Quan điểm thứ hai cho rằng, Hội đồng
xét xử phải ra Quyết định đưa vụ án ra xét
xử để tiếp tục tiến hành phiên tòa sau khi lý
do tạm ngừng phiên tòa không còn10.
Như đã nêu trên, khoản 2 Điều 259
BLTTDS năm 2015 chỉ quy định thông báo
về việc tiếp tục phiên tòa sau khi lý do tạm
ngừng phiên tòa không còn phải bằng văn
bản mà không quy định cụ thể tên gọi loại
văn bản này là gì. Chính vì vậy, ở đây có thể
hiểu rằng, việc tiếp tục phiên tòa phải được
bắt đầu bằng Quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Thời điểm mở phiên tòa được ghi nhận trong
Quyết định này và sẽ được gửi cho các
đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp.
Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, Quyết
định đưa vụ án ra xét xử là cơ sở để mở ra
một phiên tòa mới. Việc Tòa án ra Quyết
định đưa vụ án ra xét xử đồng nghĩa với coi
việc tạm ngừng phiên tòa làm chấm dứt
phiên tòa trước đó. Sau khi căn cứ tạm
ngừng phiên tòa không còn, Tòa án sẽ mở
phiên tòa mới để tiếp tục giải quyết vụ án.
Việc mở phiên tòa mới này được đánh dấu
bằng Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trong
khi đó, tạm ngừng phiên tòa chỉ là tạm thời
dừng việc xét xử tại phiên tòa trong một thời
gian ngắn do có những căn cứ dẫn đến
không thể tiếp tục phiên tòa. Tạm ngừng
phiên tòa không làm chấm dứt phiên tòa, sau
khi căn cứ tạm ngừng phiên tòa không còn
thì phiên tòa được tiếp tục. Vì vậy, quan
điểm sau khi căn cứ tạm ngừng phiên tòa đã
được khắc phục, Tòa án phải ban hành
Quyết định đưa vụ án ra xét xử để tiếp tục
phiên tòa dường như không thỏa đáng.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 272 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tạm ngừng phiên tòa trong tố tụng dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 11 (411) - T6/202046
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
1. Thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân
Vụ án thứ nhất1
Ông Q và bà L khởi kiện vợ chồng cụ T,
cụ B yêu cầu trả lại toàn bộ diện tích 183m2
đã lấn chiếm. Sau khi có Bản án sơ thẩm, bà
L kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm. Tòa án
cấp phúc thẩm đã thụ lý và giải quyết theo
thủ tục phúc thẩm đối với vụ án.
Hội đồng xét xử phúc thẩm tạm ngừng
phiên tòa 02 lần: lần thứ nhất từ ngày
07/8/2018 đến ngày 18/9/2019 (01 tháng 10
ngày) để thuê đơn vị đo đạc độc lập thẩm
định lại diện tích đất của hai hộ gia đình, lần
thứ hai từ ngày 18/9/2019 đến ngày
30/9/2019 (12 ngày) để tiến hành thẩm định,
định giá tài sản trên đất tranh chấp và có văn
bản yêu cầu bị đơn nộp tiền chi phí tố tụng.
Vụ án này cho thấy, Tòa án có thể tạm
ngừng phiên tòa nhiều lần.
TẠM NGỪNG PHIÊN TÒA TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Đặng Thanh Hoa*
*TS. GV. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Tạm ngừng phiên tòa, Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 15/5/2020
Biên tập : 22/5/2020
Duyệt bài : 25/5/2020
Article Infomation:
Key words: Temporary suspension of
the trial court; the Code of Civil
Procedure of 2015.
Article History:
Received : 15 May. 2020
Edited : 22 May. 2020
Approved : 25 May. 2020
Tóm tắt:
Bài viết này phân tích quy định của pháp luật về thủ tục tạm
ngừng phiên tòa trong tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng, chỉ
ra những bất cập về thủ tục tạm ngừng phiên tòa và đề xuất giải
pháp khắc phục.
Abstract:
This article provides an analysis of the legal regulations on
procedures for temporary suspension of the trial court in criminal
proceedings and applicable practices, giving out the inadequacies
in the procedure for the court suspension and proposed
recommendations.
