Về môi trường
Nền nông nghiệp của nước ta hiện nay đã
quen với việc sử dụng các loại hóa chất, thuốc
trừ sâu khiến cho đất bạc màu và bị nhiễm độc,
từ đó dẫn đến ô nhiễm môi trường. Trong khi
đó, các MHSK phát triển nông sản sạch là một
hệ thống quản lý, sản xuất nông sản sạch tránh
sử dụng các loại phân bón và thuốc trừ sâu tổng
hợp. Chính vì thế, các MHSK này mang lại ảnh
hưởng tích cực đến tài nguyên, môi trường:
- Giảm tác động tiêu cực đến môi trường so
với các phương thức sản xuất truyền thống:
Việc giảm thiểu tối đa sử dụng hóa chất độc hại
như thuốc trừ sâu, phân bón hóa học, thuốc bảo
vệ thực vật sẽ giúp giảm thiểu các tác động
tiêu cực của hoạt động sản xuất đến môi trường
đất, nước, không khí.
- Giảm sử dụng quá mức hóa chất độc hại là
cơ hội cho phát triển các sản phẩm bản địa và
đặc sản: Phát triển nông sản sạch nhờ sử dụng
phân bón hữu cơ còn giúp bảo vệ môi trường,
duy trì đa dạng sinh học và độ phì nhiêu đất;
Tăng cường sử dụng các nguồn phân hữu cơ,
phân xanh, giảm nguy cơ ô nhiễm đất và nước, từ
đó tạo cơ hội phát triển cho các loài và các giống
bản địa, giúp phát triển đặc sản địa phương.
- Góp phần cải tạo thảm thực vật của đất,
bảo tồn thế giới tự nhiên: Sử dụng phân bón
hữu cơ vừa cung cấp các chất dinh dưỡng đa,
trung và vi lượng cho cây trồng, vừa cung cấp
cho đất một lượng mùn lớn giúp đất tơi xốp và
duy trì sự hoạt động của các sinh vật và vi sinh
vật trong đất. Các chất dinh dưỡng trong phân
hữu cơ được chuyển đổi từ những thành phần
dễ phân hủy trong nguyên liệu hữu cơ như chất
xơ, tinh bột, protein, amino axit, Do vậy,
phân hữu cơ dễ dàng tác động vào quá trình
sinh trưởng, phát triển của cây trồng, tạo ra các
sản phẩm nông sản chất lượng cao, đồng thời
góp phần cải tạo thảm thực vật của đất.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
8 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 687 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tầm quan trọng của việc phát triển mô hình nông sản sạch đối với phát triển bền vững ở vùng nông thôn ven đô Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 10-17 
10 
Original Article 
The Importance of Developing Clean Agricultural Models 
for Sustainable Development in Hanoi Peri-rural Area 
Nguyen Van Hien1,*, Tran Ngoc My Hoa2, Doan Huong Mai2 
1Dai Viet College, 44 Nguyen Co Thach, Nam Tu Liem, Hanoi, Vietnam 
2VNU University of Science, 334 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam 
Received 05 November 2020 
Revised 12 December 2020; Accepted 12 December 2020 
Abstract: Livelihood models for the development of clean agricultural products are considered 
highly important in the Vietnamese economy and essentially strategic in the context of 
international integration for Vietnam. In recent years, the Government has passed various policies 
to boost the development of clean agriculture as well as to encourage investment in this section. As 
a result, the development of those models has led to positive changes in terms of structure and 
scale. However, from the perspective of sustainable development, those models are still 
underdeveloped. The paper is based on secondary data, focusing on the analysis and assessment of 
the importance of developing clean agricultural products for sustainable development. 
Keywords: Livelihood models, clean agricultural products, sustainable development, Hanoi. 
D* 
_______ 
* Corresponding author. 
 E-mail address: vanhien.bio95@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4423 
N.V. Hien et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 10-17 
11 
Tầm quan trọng của việc phát triển mô hình nông sản sạch 
đối với phát triển bền vững ở vùng nông thôn ven đô Hà Nội 
Nguyễn Văn Hiến1,*, Trần Ngọc Mỹ Hoa2, Đoàn Hương Mai2 
1Trường Cao đẳng Đại Việt, Ngõ 44 Nguyễn Cơ Thạch, Nam Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam 
2Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, 
334 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 05 tháng 11 năm 2020 
Chỉnh sửa ngày 12 tháng 12 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 12 tháng 12 năm 2020 
Tóm tắt: Mô hình sinh kế theo hướng phát triển nông sản sạch là một bộ phận quan trọng của nền 
kinh tế Việt Nam và là chiến lược của đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Trong những năm 
qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách để khuyến khích phát triển nông nghiệp sạch cũng 
như khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp sạch. Nhờ vậy, sự phát triển của mô 
hình này đã có sự chuyển biến tích cực cả về quy mô, tốc độ và cơ cấu. Tuy vậy, dưới góc nhìn 
phát triển bền vững, sự phát triển của mô hình nông sản sạch vẫn còn khiêm tốn. Dựa vào các số 
liệu thứ cấp, bài viết tập trung phân tích, đánh giá tầm quan trọng của việc phát triển sản xuất nông 
sản sạch bền vững. 
