Kỹ thuật phối hợp PNL với soi niệu quản
ngược dòng (URS)
Dùng máy soi niệu quản mềm phối hợp với
laser holmium:YAG (Marguet(12), Landman(10)).
Dùng máy soi niệu quản mềm soi ngược dòng
tiếp cận sỏi san hô. Tán và lấy ra một phần sỏi
nhằm làm sỏi nhỏ bớt, thì làm PNL sẽ giảm
được số đường hầm vào thận, thường chỉ cần
một đường hầm vào cực dưới thận. Đây là kỹ
thuật rất hiện đại. Chúng tôi không có phương
tiện và kinh nghiệm áp dụng kỹ thuật này.
Một số kỹ thuật khác(5)
“Pass the ball”: dùng máy soi mềm phối hợp
qua 2 ngã ngược dòng và qua da, kỹ thuật chọc
dò đài thận có sạn (không nong đường hầm) và
bơm nước đẩy sạn ra, .
Máy tán sỏi: Chúng tôi chỉ có máy tán sỏi
xung hơi. Đối với sỏi san hô cứng hoặc lớn
việc tán sỏi lâu với máy xung hơi có thể làm
tăng tỉ lệ biến chứng chảy máu, nhiễm
trùng, .Mảnh sỏi nhỏ có thể sót lại vì không
có bộ phận hút. Để khắc phục, chúng tôi dùng
kỹ thuật bơm rửa xoang thận bằng một ống
oxy số 16 đặt vào bao Amplatz(16). Các tác giả
dùng các loại máy tán sỏi hiện đại như
Cyberwand(5), holmium:YAG laser(12,22), máy
tán sỏi siêu âm, .có tác dụng đối với sỏi
cứng và có bộ phận hút liên tục mảnh sỏi vụn.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 341 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tán sỏi thận qua da trong sỏi thận san hô, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Thận Niệu 86
TÁN SỎI THẬN QUA DA TRONG SỎI THẬN SAN HÔ
Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng*, Trần Thanh Nhân*, Lê Anh Tuấn*,
Chung Tuấn Khiêm*, Vũ Lê Chuyên*, Nguyễn Việt Cường**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Phẫu thuật tán sỏi thận qua da đã thành thường quy tại Khoa-Bộ môn Tiết niệu bệnh viện
Bình Dân. Bài viết này giới thiệu loạt 28 bệnh nhân sỏi san hô thận được áp dụng kỹ thuật mổ này tại Trung tâm
của chúng tôi.
Tư liệu và phương pháp nghiên cứu: Trong thời gian từ tháng 12/2006 đến 3/2011 tại Khoa Niệu C bệnh
viện Bình Dân đã phẫu thuật tán sỏi qua da cho 28 bệnh nhân với sỏi san hô / bán san hô thận. Sau khi gây mê
bệnh nhân được soi bàng quang để đặt thông niệu quản vào bể thận. Sau đó bệnh nhân được đặt nằm sấp để tạo
đường hầm vào thận bằng kỹ thuật nong đường hầm biến đổi riêng với chọc dò đài thận dùng đường vào trên
hoặc dưới sườn 12, dưới C-arm. Sau khi nong tạo đường hầm sẽ soi thận và tán sỏi bằng máy tán sỏi xung hơi
rồi gắp mảnh sỏi bằng kềm. Đặt thông mở thận ra da. Đánh giá kết quả sớm ngay sau mổ bằng phim KUB và /
hoặc siêu âm.
Kết quả: Có 20 bệnh nhân nam (71,4%) và 8 nữ (28,6%), tuổi trung bình: 48,4 (28-62). Tám bệnh nhân
mổ bên phải (28,6%), 20 mổ bên trái (71,4%). Hai trường hợp sạn tái phát (7,1%), 26 sạn mổ lần đầu (92,9%).
Kích thước sạn trung bình: 31,4 mm (20-43). Mười tám trường hợp sạn san hô toàn phần (64,3%), 10 trường
hợp sạn bán san hô (35,7%). UIV trước mổ tất cả các trường hợp chức năng thận đều tốt, 3 trường hợp thận
không ứ nước (10,7%), 15 thận ứ nước độ I (53,6%), 9 thận ứ nước độ II (32,1%), 1 thận ứ nước độ III (3,6%).