1 Bản án số 23/2019/DS-PT ngày 30/9/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.
47Số 11 (411) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Vụ án thứ hai2
Ông Đ và bà M khởi kiện yêu cầu ông
N trả lại diện tích đất khoảng 34,2m2. Tòa án
cấp sơ thẩm đã thụ lý và giải quyết yêu cầu
khởi kiện của ông Đ, bà M.
Hội đồng xét xử sơ thẩm tạm ngừng
phiên tòa 02 lần: lần thứ nhất từ ngày
04/01/2018 đến ngày 24/4/2018 (03 tháng 19
ngày), lần thứ hai từ ngày 24/4/2018 đến
ngày 08/6/2018 (01 tháng 14 ngày). Như
vậy, trường hợp này, Tòa án cũng tạm ngừng
phiên tòa nhiều lần. Thời hạn tạm ngừng ở
cả hai lần đều vượt quá 01 tháng, tổng thời
gian tạm ngừng phiên tòa trong trường hợp
này là 04 tháng 33 ngày. Và, trước khi tiếp
tục tiến hành phiên tòa (sau khi tạm ngừng),
Tòa án đã ban hành quyết định đưa vụ án ra
xét xử.
Sau khi Tòa án cấp sơ thẩm tạm ngừng
phiên tòa làm chấm dứt phiên tòa, Tòa án ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử để mở lại
phiên tòa. Tuy nhiên, sau đó ông N đã kháng
cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm. Tòa án cấp phúc
thẩm đã thụ lý và giải quyết kháng cáo của
ông N. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định rằng:
“[] Ngày 04/01/2018, Tòa án cấp sơ
thẩm mở phiên tòa xét xử vụ án, do cần phải
xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng
cứ và đưa Ủy ban nhân dân thành phố B vào
tham gia tố tụng với tư cách người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan nên Tòa án cấp sơ
thẩm ra quyết định tạm ngừng phiên tòa. Hết
thời hạn 01 tháng kể từ ngày tạm ngừng
phiên tòa, Tòa án cấp sơ thẩm không tiếp tục
tiến hành phiên tòa, cũng không ra quyết
định tạm đình chỉ giải quyết vụ án mà đến
ngày 27/3/2018 lại ra quyết định đưa vụ án
ra xét xử vào ngày 24/4/2018 là vi phạm
khoản 2 Điều 259 Bộ luật Tố tụng dân sự
(BLTTDS) về tạm ngừng phiên tòa.
Ngày 24/4/2018, Tòa án cấp sơ thẩm ra
quyết định tạm ngừng phiên tòa nhưng đến
ngày 25/5/2018 mới ra quyết định đưa vụ án
ra xét xử vào ngày 08/6/2018 là quá thời hạn
01 tháng vi phạm tiếp khoản 2 Điều 259 Bộ
luật Tố tụng dân sự []”.
Vụ án này cho thấy, Tòa án cấp phúc
thẩm đã không có ý kiến về việc Hội đồng xét
xử sơ thẩm tạm ngừng phiên tòa nhiều lần.
Vụ án thứ ba3
Bà P, ông T khởi kiện ông O và bà I yêu
cầu trả lại nhà và đất. Tòa án cấp sơ thẩm đã
thụ lý và giải quyết yêu cầu khởi kiện của bà
P, ông T.
Ngày 10/10/2017, Tòa án cấp sơ thẩm
mở phiên tòa. Tại phiên tòa, tòa án cấp sơ
thẩm quyết định tạm ngừng phiên tòa để xác
minh thu thập chứng cứ, bổ sung tài liệu
chứng cứ không thể thực hiện tại phiên tòa
được. Phiên tòa được mở lại lúc 08 giờ ngày
10/11/2017.