Từ khóa: Mô hình sinh kế, nông sản sạch, phát triển bền vững, Hà Nội. 
1. Đặt vấn đề * 
Trong thời gian qua, chiến lược phát triển 
bền vững (PTBV) thuộc Chương trình nghị sự 
21 của Việt Nam giai đoạn 2004-2015 đã đạt 
được những thành tựu, tiến bộ quan trọng, được 
cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Dù vậy, vẫn 
còn có những thách thức trên các lĩnh vực kinh 
tế, xã hội và tài nguyên, môi trường ảnh hưởng 
đến việc thực hiện mục tiêu PTBV (Sustainable 
Development Goals - SDGs) đến năm 2030 - 
thay thế cho các mục tiêu phát triển thiên niên 
kỷ (Millennium Development Goals - MDGs) 
từ sau năm 2015 đã cam kết với cộng đồng 
quốc tế [1]. “Đảm bảo các mô hình sản xuất và 
tiêu dùng bền vững” là một trong những mục 
tiêu toàn cầu được thiết kế nhằm chấm dứt đói 
nghèo, bảo vệ hành tinh và đảm bảo rằng tất cả 
mọi người được hưởng hòa bình, thịnh vượng 
_______ 
* Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: vanhien.bio95@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4423 
vào năm 2030 ở mỗi quốc gia thành viên Liên 
Hiệp Quốc. 
Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ đã phê 
duyệt các Chương trình hành động quốc gia về 
sản xuất và tiêu dùng bền vững đến năm 2020, 
tầm nhìn đến năm 2030 (Quyết định số 76/QĐ-
TTg ngày 11/01/2016) và giai đoạn 2021-2030 
(Quyết định số 889/QĐ-TTg ngày 24/06/2020). 
Ở Việt Nam, tình trạng sản xuất và tiêu dùng 
còn nhiều hạn chế nội tại như chưa có chính 
sách cụ thể cho sản xuất và tiêu thụ bền vững, 
nhận thức xã hội thấp, thiếu hỗ trợ kỹ thuật và 
tài chính, dẫn đến việc cần đề xuất phát triển 
các mô hình sinh kế (MHSK) bền vững phát 
triển nông nghiệp sạch, sản xuất hữu cơ kết hợp 
với nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. 
MHSK phát triển nông sản sạch được biết đến 
là mô hình phát triển mới, lấy con người và tài 
nguyên, môi trường làm trung tâm của sự 
phát triển. 
Ngày 27/7/2016, Quốc hội khóa XIV đã 
ban hành Nghị quyết số 14/2016/QH14 về 
“Chương trình giám sát của Quốc hội năm 
2017”, theo đó Quốc hội đã chọn giám sát 
N.V. Hien et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 10-17 
12 
chuyên đề đầu tiên là “Việc thực hiện chính 
sách, pháp luật về an toàn thực phẩm giai đoạn 
2011-2016”. Có thể nói, kết quả giám sát của 
Quốc hội đã phản ánh đầy đủ và cập nhật về 
thực trạng công tác an toàn thực phẩm (ATTP) 
ở nước ta - mặc dù đã đạt được những kết quả 
đáng ghi nhận nhưng vẫn còn tồn tại nhiều hạn 
chế và yếu kém, có nơi có lúc đã đến giới hạn 
báo động như chưa kiểm soát được ATTP trong 
toàn bộ chuỗi cung cấp thực phẩm, đặc biệt là 
thực phẩm sản xuất từ khu vực kinh doanh nhỏ 
lẻ, thủ công; biện pháp, công cụ quản lý còn 
hạn chế; việc quản lý, kiểm soát ATTP chưa 
dựa trên việc giám sát nguy cơ và bằng chứng 
khoa học; việc phân tích, đánh giá nguy cơ đối 
với ATTP chưa được chú trọng, ngộ độc thực 