Sáu trường hợp dùng đường vào trên sườn (21,4%), 20 dùng đường vào dưới sườn (71,4%), 2 trường hợp phối
hợp đường trên và dưới sườn với 2 đường hầm riệng biệt (7,1%). Hai mươi lăm trường hợp chỉ tạo một đường
hầm (89,3%), 3 trường hợp phải tạo 2 đường hầm riêng biệt (10,7%). Năm trường hợp vào đài trên thận
(17,9%), 11 vào đài giữa (39,3%), 9 vào đài dưới (32,1%), 2 kết hợp đài giữa và đài dưới (7,1%), 1 kết hợp đài
trên và đài dưới (3,6%). Thời gian mổ trung bình: 98,3 phút (60-180). Lượng máu mất trung bình: 308,3 mL
(100-800). Thời gian rút thông thận trung bình: 5 ngày (3-10). Thời gian nằm viện sau mổ trung bình: 5,2 ngày
(3-10). Bốn trường hợp chảy máu lúc mổ (14,3%) trong đó 1 trường hợp chảy máu nặng phải dừng phẫu thuật.
Hai trường hợp phải truyền máu sau mổ (7,1%). Kết quả điều trị sỏi ngay sau mổ: tốt (sạch sỏi): 14 (50%), khá
(còn mảnh sỏi 5mm, nhiều mảnh): 8 (28,6%), trong đó 4 trường
hợp được tán sỏi ngoài cơ thể sau mổ 1 tháng, 3 trường hợp được soi thận lần hai sau 1-2 tuần, 1 trường hợp
được soi thận lần hai và tán sỏi ngoài cơ thể bổ sung.
Kết luận: Tán sỏi thận qua da trong sỏi san hô thận là một kỹ thuật khá phức tạp. Kết quả ban đầu của
chúng tôi là đáng khích lệ và kết quả này khả quan hơn khi phối hợp với tán sỏi ngoài cơ thể. Tán sỏi thận qua da
hoàn toàn có thể trở thành một lựa chọn thay thế cho mổ mở trong sỏi thận san hô trong tương lai gần trong điều
kiện Việt Nam.
Từ khóa: Tán sỏi qua da, Sỏi san hô, Kỹ thuật nong đường hầm biến đổi
* Khoa Niệu C, Bệnh Viện Bình Dân, TP Hồ Chí Minh.
** Khoa Tiết niệu, bệnh viện Quân Y 175
Tác giả liên lạc: Ts.Bs. Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng ĐT: 0913719346 Email: npchoang@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 87
ABSTRACT
PERCUTANEOUS NEPHROLITHOTOMY FOR STAGHORN CALCULI
Nguyen Phuc Cam Hoang, Tran Thanh Nhan, Le Anh Tuan, Chung Tuan Khiem, Vu Le Chuyen,
Nguyen Viet Cuong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 3 - 2011: 86 - 93
Background: Percutaneous nephrolithotomy (PNL) is now performed routinely at the Department of
Urology of Binh Dan hospital. This paper is to introduce our recent series of 28 patients with staghorn calculi
undergoing PNL in our centre.
Materials and Methods: From December 2006 to March 2011 we performed PNL for 28 patients having
partial / complete staghorn calculi. After general anesthesia, the patient had a cystoscopy for a ureteral catheter
placement. Then he was placed into prone position for tract dilation using our modified technique, with
supracostal or subcostal access under C-arm. After tract dilation, nephroscopic stone fragmentation using
pneumatic lithotriptor and fragments removal using forceps were performed. Placement of a nephrostomy tube at
the end of procedure. Postoperative outcomes were assessed with a KUB and / or ultrasonography on discharge.