Tuy nhiên, cùng ngày 10/11/2017, Hội
đồng xét xử sơ thẩm ra quyết định tạm ngừng
phiên tòa và tạm đình chỉ giải quyết vụ án vì
hết thời hạn tạm ngừng mà lý do tạm ngừng
phiên tòa chưa được khắc phục. Như vậy, khi
chưa hết thời hạn tạm ngừng phiên tòa (cụ
thể là trong cùng một ngày) nhưng Tòa án
cấp sơ thẩm đã đồng thời ban hành quyết
định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
Sau khi có kháng cáo của đương sự, Tòa
án cấp phúc thẩm xét xử vụ án theo thủ tục
phúc thẩm và cho rằng: “Thời hạn tạm
ngừng phiên tòa chưa hết, Thẩm phán đã ra
quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ
án là trái với quy định tại khoản 2 Điều 259
BLTTDS”. Như vậy, vụ án này cho thấy, Tòa
2 Bản án số 191/2018/DS-PT ngày 21/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai.
3 Bản án số 05/2018/DS-PT ngày 23/4/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên.
Số 11 (411) - T6/202048
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
án cấp phúc thẩm cho rằng, Hội đồng xét xử
sơ thẩm tạm đình chỉ giải quyết vụ án vì lý
do căn cứ tạm ngừng phiên tòa chưa khắc
phục được khi chưa hết thời hạn tạm ngừng
phiên tòa là trái với quy định của BLTTDS
năm 2015.
2. Tạm ngừng phiên tòa
“Tạm ngừng phiên tòa” được ghi nhận
một cách chính thức và cụ thể từ Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 (Bộ luật TTDS năm
2015), bao gồm: tạm ngừng phiên tòa sơ
thẩm, tạm ngừng phiên tòa phúc thẩm, căn
cứ tạm ngừng phiên tòa, thời hạn tạm ngừng,
thủ tục tiếp tục phiên tòa sau khi tạm ngừng
(Điều 259, Điều 304 Bộ luật TTDS năm
2015). Trước đó, Bộ luật TTDS năm 2004
(sửa đổi, bổ sung năm 2011) cũng đã đề cập
đến “tạm ngừng” nhưng chỉ dừng lại ở việc
quy định tạm ngừng đối với phiên tòa sơ
thẩm tại khoản 2 Điều 197: “Trong trường
hợp đặc biệt do Bộ luật này quy định thì việc
xét xử có thể tạm ngừng không quá năm
ngày làm việc. Hết thời hạn tạm ngừng, việc
xét xử vụ án được tiếp tục”.
Pháp luật TTDS không đưa ra định
nghĩa cụ thể về tạm ngừng phiên tòa. Có ý
kiến cho rằng: “tạm ngừng phiên tòa có thể
hiểu là phiên tòa không tiếp tục các hoạt
động tố tụng trong thời gian ngắn khi có các
căn cứ do pháp luật tố tụng dân sự quy
định”4. Quy định của Bộ luật TTDS năm
2015 về tạm ngừng phiên tòa cho thấy, về
bản chất, tạm ngừng phiên tòa là việc dừng
lại phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm
trong khoảng thời gian nhất định, khi có các
căn cứ dẫn đến Hội đồng xét xử không thể
tiếp tục tiến hành phiên tòa.
Như vậy, về thời điểm tạm ngừng phiên
tòa chỉ xảy ra khi đang tiến hành phiên tòa.
Về thẩm quyền, Hội đồng xét xử là chủ thể
có thẩm quyền quyết định tạm ngừng phiên
tòa. Về căn cứ, Hội đồng xét xử có thể tạm
ngừng phiên tòa khi có một trong các căn cứ
quy định tại Điều 259 và Điều 304 Bộ luật
TTDS năm 2015. Về thời hạn tạm ngừng, số
lần tạm ngừng và thủ tục tiếp tục phiên tòa
sau khi tạm ngừng hiện nay còn tồn tại các
cách hiểu khác nhau và thực tiễn giải quyết
cho thấy không có sự thống nhất giữa các
Tòa án.
Khoản 2 Điều 259 Bộ luật TTDS năm
2015 quy định: “Thời hạn tạm ngừng phiên
tòa là không quá 01 tháng, kể từ ngày Hội
đồng xét xử quyết định tạm ngừng phiên tòa.