phẩm vẫn ở mức cao; yếu tố môi trường, điều 
kiện sản xuất kinh doanh chưa được quan tâm 
đúng mức,... Theo báo cáo của Chính phủ và 
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nguy 
cơ cao gây mất ATTP tập trung chủ yếu ở các 
loại nông sản thực phẩm chính có trong bữa ăn 
hàng ngày của người dân như: rau, củ, quả tươi, 
thịt, cá, Kết quả của Chương trình Giám sát 
Quốc gia cho thấy, trong giai đoạn 2011-2016, 
tỷ lệ mẫu rau, củ, quả tươi và sơ chế có tồn dư 
hóa chất vượt ngưỡng cho phép là 8,47%, tỷ lệ 
mẫu thịt bị nhiễm vi sinh vật vượt mức cho 
phép rất cao, trên 19%, tỷ lệ mẫu thủy sản 
nhiễm vi sinh vật trên 4%. Trước tình hình đó, 
việc đầu tư sản xuất, tiêu thụ nông sản sạch, an 
toàn là hướng đi đúng đắn, cấp thiết, mang tính 
thời sự. Bên cạnh đó, nhu cầu sử dụng thực 
phẩm an toàn của người tiêu dùng ngày càng 
tăng cao đã mở ra cơ hội phát triển lớn cho các 
mô hình sản xuất nông sản sạch. Nông sản sạch, 
an toàn không chỉ là hướng đi phù hợp xu thế 
mà còn là xu hướng PTBV ứng phó với quá 
trình đô thị hóa và biến đổi khí hậu ngày càng 
gia tăng. 
Trong những năm gần đây, ở vùng nông 
thôn ven đô thành phố Hà Nội, lĩnh vực trồng 
trọt đã phát triển sinh kế theo 3 hướng mô hình 
phổ quát: sản xuất nông sản hữu cơ, phát triển 
nông sản sạch và phát triển nông nghiệp ứng 
dụng công nghệ cao [2]. Mô hình phát triển 
nông sản hữu cơ đã hình thành và bước đầu 
phát triển ở Hà Nội với sản xuất lúa gạo và rau 
xanh. Phát triển nông nghiệp ứng dụng công 
nghệ cao mới bước đầu phát triển nhỏ lẻ, chưa 
có sự liên kết. Khó khăn của 2 loại mô hình này 
là giá thành cao, thiếu vốn đầu tư và thiếu sự 
tham gia của các doanh nghiệp lớn [2]. Đối với 
2 MHSK này, đích đến cuối cùng vẫn phải là 
sản xuất nông sản sạch. 
Trong khi đó, MHSK phát triển nông sản 
sạch đã hình thành và phát triển ở một số huyện 
và tồn tại dưới nhiều quy mô khác nhau (như 
sản xuất rau sạch tại huyện Sóc Sơn, Chương 
Mỹ, Thạch Thất; nuôi cá chép sạch tại huyện 
Chương Mỹ, Gia Lâm, Thanh Trì,) nhưng 
chưa có sự liên kết cần thiết theo chuỗi giá trị. 
Thực trạng sản xuất nông sản sạch ở Hà Nội cơ 
bản vẫn là nhỏ lẻ, phần lớn ở quy mô hộ gia 
đình, trình độ canh tác, công nghệ chế biến, bảo 
quản lạc hậu. Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại 
nhiều khó khăn trong phát triển mô hình như 
thiếu chứng nhận an toàn thực phẩm, thiếu sàn 
hay chợ nông sản sạch; thiếu chỉ dẫn địa lý, 
truy xuất nguồn gốc và thiếu thương hiệu [2]. 
Đảng ủy và chính quyền thành phố đã có những 
chủ trương, chính sách để phát triển MHSK 
này, tuy nhiên chưa đủ mức để thu hút doanh 
nghiệp. Hiện có ít doanh nghiệp đầu tư vào phát 
triển nông sản sạch. Bên cạnh đó, nhận thức, 
hiểu biết của người sản xuất, người tiêu dùng và 
cộng đồng về tầm quan trọng của các mô hình 
nông sản sạch đối với phát triển kinh tế - xã hội 
và bảo vệ tài nguyên - môi trường còn hạn chế. 