Results: There were 20 male (71.4%) and 8 female (28.6%) patients. Mean age: 48.4 (28-62). Eight patients
(28.6%) had right side stones and 20 (71.4%) had left side stones. Two patients had recurrent stones (7.1%) and
26 had primary stones (92.9%). Mean stone size: 31.4 mm (20-43). Eighteen patients had complete staghorn
calculi (64.3%), 10 patients had partial staghorn calculi (35.7%). Preoperative IVU revealed good renal function
in all cases, 3 cases with no hydronephrosis (10.7%), 15 cases with mild hydronephrosis (53.6%), 9 cases with
moderate hydronephrosis (32.1%) and 1 case with severe hydrpnephrosis (3.6%). Six cases with supracostal
access (21.4%), 20 cases with subcostal access (71.4%), and 2 cases with combined supracostal and subcostal
access with two separate tracts (7.1%). Twenty-five cases with only one tract (89.3%), 3 cases with two separate
tracts (10.7%). Five cases with upper calyx puncture (17.9%), 11 cases with middle calyx puncture (39.3%), 9
cases with lower calyx puncture (32.1%), 2 cases with combined middle and lower calyx puncture (7.1%), 1 case
with combined upper and lower calyx puncture (3.6%). Mean operating time: 98.3 mins (60-180). Mean
estimated blood loss: 308.3 mL (100-800). Nephrostomy tube removal after 5 days (3-10). Postoperative hospital
stay: 5.2 days (3-10). There were 4 cases with important intraoperative bleeding (14.3%) in which one required
stopping the procedure. Two cases required blood transfusion (7.1%). Postoperative outcomes: good (stone-free):
14 cases (50%), pretty good (residual fragments 5mm,
multiple fragments): 8 (28.6%) in which 4 cases had extracorporeal shockwave lithotripsy one month
postoperatively, 3 cases had second look 1-2 weeks postoperatively for removal of residual fragments, 1 case had
second look and extracorporeal shockwave lithotripsy.
Conclusions: PNL for staghorn calculi remains a sophisticated renal procedure. Our initial outcomes were
encouraging and this procedure has more optimistic results when combined with extracorporeal shockwave
lithotripsy. It can become an alternative to open surgery for staghorn calculi in near future in VietNam.
Key words: Percutaneous nephrolithotomy, Staghorn calculi, Modified tract dilation technique.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tán sỏi thận qua da (PNL- Percutaneous
Nephrolithotomy) đã thành thường quy tại
Khoa-Bộ môn Tiết niệu học bệnh viện Bình Dân
trong chiến lược điều trị sỏi đường tiểu trên
bằng phẫu thuật ít xâm lấn(14,21). Nhiều kỹ thuật
trong phẫu thuật này dần đã được hoàn thiện và
áp dụng trong một số trường hợp sỏi phức
tạp(15). Bài viết này giới thiệu loạt 28 bệnh nhân
sỏi san hô thận được mổ PNL tại Trung tâm của
chúng tôi trong thời gian từ tháng 12/2006 đến
tháng 3/2011.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Thận Niệu 88
TƯ LIỆU - PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN
Tư liệu
Tại khoa Niệu C bệnh viện Bình Dân, từ
tháng 12/2006 đến tháng 3/2011có 28 bệnh nhân
sỏi thận bán san hô / san hô được mổ lấy sỏi qua
da. Sỏi tái phát hay sỏi mổ lần đầu.
Phương pháp thực hiện
Chẩn đoán hình ảnh
Siêu âm và UIV: xem kích thước sỏi, độ ứ
nước thận, chức năng thận,làm thường quy
trong tất cả các trường hợp sỏi được can thiệp
phẫu thuật.
CT/MSCT: hiện không là thường qui trong
bệnh lý sỏi được can thiệp tại trung tâm của
chúng tôi. Chỉ thực hiện khi nghi ngờ có bệnh lý
kết hợp (bướu thận, dị dạng bẩm sinh đường
tiểu,)
Xét nghiệm nước tiểu trước mổ
Làm tổng phân tich nước tiểu và cấy nước
tiểu làm kháng sinh đồ. Dùng kháng sinh điều
trị uống 1 tuần trước khi phẫu thuật.
Dụng cụ
Máy soi thận: máy soi cứng, Storz, 26 Fr.,
Bao Amplatz số 28, 30 Fr. (Hình 1.A)
Máy tán sỏi xung hơi, kềm gắp sỏi.
Bộ dụng cụ nong tạo đường hầm: bộ nong
kim loại (Alken), Cook®, hay Webb.
Máy X quang C-arm kỹ thuật số (Hình 1.B)
Kỹ thuật mổ
Gây mê toàn diện bằng ống nội khí quản.
Bệnh nhân nằm thế sản: soi bàng quang để
“monter sonde” niệu quản.
Chọc dò đài thận và tạo đường hầm: sau khi
“monter sonde” niệu quản sẽ đặt bệnh nhân
nằm sấp (Hình 1.C).