Hết thời hạn này, nếu lý do để ngừng phiên
tòa không còn thì Hội đồng xét xử tiếp tục
tiến hành phiên tòa; nếu lý do để ngừng
phiên tòa chưa được khắc phục thì Hội đồng
xét xử ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết
vụ án dân sự”.
Khoản 2 Điều 13 Thông tư liên tịch số
02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày
31/8/2016 của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Tòa án nhân dân tối cao (Thông tư liên
tịch số 02) về việc phối hợp giữa Viện kiểm
sát nhân dân và Tòa án nhân dân trong việc
thi hành một số quy định của Bộ luật TTDS
năm 2015 quy định: “Trường hợp Hội đồng
xét xử đã quyết định tạm ngừng phiên tòa và
thời hạn tạm ngừng dưới 01 tháng; hết thời
hạn này mà Tòa án quyết định tiếp tục tạm
ngừng phiên tòa vì lý do tạm ngừng phiên tòa
chưa được khắc phục thì Tòa án thông báo
ngay bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng
cấp về việc tiếp tục tạm ngừng phiên tòa.
Thời hạn tối đa của việc tạm ngừng phiên tòa
là không quá 01 tháng kể từ ngày Hội đồng
xét xử quyết định tạm ngừng phiên tòa”.
Như vậy, Bộ luật TTDS năm 2015 và
Thông tư liên tịch số 02 đều quy định thời
hạn tạm ngừng phiên tòa tối đa không quá
01 tháng.
4 Bùi Thị Huyền (2007), “Hoãn và tạm ngừng phiên tòa sơ thẩm dân sự”, Tạp chí Luật học, số 6, tr.38.
49Số 11 (411) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
3. Thời hạn tạm ngừng phiên tòa
Quan điểm thứ nhất cho rằng, thời hạn
tạm ngừng phiên tòa có thể nhiều hơn 01
tháng5.
Quan điểm này hiểu tinh thần của Bộ
luật TTDS theo hướng sau:
- Bộ luật TTDS năm 2015 không giới
hạn số lần tạm ngừng phiên tòa. Khoản 2
Điều 259 Bộ luật TTDS năm 2015 chỉ quy
định về thời hạn tạm ngừng phiên tòa của
một lần tạm ngừng không quá 01 tháng kể
từ ngày Hội đồng xét xử quyết định tạm
ngừng phiên tòa. Như vậy, nếu tạm ngừng
phiên tòa nhiều lần thì tổng thời hạn tạm
ngừng có thể nhiều hơn 01 tháng.
- Khoản 2 Điều 259 Bộ luật TTDS năm
2015 quy định về thời hạn tạm ngừng phiên
tòa không quá 01 tháng để điều chỉnh thời
gian tạm ngừng phiên tòa đối với 01 lý do
(căn cứ) tạm ngừng phiên tòa. Giả sử, Hội
đồng xét xử tạm ngừng phiên tòa (lần thứ
nhất) 01 tháng để khắc phục căn cứ tạm
ngừng (01). Hết thời hạn tạm ngừng, căn cứ
tạm ngừng 01 đã được khắc phục. Tuy
nhiên, vụ án phát sinh căn cứ tạm ngừng mới
(02), trường hợp này, Hội đồng xét xử có
quyền tạm ngừng phiên tòa (lần thứ hai) để
khắc phục căn cứ tạm ngừng phiên tòa (02).
Và như vậy, tổng thời gian tạm ngừng sẽ
nhiều hơn 01 tháng.
Trong Vụ án thứ nhất: Lần thứ nhất, Hội
đồng xét xử phúc thẩm tạm ngừng phiên tòa
để thuê đơn vị đo đạc độc lập thẩm định lại
diện tích đất của hai hộ gia đình; sau đó đã
gửi kết quả đo đạc này cho Tòa án để tham
khảo. Lần thứ hai, Hội đồng xét xử quyết
định tạm ngừng phiên tòa để tiến hành thẩm
định, định giá tài sản trên đất tranh chấp và
có văn bản yêu cầu bị đơn nộp tiền chi phí tố
tụng. Mặc dù hai lần tạm ngừng phiên tòa
xuất phát từ căn cứ quy định tại điểm c khoản
1 Điều 259 BLTTDS năm 2015 “cần phải
xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ
mà nếu không thực hiện thì không thể giải
quyết được vụ án và không thể thực hiện
được ngay tại phiên tòa”. Tuy nhiên, chứng
cứ, tài liệu cần xác minh, thu thập lại không
giống nhau; vì vậy, đây có thể được xem là
có sự khác biệt về lý do tạm ngừng phiên tòa
của lần thứ nhất và lần thứ hai. Tổng thời
gian 02 lần tạm ngừng là 1 tháng 22 ngày.