Vì vậy, việc nghiên cứu tầm quan trọng của 
MHSK phát triển nông sản sạch là cần thiết, có 
ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với thành phố 
Hà Nội. Để giải quyết vấn đề nghiên cứu, bài 
viết sử dụng các kết quả nghiên cứu của đề tài 
“Nghiên cứu xây dựng mô hình sinh kế bền 
vững gắn với quá trình đô thị hóa và biến đổi 
khí hậu ở vùng nông thôn ven đô Hà Nội”, phân 
tích và đánh giá cụ thể hơn về tầm quan trọng 
của MHSK trồng trọt, cụ thể là mô hình nông 
sản sạch, sử dụng phương pháp nghiên cứu thu 
thập, xử lý thông tin, tư liệu và số liệu thứ cấp 
cần thiết, có tham khảo ý kiến của các chuyên 
gia về phát triển bền vững, mô hình sinh kế 
nông sản sạch. Nghiên cứu này dựa trên 
phương pháp và khuôn khổ kiến thức nền tảng 
của kinh tế học, sinh thái học, khoa học môi 
N.V. Hien et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 10-17 
13 
trường và khoa học phát triển bền vững. Kết 
quả nghiên cứu góp phần đóng góp tích cực và 
thúc đẩy các nghiên cứu tiếp theo về phát triển 
bền vững và MHSK bền vững ở nước ta. 
2. Mô hình sinh kế theo hướng phát triển 
nông sản sạch 
Trong những năm gần đây, khi vấn đề an 
toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường ngày 
càng trở nên bức xúc, thu hút sự quan tâm đặc 
biệt của cộng đồng, cụm từ “nông nghiệp sạch” 
và “nông sản sạch” luôn được nhắc đến trên các 
phương tiện thông tin đại chúng. Đã xuất hiện 
nhiều cửa hàng kinh doanh nông sản sạch và có 
nhiều doanh nghiệp mang tên doanh nghiệp 
nông nghiệp sạch, nhiều diễn đàn về nông 
nghiệp sạch và nông sản sạch được tổ chức. 
Tuy nhiên, cho đến nay, trong các văn bản pháp 
luật và các tài liệu khoa học của Việt Nam hầu 
như chưa có định nghĩa chính thức và thống 
nhất về các khái niệm này. 
Gần đây, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và 
Phát triển Nông thôn đã ban hành Quyết định số 
738/QĐ-BNN-KHCN ngày 14/3/2017 về Tiêu 
chí xác định chương trình, dự án nông nghiệp 
ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, 
danh mục công nghệ cao ứng dụng trong nông 
nghiệp. Văn bản này đã xác định danh mục các 
dự án nông nghiệp sạch bao gồm các dự án đáp 
ứng một trong số các tiêu chí sau: Dự án thực 
hiện tại các cơ sở sản xuất kinh doanh được cấp 
giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực 
phẩm; Dự án của doanh nghiệp được cấp giấy 
chứng nhận doanh nghiệp ứng dụng công nghệ 
cao; Dự án sản xuất sản phẩm nông nghiệp 
được cấp giấy chứng nhận VietGAP; Dự án đầu 
tư mới vào sản xuất nông nghiệp sạch áp dụng 
quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt 
cấp quốc gia hoặc quốc tế tương đương 
(VietGAP, GlobalGAP,). 
Theo đó, có thể hiểu nông sản sạch (kết quả 
của sản xuất nông nghiệp sạch) là nông sản an 
toàn được sản xuất tại các cơ sở sản xuất kinh 
doanh đủ điều kiện an toàn thực phẩm; ứng 
dụng công nghệ cao hoặc áp dụng quy trình 
thực hành sản xuất nông nghiệp tốt. Đặc điểm 
chung của nông sản sạch là đáp ứng tốt các yêu 
cầu về an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường và 
sức khỏe cộng đồng. Như vậy, có nhiều cách 
thức khác nhau để sản xuất ra nông sản sạch và 
khái niệm về nông sản sạch hiện nay ở Việt 
Nam vẫn chủ yếu nhấn mạnh đến khía cạnh an 
toàn thực phẩm. 
MHSK được hiểu là hình thức mưu sinh 
của người dân vùng nông thôn ven đô (có 
quyền công dân) có tính phổ biến hoặc cá biệt ở 
một địa bàn nhất định thuộc khu vực ven đô. 
MHSK của cư dân nông thôn ven đô tồn tại 
theo thời gian và không gian (có điều kiện cụ 
thể và tương ứng), có thể thay đổi và không bất 
biến [2, 3]. MHSK phát triển nông sản sạch 
được hiểu là một hệ thống sản xuất nông 
nghiệp, tránh hoặc giảm thiểu sử dụng các loại 
phân bón và thuốc trừ sâu tổng hợp, giảm tối đa 
ô nhiễm không khí, đất và nước, mang hình 
thức sản xuất kinh doanh, nhằm tạo ra các sản 
phẩm nông nghiệp sạch, đảm bảo an toàn thực 
phẩm, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của thị trường. 