A B C
Hình 1: A. Bộ dụng cụ lấy sỏi qua da. B. Máy X quang C-arm. C. Tư thế bệnh nhân nằm sấp
Kỹ thuật chọc dò và nong đường hầm biến đổi riêng của chúng tôi, “mini-lumbotomy” (Hình 2)
A B C D
Hình 2: Kỹ thuật chọc dò và tạo đường hầm biến đổi “mini-lumbotomy”: A. Rạch da 1,5 cm. B. Kéo phẫu thuật
tách cân cơ lưng. C.Ngón tay thám sát mỡ cạnh thận, thận. D. Kim chọc dò luồn vào đường rạch qua Amplatz xẻ
Rạch da dài 1,5 cm ở vị trí da định đâm
kim, dùng kéo phẫu thuật tách cân cơ lưng đến
hết lớp cân ngang, dùng ngón tay thám sát vùng
mỡ cạnh thận, sờ thận. Luồn kim chọc dò vào
đường mở này và dưới hướng dẫn C-arm qua
2 mặt phẳng sẽ chọc dò đài thận đich, đường
vào trên sườn (vào đài trên hoặc đài giữa)
hoặc dưới sườn 12 (vào đài giữa hoặc đài
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 89
dưới). Luồn dây dẫn (guidewire) vào đài bể
thận hoặc niệu quản và tiến hành nong tạo
đường hầm bằng dụng cụ nong.
Trong trường hợp cần thiết sẽ tạo đường
vào cực trên thận (Hình 3) hoặc 2 đường hầm
cực trên và cực dưới, qua 2 đường rạch da
riêng biệt. (Hình 4)
A B C D
Hình 3: Chọc dò và tạo đường vào đài trên. A. Mặt phẳng bên. B. Mặt phẳng trước-sau. C. Nong đường hầm,
dùng kỹ thuật “triangulation”. D. Amplatz soi thận đi từ đài trên xuống
A B C
Hình 4: Kỹ thuật 2 đường hầm. A.B.Nong tạo đường hầm thứ hai. C. Thông dẫn lưu thận sau mổ
Soi và lấy sạn: soi từ đài thận đường vào
vào bể thận. Tán sỏi chỉ dùng máy xung hơi,
gắp sỏi bằng kềm. Nếu dùng đường vào cực
trên sẽ tán và gắp mảnh sỏi từ cực trên thận đi
xuống cực dưới (Hình 5). Kiểm tra dưới C-arm
nếu sạch sỏi sẽ đặt thông Foler 26 Fr. mở thận ra
da.
A B C D
Hình 5: Tán sỏi thận qua da cho sỏi san hô. A. Sỏi san hô toàn phần. B. Nong tạo đường hầm vào đài trên. C. Soi
và lấy sạn đi từ cực trên xuống. D. Sạch sỏi trên C-arm.
Hậu phẫu: Chụp KUB kiểm tra ngày hậu
phẫu 2-3. Nếu sạch sỏi rút thông thận sau 48-72
giờ. Nếu còn mảnh sỏi quan trọng sẽ soi thận
lần hai gắp sỏi hoặc tán sỏi ngoài cơ thể.
KẾT QUẢ
Trong thời gian từ tháng 12/2006 đến 3/2011
có 28 bệnh nhân sỏi san hô / bán san hô thận
được mổ PNL.
Bệnh nhân
1. Giới: 20 nam (71,4%) ; 8 nữ (28,6%)
2. Tuổi trung bình: 48,4 (28-62).
3. ASA: ASA I: 9 (32,1%) ; ASA II: 16
(57,1%); ASA III: 3 (10,7%)
Sạn
1. Sạn bên trái: 20 (71,4%) ; Sạn bên phải: 8
(28,6%)
2 Sạn tái phát: 2 (7,1%), sạn mổ lần đầu: 26
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Thận Niệu 90
(92,9%).
3. Kích thước sạn trung bình (mm): 31,4 mm
(20-43).
4. Hình thức sạn: Sạn bán san hô: 10 (35,7%);
Sạn san hô toàn phần: 18 (64,3%).
5. UIV: Thận không ứ nước: 3 (10,7%) ; Thận
ứ nước độ I: 15 (53,6%) ; Thận ứ nước độ II: 9
(32,1%), thận ứ nước độ III: 1 (3,6%).