Trong Vụ án thứ hai, Hội đồng xét xử sơ
thẩm tạm ngừng phiên tòa 02 lần với tổng
thời gian tạm ngừng là 5 tháng 3 ngày.
Quan điểm thứ hai cho rằng, thời hạn
tạm ngừng phiên tòa tối đa không quá 01
tháng6.
Quan điểm này hiểu tinh thần của Bộ
luật TTDS theo hướng sau:
Một là, khoản 2 Điều 259 BLTTDS năm
2015 quy định thời hạn tạm ngừng phiên tòa
tối đa không quá 01 tháng kể từ ngày Hội
đồng xét xử quyết định tạm ngừng phiên tòa.
Hết thời hạn này mà lý do tạm ngừng chưa
khắc phục được thì Hội đồng xét xử tạm
đình chỉ giải quyết vụ án mà không được tiếp
tục tạm ngừng phiên tòa.
Hai là, khoản 2 Điều 13 Thông tư liên
tịch số 02 quy định cụ thể hơn về thời hạn
tạm ngừng phiên tòa; theo đó, trường hợp
Hội đồng xét xử đã ấn định thời hạn tạm
ngừng phiên tòa dưới 01 tháng, nhưng hết
thời hạn này, căn cứ tạm ngừng chưa được
khắc phục thì Tòa án có thể tiếp tục tạm
ngừng phiên tòa. Mặc dù vậy, thời hạn tối đa
để tạm ngừng phiên tòa cũng không được
quá 01 tháng kể từ ngày Hội đồng xét xử
quyết định tạm ngừng phiên tòa.
5 Đây là quan điểm của Tòa án cấp phúc thẩm trong Vụ án thứ nhất và Tòa án cấp sơ thẩm trong Vụ án thứ
hai.
6 Đây là quan điểm của Tòa án cấp phúc thẩm trong Vụ án thứ hai và Tòa án cấp sơ thẩm trong Vụ án thứ ba.
Số 11 (411) - T6/202050
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Từ những phân tích trên đây, chúng tôi
cho rằng, theo quy định hiện hành, thời hạn
tạm ngừng phiên tòa không quá 01 tháng là
phù hợp. Bởi lẽ, nếu căn cứ tạm ngừng phiên
tòa vẫn còn mà Tòa án chưa thể xét xử lại vụ
án thì Tòa án hoàn toàn có quyền tạm đình
chỉ giải quyết vụ án vì lý do hết thời hạn tạm
ngừng mà căn cứ tạm ngừng chưa được khắc
phục. Chúng tôi cho rằng, nếu để thời hạn
tạm ngừng quá dài sẽ không đảm bảo tính
liên tục, kịp thời trong xét xử tại phiên tòa
gây ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự.
4. Số lần tạm ngừng phiên tòa
Quan điểm thứ nhất cho rằng, có thể
tạm ngừng phiên tòa nhiều lần ở mỗi cấp xét
xử7.
Quan điểm này hiểu tinh thần của Bộ
luật TTDS và văn bản hướng dân thi hành
Bộ luật TTDS như sau:
- Khoản 2 Điều 259 Bộ luật TTDS năm
2015 không giới hạn số lần tạm ngừng phiên
tòa, chỉ quy định về thời hạn tạm ngừng
phiên tòa của một lần tạm ngừng không quá
01 tháng kể từ ngày Hội đồng xét xử quyết
định tạm ngừng phiên tòa. Như vậy, hoàn
toàn không cấm việc Tòa án có thể tạm
ngừng phiên tòa nhiều lần, chỉ cần thời hạn
tạm ngừng phiên tòa của mỗi lần không quá
01 tháng.