Tại Hà Nội, MHSK phát triển nông sản sạch đã 
hình thành và phát triển ở một số huyện và tồn 
tại dưới nhiều quy mô khác nhau như hợp tác 
xã, trang trại, công ty hoặc hộ gia đình (cả gia 
trại) trong lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi [2]. 
Hà Nội đã xây dựng 5-10 mô hình sản xuất 
nông nghiệp hữu cơ với quy trình kỹ thuật tiên 
tiến, có sự kiểm soát chặt chẽ và tuân thủ 
nghiêm ngặt các tiêu chuẩn. 100% số hộ dân 
trong vùng quy hoạch sản xuất nông nghiệp hữu 
cơ của thành phố được tập huấn về kỹ thuật, kỹ 
năng, nhận thức hiểu biết về tiêu chuẩn, tiêu chí 
nông nghiệp hữu cơ,... Giai đoạn 2012-2016, 
trên địa bàn Hà Nội có 26 nhóm nông dân (với 
8-10 hộ/nhóm), tổng diện tích sản xuất rau hữu 
cơ đạt 34 ha. Theo Chi cục Bảo vệ Thực vật Hà 
Nội, ngoài sản xuất rau hữu cơ theo các nhóm 
nông dân, một số doanh nghiệp bắt đầu tham 
gia sản xuất rau hữu cơ như: Công ty Việt Liên 
với diện tích sản xuất rau hữu cơ đạt 3 ha trên 
địa bàn quận Long Biên, Công ty Hoa Lâm 
Viên chuyên sản xuất các loại rau bản địa hữu 
cơ [4], Năm 2019, phong trào nông nghiệp 
hữu cơ đã hình thành và phát triển trên địa bàn 
Hà Nội, bước đầu đạt được những thành công 
nhất định. Chẳng hạn như trang trại chăn nuôi 
N.V. Hien et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 10-17 
14 
Bảo Châu (50 tấn thịt lợn/năm), trang trại Hoa 
Viên (150 tấn rau củ quả/năm), Hợp tác xã lúa 
gạo xã Đồng Phú huyện Chương Mỹ (170 tấn 
gạo/năm), [2] 
Đến nay, MHSK phát triển nông sản sạch 
đang dần trở thành một bộ phận quan trọng 
trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta và 
là chiến lược quan trọng trong bối cảnh hội 
nhập quốc tế của đất nước [5]. 
3. Tầm quan trọng của mô hình nông sản 
sạch đối với phát triển bền vững 
3.1. Về kinh tế 
Việc đánh giá vai trò của MHSK phát triển 
nông sản sạch đối với kinh tế đòi hỏi phải dựa 
trên bộ chỉ tiêu. Các chỉ tiêu có thể phản ánh 
hiệu quả của MHSK một cách ổn định (hàm ý 
vững) mà còn thể hiện hiệu quả gia tăng tương 
đối ổn định trong thời gian dài (hàm ý bền). Có 
13 tiêu chí dùng để đánh giá tính bền vững của 
MHSK, gồm: thu nhập bình quân đầu người, 
mức gia tăng của thu nhập bình quân đầu 
người, năng suất lao động của MHSK, tổng vốn 
đầu tư, hiệu suất sử dụng vốn đầu tư, tỷ trọng 
các sản phẩm chính, tổng doanh thu, tỷ suất lợi 
nhuận/doanh thu, tỷ lệ thiệt hại do tác động xấu 
từ bên ngoài (mất đất do đô thị hóa, biến đổi khí 
hậu,), số lao động làm việc tại MHSK, số 
người được nuôi sống bằng MHSK, tỷ lệ nộp 
Ngân sách Nhà nước, chỉ số ô nhiễm môi 
trường [2]. 
Thông qua thu thập và xử lý thông tin số 
liệu thứ cấp từ các báo cáo kinh tế - xã hội của 
thành phố Hà Nội những năm gần đây, tác giả 
đã tổng hợp một số chỉ tiêu hiệu quả phát triển 
của MHSK trong lĩnh vực trồng trọt, so sánh 
với các MHSK trong lĩnh vực khác ở vùng 
nông thôn ven đô Hà Nội (Bảng 1). 