Phẫu thuật
1. Đường vào: Trên sườn: 6 (21,4%) ; Dưới
sườn: 20 (71,4%); Phối hợp trên và dưới sườn (2
đường hầm riêng biệt): 2 (7,1%).
2. Số đường hầm: 1 đường hầm: 25 (89,3%),
2 đường hầm: 3 (10,7%), trong đó 2 trường hợp
đường hầm vào đài giữa và dưới, 1 trường hợp
vào đài trên và dưới.
3. Đài thận đường vào: Đài trên: 5 (17,9%);
Đài giữa: 11 (39,3%); Đài dưới: 9 (32,1%); Kết
hợp đài giữa-dưới: 2 (7,1%); Kết hợp đài trên-
dưới: 1 (3,6%)
4. Thời gian mổ trung bình (phút): 98,3
(60-180)
5. Lượng máu mất trung bình (mL): 308,3
(100-800).
6. Truyền máu quanh lúc mổ: 2 trường hợp
(7,1%)
7. Tai biến lúc mổ: chảy máu lúc mổ: 4
trường hợp (14,3%), trong đó có 1 trường hợp
chảy máu nặng phải ngưng thủ thuật.
8. Thời gian rút thông thận trung bình
(ngày): 5 (3-10)
9. Nằm viện sau mổ trung bình (ngày): 5,2
(3-10).
10. Kết quả điều trị sỏi ngay sau mổ lần
đầu:
Tốt (sạch sỏi): 14 (50%),
Khá (còn mảnh sỏi < 5mm): 6 (21,4%)
Trung bình (còn mảnh sỏi > 5mm, nhiều
mảnh): 8 (28,6%), trong đó 4 trường hợp được
tán sỏi ngoài cơ thể sau mổ 1 tháng, 3 trường
hợp được soi thận lần hai sau 1-2 tuần, 1 trường
hợp được soi thận lần hai và tán sỏi ngoài cơ
thể. (Hình 6).
11. Điều trị phối hợp: Soi thận lần hai lấy
mảnh sỏi sót (second look): 3 (10,7%).
Tán sỏi ngoài cơ thể bổ sung: 4 (14,3%).
Soi thận lần hai + tán sỏi ngoài cơ thể: 1
(3,6%).
BÀN LUẬN
Chỉ định tán sỏi thận qua da trong sỏi san
hô
Theo AUA guidelines 2005(17) và EAU
guidelines 2008(20), PNL đơn trị là chỉ định hàng
đầu trong điều trị phẫu thuật sỏi san hô thận. Ba
lựa chọn còn lại là phối hợp PNL với tán sỏi
ngoài cơ thể (SWL), SWL đơn trị, phẫu thuật
mở. Phẫu thuật mở hiện nay không còn là “tiêu
chuẩn vàng” trong điều trị sỏi san hô thận, và
chỉ chiếm tỉ lệ < 1% trường hợp. Mổ mở chỉ nên
dành cho một số ít trường hợp sạn san hô thật
lớn và hệ bồn đài thận rất phức tạp.
Phối hợp PNL với SWL (điều trị
“sandwich”): PNL-SWL-PNL được Streem và
cộng sự giới thiệu năm 1987(20), trong đó nhấn
mạnh cơ bản phải dựa trên PNL và PNL phải là
phương pháp điều trị sau cùng. Phương pháp điều
trị phối hợp ngày nay ít được sử dụng vì kết quả
sạch sỏi kém hơn PNL đơn trị dùng các kỹ thuật
cải tiến hơn và nhất là sự phối hợp với soi thận
và niệu quản bằng máy soi mềm(4,9).
Al-Kohlany(1) trong một nghiên cứu tiền cứu
so sánh ngẫu nhiên mổ mở và PNL cho sỏi san
hô toàn phần thấy kết quả sạch sỏi như nhau ở
cả hai nhóm nhưng nhóm phẫu thuật PNL có tỉ
lệ biến chứng trong mổ (chảy máu cần truyền
máu, biến chứng màng phổi, tổn thương niệu
quản) thấp hơn mổ mở. Hơn nữa, nhóm mổ
PNL có thời gian mổ, thời gian nằm viện, thời
gian phục hồi ngắn hơn, chi phí thấp hơn mổ mở.