- Khoản 2 Điều 13 Thông tư liên tịch số
02 quy định: “Trường hợp Hội đồng xét xử
đã quyết định tạm ngừng phiên tòa và thời
hạn tạm ngừng dưới 01 tháng; hết thời hạn
này mà Tòa án quyết định tiếp tục tạm ngừng
phiên tòa vì lý do tạm ngừng phiên tòa chưa
được khắc phục thì Tòa án thông báo ngay
bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp về
việc tiếp tục tạm ngừng phiên tòa”.
Quy định trên có thể hiểu, Tòa án ra
quyết định tạm ngừng phiên tòa, nhưng hết
thời hạn này mà lý do tạm ngừng chưa được
khắc phục thì Tòa án có thể tiếp tục thông
báo tạm ngừng phiên tòa tiếp lần hai, lần
ba và ấn định ngày xét xử mới, nhưng
phải vẫn đảm bảo trong thời hạn 01 tháng kể
từ ngày tạm ngừng phiên tòa đầu tiên.
- Việc tạm ngừng phiên tòa nhiều lần có
thể xảy ra nếu căn cứ tạm ngừng phiên tòa
đã được khắc phục, Tòa án đã mở phiên tòa
xét xử lại nhưng lại tiếp tục phát sinh một
trong các căn cứ khác để Tòa án tạm ngừng
phiên tòa.
Quan điểm thứ hai cho rằng, chỉ có thể
tạm ngừng phiên tòa một lần ở mỗi cấp xét
xử8.
Quan điểm này hiểu tinh thần của Bộ
luật TTDS và văn bản hướng dân thi hành
Bộ luật TTDS như sau:
- Khoản 2 Điều 259 Bộ luật TTDS năm
2015 quy định: “Thời hạn tạm ngừng phiên
tòa không quá 01 tháng, kể từ ngày Hội đồng
xét xử quyết định tạm ngừng phiên tòa. Hết
thời hạn này, nếu lý do để ngừng phiên tòa
không còn thì Hội đồng xét xử tiếp tục tiến
hành phiên tòa; nếu lý do để ngừng phiên tòa
chưa được khắc phục thì Hội đồng xét xử ra
quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự”. Quy định này cho thấy, thời hạn tạm
ngừng phiên tòa tối đa là 01 tháng, hết thời
hạn tạm ngừng, Tòa án không tiếp tục tạm
ngừng phiên tòa (lần 02) mà tạm đình chỉ
giải quyết nếu lý do tạm ngừng phiên tòa
chưa khắc phục được.
Bên cạnh đó, quy định của khoản 2 Điều
13 Thông tư liên tịch số 02 không có nghĩa
là cho phép Tòa án được tạm ngừng phiên
7 Đây là quan điểm của Tòa án cấp phúc thẩm trong Vụ án thứ nhất và Tòa án cấp sơ thẩm trong Vụ án thứ
hai.
8 Đây là quan điểm của Tòa án cấp sơ thẩm trong Vụ án thứ ba.
51Số 11 (411) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
tòa nhiều lần mà Thông tư chỉ quy định cụ
thể hơn khoản 2 Điều 259 BLTTDS năm
2015. Theo đó, nếu Hội đồng xét xử ấn định
thời hạn tạm ngừng phiên tòa dưới 01 tháng,
nhưng khi hết thời hạn đã ấn định, lý do tạm
ngừng phiên tòa chưa khắc phục được thì
Hội đồng xét xử được quyền gia hạn thời
hạn tạm ngừng phiên tòa (không quá 01
tháng). Như vậy, Tòa án chỉ có quyền gia
hạn thời hạn tạm ngừng phiên tòa chứ
không có quyền tạm ngừng phiên tòa nhiều
lần, và tổng thời gian tạm ngừng phiên tòa
phải không được quá 01 tháng (bao gồm cả
thời gian gia hạn). Hết thời hạn 01 tháng
này, nếu lý do tạm ngừng phiên tòa vẫn còn
thì Tòa án chỉ có thể tạm đình chỉ giải quyết
vụ án chứ không được tiếp tục tạm ngừng
phiên tòa.