Bảng 1. Tổng hợp các chỉ tiêu hiệu quả phát triển của mô hình sinh kế bền vững (MHSKBV) 
lĩnh vực trồng trọt so với các lĩnh vực khác ở vùng nông thôn ven đô Hà Nội năm 2018 
Chỉ tiêu 
chủ yếu 
Đơn vị 
tính 
MHSKBV 
trồng trọt 
MHSKBV 
chăn nuôi 
MHSKBV 
lâm nghiệp 
MHSKBV 
tiểu thủ công 
nghiệp 
MHSKBV 
thương mại 
MHSKBV 
du lịch 
1. Thu nhập 
bình quân đầu 
người 
106 
đồng 
40,5 48,6 32,1 67,8 59,1 49,2 
2. Năng suất 
lao động 
106 
đồng 
60,2 72,9 48,1 101,7 88,7 73,8 
3. Vốn đầu 
tư/lao động 
106 
đồng 
89,1 87,4 56,9 131,8 93,7 76,2 
4. Tỷ suất lợi 
nhuận/doanh 
thu 
% 4,7 4,9 2,1 6,8 9,4 6,9 
5. Số lao 
động có việc 
làm do các 
MHSKBV* 
103 
người 
511 220 12,5 198 157 39 
6. Tỷ lệ nộp 
ngân sách nhà 
nước trên 
doanh thu 
% - 1,2 - 8,4 8,7 1,8 
Nguồn: Đoàn Hương Mai (2020), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của 
Thành phố Hà Nội các năm 2016, 2017, 2018 [2,4]. 
Ghi chú: Tính số lao động trung bình của loại mưu kế theo từng lĩnh vực năm 2018 (Trồng trọt: 30 hộ/hợp tác 
xã; Chăn nuôi: 18-20 lao động/trang trại; Nông - lâm kết hợp: 70 lao động; Tiểu thủ công nghiệp: cụm công 
nghiệp 75-85 lao động, điểm công nghiệp 16-18 lao động; Thương mại: 6-8 lao động/công ty thương mại; 
Homestay hay tổ du lịch di tích, tâm linh: 3-4 lao động). 
N.V. Hien et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 10-17 
15 
Nhìn chung, MHSK phát triển nông sản 
sạch góp phần quan trọng vào việc phát triển 
kinh tế ở vùng nông thôn ven đô Hà Nội, nhất 
là trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi. Một số 
vùng nuôi trồng thủy sản sạch quy mô lớn tập 
trung tại các huyện Ba Vì, Phú Xuyên đã thu 
hút sự tham gia của hơn 18.000 hộ gia đình. 
Các vùng sản xuất nông nghiệp sạch chuyên 
canh tập trung có hiệu quả kinh tế cao, giá trị 
thu nhập tăng thêm so với sản xuất truyền thống 
từ 25%-30% [4]. Các MHSK này mang lại 
nguồn lợi lớn cho nông dân bằng việc tăng chất 
lượng và năng suất của sản phẩm, tăng cơ hội 
cạnh tranh trên thị trường, từ đó kéo giá thành 
sản phẩm đi lên, giúp người dân vùng nông 
thôn tăng thu nhập và có được niềm tin của 
người tiêu dùng. 
Bảng 2. Đánh giá của người bán về sản lượng tiêu thụ nông sản có nguồn gốc, xuất xứ 
TT Sản phẩm Điểm khảo sát 
Lượng tiêu thụ sản phẩm có nguồn gốc 
Tăng lên Giảm đi Không đổi 
1 Sản phẩm chăn nuôi 28 23 0 0 
2 Cây ăn quả 13 10 0 0 
3 Dược liệu 4 4 0 0 
4 Các loại rau 12 6 0 3 
Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra của Đề tài mã số: 01X-10/05-2018-2, năm 2018, 2019 [2]. 
Thực tế điều tra ở vùng nông thôn ven đô 
Hà Nội cho thấy, phát triển nông sản sạch tăng 
năng suất và chất lượng cao hơn nếu trồng trọt 
theo phương thức truyền thống trong những 
năm thời tiết khắc nghiệt, cũng như trong 
những năm thời tiết bình thường [4]. Theo 
nghiên cứu, người tiêu dùng sẵn sàng trả thêm 
tiền để được sử dụng các loại trái cây sạch, có 
nguồn gốc rõ ràng. Họ sẵn sàng trả giá cao hơn 
giá trái cây hiện tại từ 30-50% để được sử dụng 
trái cây có nguồn gốc rõ ràng, tốt cho sức khỏe. 