Trung tâm của chúng tôi đã áp dụng PNL từ
năm 1997 nhưng chủ yếu cho các trường hợp sỏi
thận không quá phức tạp(14,21). Thời gian gần
đây, PNL được áp dụng cho một số trường hợp
sỏi phức tạp hơn như sỏi đài trên, sỏi trong túi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 91
ngách đài thận, sỏi cực dưới phức tạp, nhưng
còn ít các trường hợp sỏi san hô (chỉ 4/20 trường
hợp)(15). Số liệu của Phòng kế hoạch tổng hợp
cho thấy trong thời gian từ 12/2006 đến 3/2010
tại bệnh viện Bình Dân số bệnh nhân sỏi san hô
thận được mổ là 324, trong đó số ca PCNL chỉ là
16 (4,9%), số ca mổ mở là 308 (95,1%)(16). Như
vậy phẫu thuật sỏi san hô tại Trung tâm của
chúng tôi chủ yếu vẫn là mổ mở.
Kỹ thuật nong đường hầm biến đổi của
chúng tôi
Kỹ thuật chọc dò thận của chúng tôi khác
với các tác giả ở chỗ rạch da trước, tách cân cơ
thành bụng bằng kéo phẫu thuật thông thường.
Luồn kim chọc dò qua Amplatz xẻ đã được đặt
trước vào chỗ tách cân cơ. Ưu điểm: rất an toàn
vì đã thám sát thận-quanh thận bằng ngón tay,
nếu đường vào cực trên thận khi chọc dò sẽ
phối hợp với gây mê bơm bóng làm nở phổi hạ
cơ hoành nên không sợ phạm màng phổi-phổi;
chọc dò chính xác vì kim không đâm qua thành
lưng; thì nong rất an toàn, nhanh chóng, dễ
dàng vì chỉ nong chủ mô thận, không nong thành
lưng. Nhược điểm của kỹ thuật này chỉ là phải
dùng một đường rạch khác nếu đường rạch ban
đầu không ở vị trí chọc kim thích hợp.
Kỹ thuật này chưa từng được đăng tải trong Y
văn trong và ngoài nước.
Các kỹ thuật áp dụng trong lấy sỏi qua da
cho sỏi thận san hô
Kỹ thuật đường vào đài trên
Dùng đường vào trên sườn(7,8) hoặc dưới
sườn.
Lợi điểm của đường vào đài trên: Đài này
thường chỉ có một cổ đài (99%) nên đường chọc
đài trên đồng trục với khúc nối giúp dây dẫn dễ
xuống niệu quản. Đường hầm thẳng dọc theo
trục của thận giúp dễ quan sát đài trên, bể thận,
các đài dưới trước và sau, giúp dễ thao tác máy
soi thận và kềm gắp sạn(7,18).
Nhược điểm của đường vào đài trên: Tỉ lệ
biến chứng ngực cần phải dẫn lưu màng phổi
khi chọc dò trên sườn 12 theo các tác giả là 8-
12%(6). Gupta(8) trong 63 trường hợp đường vào
trên sườn có tỉ lệ biến chứng ngực điều trị bằng
dẫn lưu màng phổi là 11%. Munver(13) có tỉ lệ
biến chứng chung là 16% khi chọc trên sườn so
với chỉ 4,5% khi chọc dưới sườn.
Trong loạt này chúng tôi tạo đường vào đài
trên chỉ trong 5 trường hợp (17,9%); vào đài
giữa: 11 (39,3%), kết hợp đài trên và dưới: 1
(3,6%). Như vậy, trong loạt sỏi san hô này, chủ
yếu chúng tôi dùng đường vào đài giữa. Trong
loạt bệnh nhân trước(15) chúng tôi chủ yếu dùng
đường vào trên sườn đi vào đài trên hoặc đài
giữa thận để xử lý những trường hợp sỏi đài
trên, sỏi túi ngách đài thận có kết quả tốt.
