
(Nguồn: Haab, T.C. and K.E. McConnell)
* Có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 10%
** Có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 5%
Từ kết quả hồi quy cho thấy, bộ dữ liệu đã
thể hiện khá tốt sự phù hợp mô hình của tổng
thể. Hệ số của các biến mang dấu âm có nghĩa
nếu các yếu tố khác không đổi, việc tăng thêm
một đơn vị biến này sẽ làm giảm xác suất sẵn
lòng trả của du khách. Những biến có hệ số
mang giá trị dương là những yếu tố làm tăng xác
suất sẵn lòng trả của du khách nếu tăng thêm
một đơn vị biến này trong điều kiện cố định tất
cả biến còn lại.
- Giới tính: Nếu thay MR = 0 cho được mô
hình cho nữ giới và MR = 1 cho được kết quả mô
hình dành cho nam giới.
Biến nam giới trong hàm hồi quy mang dấu
âm. Điều này hàm ý rằng nữ giới sẵn lòng trả
một khoản lệ phí cho quỹ môi trường của vịnh
Nha Trang cao hơn nam giới. Vấn đề này có thể
được hiểu là nữ giới thường có trách nhiệm về
các vấn đề của cộng đồng và xã hội cao hơn
nam giới, nên họ thường tự nguyện thực hiện
hơn và sẽ tích cực hơn trong việc đóng góp và
thực hiện nghĩa vụ của mình.
- Tuổi của du khách: Trong mô hình của hồi
quy trên, biến tuổi mang dấu âm. Điều này ám
chỉ rằng nếu các yếu tố khác không đổi, việc
tăng thêm một đơn vị biến tuổi sẽ làm giảm xác
suất sẵn lòng trả của du khách ở mức ý nghĩa
10% trong giới hạn biến thiên độ tuổi từ 18 đến
65. Vấn đề này có thể được giải thích là những
người lớn tuổi thường quan tâm tới các vấn đề
ở hiện tại nhiều hơn mà ít hoặc không quan tâm
nhiều tới những vấn đề trong tương lai.
- Tình trạng hôn nhân: Kết quả hồi quy cũng
cho thấy tình trạng hôn nhân của du khách nội
địa có dấu dương. Xác suất để những người đã
có gia đình sẵn lòng chi trả cho quỹ môi trường
của vịnh Nha Trang là cao hơn so với những
người chưa có gia đình. Điều này dễ thấy rằng,
những người đã có gia đình khi đi du lịch đa phần
là những người có thu nhập khá và ổn định, họ
dễ dàng bỏ ra một khoản tiền để được hưởng
chất lượng môi trường du lịch tốt hơn ở hiện tại
hoặc có giá trị sử dụng hàng hóa chất lượng môi
trường tốt hơn trong tương lai.
Tuy nhiên, yếu tố này không có ý nghĩa
thống kê ở cả hai mức ý nghĩa 5% và 10%.
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2010
86 v TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG
- Trình độ học vấn: Trình độ học vấn cũng
có dấu như dự đoán (dấu dương). Điều này cho
thấy rằng, xác suất để những du khách có trình
độ học vấn cao sẵn lòng đóng góp cho quỹ môi
trường của vịnh Nha Trang là cao hơn. Điều này
có thể từ quá trình điều tra chọn mẫu (thông
thường những du khách có trình độ học vấn
cao hơn thì việc hoàn thành các câu hỏi tốt hơn,
những du khách có trình độ học vấn thấp đã
không hoàn thành một cách đầy đủ nên những
bộ câu hỏi này đã bị loại ra ngay). Mặt khác,
những người có trình độ học vấn cao thường là
những người được giáo dục một cách bài bản.
Do vậy, họ có ý thức hơn trong việc bảo vệ môi
trường – cái mà họ sẽ mong muốn được hưởng
trong tương lai.
- Thu nhập: Kết quả hồi quy cho thấy, thu
nhập trong mô hình cũng cho dấu như mong đợi
(dấu dương) và có ý nghĩa thống kê ở mức ý
nghĩa 5%. Kết quả này cho thấy rằng xác suất để
du khách sẵn lòng trả cho quỹ môi trường vịnh
Nha Trang là cao hơn nếu như thu nhập của họ
càng cao trong điều kiện các yếu tố khác không
đổi. Điều này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết
kinh tế đó là khi thu nhập cao hơn, người tiêu
dùng sẵn lòng chi tiêu cho hàng hóa nhiều hơn,
trong đó có hàng hóa chất lượng môi trường.
V. KẾT LUẬN KHUYẾN NGHỊ
Từ kết quả nghiên cứu trên đã cho phép rút
ra một số kết luận sau đây:
Thứ nhất, hầu hết du khách nội địa đều sẵn
lòng trả một khoản tiền từ việc đóng góp thêm
vào giá thuê phòng tại khách sạn ở Nha Trang.