5. Thủ tục mở lại phiên tòa sau khi hết
thời hạn tạm ngừng phiên tòa
Khoản 2 Điều 259 BLTTDS năm 2015
quy định: “Hết thời hạn này, nếu lý do để
ngừng phiên tòa không còn thì Hội đồng
xét xử tiếp tục tiến hành phiên tòa; [].
Hội đồng xét xử phải thông báo bằng văn
bản cho những người tham gia tố tụng và
Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian tiếp tục
phiên tòa”.
Như vậy, theo quy định trên, sau khi hết
thời hạn tạm ngừng phiên tòa, Tòa án phải
tiếp tục tiến hành phiên tòa và phải thông
báo bằng văn bản cho những người tham gia
tố tụng và Viện kiểm sát cùng cấp về thời
gian tiếp tục phiên tòa. Tuy nhiên, về hình
thức văn bản thông báo ghi nhận thời gian
tiếp tục phiên tòa hiện nay còn tồn tại các
quan điểm khác nhau, cụ thể:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, thời gian
tiếp tục phiên tòa phải được ghi nhận trong
Quyết định tạm ngừng phiên tòa. Trường
hợp trong Quyết định tạm ngừng phiên tòa
chưa ấn định thời gian tiếp tục phiên tòa thì
chỉ cần có thông báo gửi đến các đương sự
và Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian mở
lại phiên tòa9.
Quan điểm này hiểu tinh thần của Bộ
luật TTDS và văn bản hướng dân thi hành
Bộ luật TTDS như sau:
Một là, khoản 2 Điều 259 BLTTDS năm
2015 chỉ bắt buộc thông báo về việc tiếp tục
phiên tòa sau khi lý do tạm ngừng phiên tòa
không còn cho đương sự và Viện kiểm sát
cùng cấp bằng văn bản mà không bắt buộc
phải bằng văn bản riêng biệt. Trong trường
hợp này, chỉ cần có thông báo bằng văn bản
của Tòa án về thời điểm tiếp tục phiên tòa là
đã đáp ứng quy định của BLTTDS năm 2015
về vấn đề này.
Hai là, Nghị quyết số 01/2017/NQ-
HĐTP (Nghị quyết số 01) quy định về biểu
mẫu Quyết định tạm ngừng phiên tòa (Mẫu
số 50-DS). Trong nội dung Biểu mẫu này, tại
mục 2 phần Quyết định, Hội đồng xét xử có
thể ghi nhận thời gian, địa điểm tiếp tục
phiên tòa xét xử vụ án sau khi tạm ngừng.
Như vậy, đương sự, Viện kiểm sát ngay tại
thời điểm tạm ngừng phiên tòa sẽ biết thời
điểm tiếp tục phiên tòa; đồng thời, Tòa án
cũng sẽ có trách nhiệm hơn đối với việc giải
quyết lý do dẫn đến tạm ngừng để tiếp tục
phiên tòa đúng với thời điểm đã ấn định. Do
đó, nếu Tòa án có thể dự liệu được chính xác
thời điểm tiếp tục phiên tòa thì việc ghi nhận
thời điểm này trong Quyết định tạm ngừng
9 Đây là quan điểm của Tòa án cấp sơ thẩm trong Vụ án thứ ba và quan điểm này cũng được ghi nhận trong
Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13-01-2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban
hành một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự.
Số 11 (411) - T6/202052
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
phiên tòa sẽ giảm bớt được thủ tục tố tụng
là thông báo bằng văn bản đến các đương sự,
Viện kiểm sát cùng cấp về thời điểm tiếp tục
phiên tòa.