Điều này góp phần giúp hoạt động sản xuất và 
doanh thu của sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ 
trọng lớn. Các MHSK này mang lại giá trị kinh 
tế cao, nguồn thu nhập lớn và ổn định trên 
những sản phẩm chất lượng tốt, sạch, an toàn và 
giá cả phải chăng; đồng thời giải quyết công ăn 
việc làm cho phần lớn các lao động, đảm bảo 
năng suất lao động và thu nhập bình quân đầu 
người ổn định. 
3.2. Về xã hội 
Các MHSKBV theo hướng phát triển nông 
nghiệp sạch có những tác động tích cực đến các 
mặt của xã hội như sau: 
- Đáp ứng nhu cầu về lương thực, thực 
phẩm sạch của người tiêu dùng: Tình trạng thực 
phẩm bẩn, thực phẩm không rõ nguồn gốc tràn 
lan, bệnh hiểm nghèo liên quan đến thực phẩm 
bẩn gia tăng khiến người tiêu dùng ngày càng 
quan tâm đến các sản phẩm an toàn cho sức 
khỏe. Sản xuất nông sản sạch là một hướng đi 
đúng đắn đáp ứng nhu cầu lớn của xã hội về 
thực phẩm sạch. Phát triển nông sản sạch là yêu 
cầu và mong muốn của con người trong thời 
điểm hiện tại và tương lai, bởi vì sức khỏe của 
con người trở thành tiêu chí được quan tâm 
hàng đầu. 
- Giải quyết công ăn việc làm cho người 
dân nông thôn, cho các doanh nghiệp: Nhu cầu 
về mặt hàng thực phẩm sạch và an toàn ngày 
càng lớn khiến nhu cầu về nguồn lực lao động 
để sản xuất cũng vì thế mà tăng lên. Việc xây 
dựng các MHSKBV về trồng trọt, đặc biệt là 
nông nghiệp sạch mang lại hiệu quả lớn, sẽ giải 
quyết được tình trạng thiếu việc làm tại các địa 
phương. Không chỉ giải quyết việc làm cho 
người dân, các MHSK này còn giúp các doanh 
nghiệp, hợp tác xã có thể kết nối với người dân, 
dễ dàng trong việc quản lý, liên kết, tạo ra các 
N.V. Hien et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 10-17 
16 
mặt hàng đạt lợi nhuận cao, có chất lượng và 
giá trị. 
- Kết nối các ngành nghề trong xã hội, có ý 
nghĩa về mặt giáo dục và du lịch: Việc ứng 
dụng các MHSK giúp kết nối các đơn vị trường 
học, giáo dục, du lịch trải nghiệm để có thể 
triển khai các tuyến tham quan, chương trình 
giáo dục, tìm hiểu về trồng trọt, nông sản sạch 
nhằm tăng cường quảng bá, nâng cao nhận thức 
và tạo thêm đầu ra cho các sản phẩm. 
- Nâng cao dân trí, đời sống người dân đô 
thị và nông thôn, giảm thiểu các tệ nạn xã hội: 
Nhờ những hiệu quả về mặt kinh tế, nhu cầu 
của người nông dân sẽ ngày càng được đáp 
ứng, kéo theo mức sống và cơ sở hạ tầng được 
cải thiện, đủ điều kiện đáp ứng cho người dân 
vùng nông thôn. Các dịch vụ khám chữa bệnh 
và chăm sóc sức khỏe cũng được tăng cường, 
hệ thống cơ sở hạ tầng giáo dục được đầu tư, 
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở nông 
thôn. Khi thu nhập được cải thiện, đồng nghĩa 
với đời sống của nông dân không ngừng được 
nâng cao hơn, sự tiếp cận các dịch vụ xã hội sẽ 
tốt hơn, nhu cầu về giải trí, giáo dục, nâng cao 
trình độ văn hóa ngày càng lớn. Khi người dân 
nông thôn tham gia sản xuất, họ sẽ có nhiều 
kiến thức trong ngành, đoàn kết giúp nhau làm 
giàu, xây dựng nông thôn mới và tham gia bảo 
đảm các hoạt động văn hóa, xã hội, quốc phòng 
an ninh. Từ đó, các tệ nạn xã hội sẽ giảm mạnh 
hơn nhờ giáo dục ngày càng được nâng cao và 
trình độ quản lý được cải thiện. 