Số tiền mà du khách nội địa sẵn sàng đóng góp
cho một ngày đêm nghỉ tại khách sạn là 19.561
đồng/nguời/ngày đêm. Tổng số tiền mà chỉ tính
riêng du khách nội địa sẵn lòng trả cho quỹ môi
trường của vịnh Nha Trang là trên 52,719 tỷ
đồng vào thời điểm năm 2007. Do vậy, có thể
đề nghị với chính quyền địa phương, Ban quản
lý khu bảo tồn biển vịnh Nha Trang nên sử dụng
chính sách thuế, hoặc lệ phí đối với du khách
khi sử dụng nguồn tài nguyên của vịnh bằng
cách tính thêm khoản phí vào tiền thuê phòng ở
khách sạn tại Nha Trang. Đây cũng chính là một
trong những vấn đề cốt yếu trong việc giải quyết
vấn đề hàng hóa công - hàng hóa chất lượng
môi trường.
Thứ hai, từ kết quả mô hình kinh tế lượng
cho thấy cần có những chính sách để thu hút
và tranh thủ sự ủng hộ đối với những du khách
có thu nhập cao. Do vậy, trong chiến lược phát
triển du lịch của mình, một mặt Nha Trang cần
tập trung đầu tư trở thành trung tâm du lịch lớn
với chất lượng dịch vụ - du lịch dành cho những
người có thu nhập cao, đồng thời cần có những
chính sách khuyến khích những du khách này
sẵn lòng tài trợ nhiều hơn cho các hoạt động
bảo vệ môi trường của vịnh Nha Trang.
Trong điều kiện nền kinh tế càng phát triển
thì người dân càng có điều kiện hơn về thu nhập,
vì vậy mà nhu cầu đi du lịch của người dân ngày
càng nhiều hơn và rất có thể mức giá sẵn lòng
trả của du khách cho quỹ môi trường của vịnh
Nha Trang có thể sẽ thay đổi theo chiều hướng
tích cực hàng năm. Do đó, các nghiên cứu điều
tra mức sẵn lòng trả của du khách nên được
đánh giá định kỳ từ 3 tới 5 năm một lần để xác
định mức phí phụ thu từ du khách tại khách sạn
ở Nha Trang.
Thứ ba, nếu xem xét từ góc độ nào đó
có thể thấy rằng, với ưu điểm của mình Nha
Trang là bảo tàng sinh vật biển “sống” của Việt
Nam vừa thực hiện chức năng giải trí vừa thực
hiện các chức năng về nghiên cứu - giáo dục
môi trường biển. Nên chăng những người làm
chính sách về du lịch cần có những chính sách
quảng bá nhiều hơn ngoài các sản phẩm du lịch
truyền thống mà còn hướng những sản phẩm
và dịch vụ du lịch này phục vụ cho các hoạt
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2010
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG v 87
động học tập và nghiên cứu. Điều này sẽ tạo
ra lợi ích không chỉ về mặt tài chính mà còn tác
động tích cực tới ý thức bảo vệ môi trường của
du khách.
Sự đóng góp của du khách, những người
được hưởng lợi trực tiếp từ tài nguyên môi
trường của vịnh sẽ là một nguồn lực tài chính
quan trọng góp phần tài trợ cho các hoạt động
bảo vệ môi trường của vịnh Nha Trang. Do vậy,
các cơ quan quản lý của địa phương có thể đề
ra chính sách cho việc tạo ra một nguồn lực tài
chính từ sự đóng góp tự nguyện của du khách
hoặc có thể đưa ra mức phí sử dụng môi trường
- tài nguyên của Nha Trang.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. [1]. John A Dixon, Louis Fallon Scura, Richard A Carpenter and Paul B Sherman. 1994. Economic
analysis of Environmental Impact, Earthscan Publications Ltd, chap 5, p. 63 - 83.
2. [2]. Churaitapvong và Jittapatr Kruavan. 2003. A Contigent Valueation Study of the Chao Phraya river,
Economy & Environment Program for Southeat Asia, reseach reports 2004.
3. [3]. Ministry of Planing and Investment, United Nations Development Programme & Swiss Agency for
Development and Cooperation. 2001. Financing environmental Protection Activities in Quang Ninh
Province.
4. [4]. Dang Le Hoa and Nguyen Thi Y Ly. 2007. Estimating households’ willingness to pay for preserving Lo
Go - Xa Mat National Park, Tay Ninh province using contingent valuation method.
5. [5], [6], [7], [8], [9], [10]. Haab, T.C. and K.E. McConnell. 2002. Valuing Environmental and Natural
Resources – The Econometrics of Non-market Valuation, Cheltenham and Northampton: Edward Elgar, pp
25 – 27.
6. [11], [12]. Turnbull, B. 1976. The empirical distribution function with arbitrarily grouped, censored and
truncated data, Joural of the Royal Statistical Sociaty, 38B, 290 - 95.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so_1_2010_12_pham_hong_manh_4152_2094471.pdf