Tuy nhiên, không phải lúc nào Tòa án
cũng dự liệu được chính xác thời điểm tiếp
tục phiên tòa và nếu bắt buộc phải ấn định
một con số cụ thể sẽ dẫn đến các Tòa án ghi
thời hạn tối đa (01 tháng) để tránh trường
hợp ghi thời hạn ngắn hơn mà khi hết thời
hạn đã ấn định, lý do tạm ngừng phiên tòa
vẫn còn. Do đó, Mẫu số 50-DS Ban hành
kèm theo Nghị quyết số 01 quy định: Trong
trường hợp chưa ấn định được thời gian, địa
điểm tiếp tục phiên tòa thì ghi “Thời gian,
địa điểm tiếp tục phiên tòa xét xử vụ án sẽ
được Tòa án thông báo sau”.
Như vậy, trường hợp trong Quyết định
chưa ấn định thời hạn tiếp tục phiên tòa thì
Tòa án phải có thông báo bằng văn bản gửi
đến các đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp
về thời gian, địa điểm tiếp tục phiên tòa.
Điều này vừa đảm bảo đương sự và Viện
kiểm sát biết được thời gian tiếp tục phiên
tòa để tham gia, đồng thời cũng giúp Tòa án
chủ động hơn về thời điểm tiếp tục phiên tòa
(chỉ cần không vi phạm thời hạn 01 tháng),
tránh trường hợp không mở lại phiên tòa
đúng với thời điểm ghi trong Quyết định tạm
ngừng phiên tòa.
Quan điểm thứ hai cho rằng, Hội đồng
xét xử phải ra Quyết định đưa vụ án ra xét
xử để tiếp tục tiến hành phiên tòa sau khi lý
do tạm ngừng phiên tòa không còn10.
Như đã nêu trên, khoản 2 Điều 259
BLTTDS năm 2015 chỉ quy định thông báo
về việc tiếp tục phiên tòa sau khi lý do tạm
ngừng phiên tòa không còn phải bằng văn
bản mà không quy định cụ thể tên gọi loại
văn bản này là gì. Chính vì vậy, ở đây có thể
hiểu rằng, việc tiếp tục phiên tòa phải được
bắt đầu bằng Quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Thời điểm mở phiên tòa được ghi nhận trong
Quyết định này và sẽ được gửi cho các
đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp.
Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, Quyết
định đưa vụ án ra xét xử là cơ sở để mở ra
một phiên tòa mới. Việc Tòa án ra Quyết
định đưa vụ án ra xét xử đồng nghĩa với coi
việc tạm ngừng phiên tòa làm chấm dứt
phiên tòa trước đó. Sau khi căn cứ tạm
ngừng phiên tòa không còn, Tòa án sẽ mở
phiên tòa mới để tiếp tục giải quyết vụ án.
Việc mở phiên tòa mới này được đánh dấu
bằng Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trong
khi đó, tạm ngừng phiên tòa chỉ là tạm thời
dừng việc xét xử tại phiên tòa trong một thời
gian ngắn do có những căn cứ dẫn đến
không thể tiếp tục phiên tòa. Tạm ngừng
phiên tòa không làm chấm dứt phiên tòa, sau
khi căn cứ tạm ngừng phiên tòa không còn
thì phiên tòa được tiếp tục. Vì vậy, quan
điểm sau khi căn cứ tạm ngừng phiên tòa đã
được khắc phục, Tòa án phải ban hành
Quyết định đưa vụ án ra xét xử để tiếp tục
phiên tòa dường như không thỏa đáng.
Thay cho lời kết
Quy định của Bộ luật TTDS năm 2015
về tạm ngừng phiên tòa vẫn chưa rõ ràng,
dẫn đến thực tiễn áp dụng của các cấp tòa
trong giải quyết vụ việc dân sự còn chưa
thống nhất. Đây là mộ trong những nguyên
nhân dẫn đến tình trạng tồn đọng án của Tòa
án gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các
đương sự. Để khắc phục bất cập này, chúng
tôi cho rằng, Tòa án nhân dân tối cao cần ban
hành văn bản hướng dẫn hoặc phát triển
thành án lệ về việc tạm ngừng phiên tòan
10 Đây là quan điểm của Tòa án cấp sơ thẩm trong Vụ án thứ hai.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tam_ngung_phien_toa_trong_to_tung_dan_su.pdf