3.3. Về môi trường 
Nền nông nghiệp của nước ta hiện nay đã 
quen với việc sử dụng các loại hóa chất, thuốc 
trừ sâu khiến cho đất bạc màu và bị nhiễm độc, 
từ đó dẫn đến ô nhiễm môi trường. Trong khi 
đó, các MHSK phát triển nông sản sạch là một 
hệ thống quản lý, sản xuất nông sản sạch tránh 
sử dụng các loại phân bón và thuốc trừ sâu tổng 
hợp. Chính vì thế, các MHSK này mang lại ảnh 
hưởng tích cực đến tài nguyên, môi trường: 
- Giảm tác động tiêu cực đến môi trường so 
với các phương thức sản xuất truyền thống: 
Việc giảm thiểu tối đa sử dụng hóa chất độc hại 
như thuốc trừ sâu, phân bón hóa học, thuốc bảo 
vệ thực vật sẽ giúp giảm thiểu các tác động 
tiêu cực của hoạt động sản xuất đến môi trường 
đất, nước, không khí. 
- Giảm sử dụng quá mức hóa chất độc hại là 
cơ hội cho phát triển các sản phẩm bản địa và 
đặc sản: Phát triển nông sản sạch nhờ sử dụng 
phân bón hữu cơ còn giúp bảo vệ môi trường, 
duy trì đa dạng sinh học và độ phì nhiêu đất; 
Tăng cường sử dụng các nguồn phân hữu cơ, 
phân xanh, giảm nguy cơ ô nhiễm đất và nước, từ 
đó tạo cơ hội phát triển cho các loài và các giống 
bản địa, giúp phát triển đặc sản địa phương. 
- Góp phần cải tạo thảm thực vật của đất, 
bảo tồn thế giới tự nhiên: Sử dụng phân bón 
hữu cơ vừa cung cấp các chất dinh dưỡng đa, 
trung và vi lượng cho cây trồng, vừa cung cấp 
cho đất một lượng mùn lớn giúp đất tơi xốp và 
duy trì sự hoạt động của các sinh vật và vi sinh 
vật trong đất. Các chất dinh dưỡng trong phân 
hữu cơ được chuyển đổi từ những thành phần 
dễ phân hủy trong nguyên liệu hữu cơ như chất 
xơ, tinh bột, protein, amino axit, Do vậy, 
phân hữu cơ dễ dàng tác động vào quá trình 
sinh trưởng, phát triển của cây trồng, tạo ra các 
sản phẩm nông sản chất lượng cao, đồng thời 
góp phần cải tạo thảm thực vật của đất. 
4. Kết luận 
Nhìn chung, MHSKBV là loại hình sinh kế 
hiệu quả ổn định trong thời gian dài, không chỉ 
nâng cao thu nhập cho những người tham gia 
sinh kế mà còn đóng góp cho sự phát triển của 
xã hội, cộng đồng cũng như phát triển kinh tế - 
xã hội bền vững của huyện và thành phố. Mô 
hình nông sản sạch giữ vai trò quan trọng đối 
với quá trình phát triển bền vững, đem lại lợi 
ích lớn về mặt kinh tế - xã hội, giúp tăng nguồn 
thu nhập, cải thiện đời sống của người dân, 
nâng cao dân trí. Mô hình có những tác động 
tích cực tới tài nguyên, môi trường, đảm bảo 
sức khỏe người dân và giúp nông sản Việt Nam 
có vị trí cao trên thế giới. 
Lời cảm ơn 
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Sở Khoa 
học và Công nghệ Thành phố Hà Nội, với đề tài 
có mã số 01X-10/05-2018. 
N.V. Hien et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 10-17 
17 
Tài liệu tham khảo 
[1] D.P. Hai, “Theoritical Analyses on Sustainable 
Development and Green Economy in Vietnam”, 
VNU Journal of Science: Policy and Management 
Studies 34(2) (2018) 1-7 (in Vietnamese). 
[2] D.H. Mai, Report on Results of Science and 
Technology “Research on building sustainable 
livelihood models associated with urbanization 
and climate change in the rural areas of Hanoi”, 
code: 01X-10/05-2018-2, 2020 (in Vietnamese). 
[3] N.D.H. Pho, “Accessing the Theory of the 
Sustainable Livelihoods Framework DFID for 
Studying the Livelihoods at Cat Tien National 
Park”, Journal of Science - Dong Nai University 2 
(2016) 101-112 (in Vietnamese). 
[4] Report on socio-economic situation of Hanoi city 
in 2016, 2017 and 2018 (in Vietnamese). 
[5] M.T.T. Xuan, D.T.T. Hien, “Developing 
Household Economy in Vietnam”, VNU Journal 
of Science: Economics and Business 29(3) (2013) 
1-9 (in Vietnamese). 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
tam_quan_trong_cua_viec_phat_trien_mo_hinh_nong_san_sach_doi.pdf