Kỹ thuật nhiều đường hầm
Một số tác giả báo cáo kỹ thuật này như
Aron(2), Desai(5),.trong những trường hợp sỏi
san hô phức tạp. Hiện nay, kỹ thuật nhiều
đường hầm không còn được ưa chuộng vì có tỉ
lệ mất máu cần phải truyền máu cao, tỉ lệ biến
chứng cao(4,9). Thay vào đó, kỹ thuật đường vào
đài trên giúp thám sát đài bể thận tốt hơn và
giúp tăng tỉ lệ sạch sỏi chỉ với một đường hầm
được ưa thích hơn (Wong và Leveillee(22),
Davol(3), Raza(19), Hoàng(15),)
Trong loạt này chúng tôi dùng tối đa 2
đường hầm (3 trường hợp), ít hơn của các tác
giả (Aron: 2-5 đường hầm(2), Desai: 4 đường
hầm(5)). Chúng tôi còn e ngại biến chứng
chảy máu.
Kỹ thuật “angular access” của Liatsikos(11)
Chỉ dùng một đường rạch da, thường
dưới sườn, qua đó sẽ chọc dò cả đài trên,
giữa, dưới. Kỹ thuật này có tỉ lệ sạch sỏi cao
(87%) với chỉ một lần mổ nên được nhiều tác
giả ưa chuộng. Trong loạt này chúng tôi chưa
áp dụng kỹ thuật này.
Kỹ thuật phối hợp PNL với soi niệu quản
ngược dòng (URS)
Dùng máy soi niệu quản mềm phối hợp với
laser holmium:YAG (Marguet(12), Landman(10)).
Dùng máy soi niệu quản mềm soi ngược dòng
tiếp cận sỏi san hô. Tán và lấy ra một phần sỏi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Thận Niệu 92
nhằm làm sỏi nhỏ bớt, thì làm PNL sẽ giảm
được số đường hầm vào thận, thường chỉ cần
một đường hầm vào cực dưới thận. Đây là kỹ
thuật rất hiện đại. Chúng tôi không có phương
tiện và kinh nghiệm áp dụng kỹ thuật này.
Một số kỹ thuật khác(5)
“Pass the ball”: dùng máy soi mềm phối hợp
qua 2 ngã ngược dòng và qua da, kỹ thuật chọc
dò đài thận có sạn (không nong đường hầm) và
bơm nước đẩy sạn ra,..
Máy tán sỏi: Chúng tôi chỉ có máy tán sỏi
xung hơi. Đối với sỏi san hô cứng hoặc lớn
việc tán sỏi lâu với máy xung hơi có thể làm
tăng tỉ lệ biến chứng chảy máu, nhiễm
trùng,.Mảnh sỏi nhỏ có thể sót lại vì không
có bộ phận hút. Để khắc phục, chúng tôi dùng
kỹ thuật bơm rửa xoang thận bằng một ống
oxy số 16 đặt vào bao Amplatz(16). Các tác giả
dùng các loại máy tán sỏi hiện đại như
Cyberwand(5), holmium:YAG laser(12,22), máy
tán sỏi siêu âm,.có tác dụng đối với sỏi
cứng và có bộ phận hút liên tục mảnh sỏi vụn.
A B C
D E F
Hình 6: Sạn thận san hô trái A. KUB. B. UIV. C. KUB sau PNL lần 1. D. KUB sau PNL lần 2. E. KUB sau tán
sỏi (ESWL) bổ sung: sạch sỏi. F. Mảnh sỏi gắp qua da sau PNL lần 1
Bảng đối chiếu thông số của cuộc mổ so với các tác giả
So với các tác giả, kết quả của chúng tôi là rất đáng khích lệ (bảng dưới đây)
Tác giả Số đơn
vị thận
Loại sỏi, Diện
tích sỏi
Kỹ thuật mổ Thời gian
mổ (phút)
Máu mất
(mL)
Tỉ lệ
truyền
máu (%)
Nằm viện
sau mổ
(ngày)
Tỉ lệ sạch
sỏi sau lần
mổ đầu (%)
Wong và
Leveillee, 2002(22)
52 San hô, 67 mm 1 đường vào cực
trên, máy soi thận
mềm, holmium: YAG
laser.
174 238 2,2 2 95
Landman,
2003(10)
9 San hô, bán san
hô
Phối hợp URS với
PNL
186 290 0 3,2 78
Marguet, 2005(12) 7 San hô, 666
mm(2)
Phối hợp URS
(holmium: YAG
laser) với PNL
142 79 - - 71,4
Liatsikos,
2005(11)
100 San hô, bán san
hô
“Angular access” 110 450 45 4,6 87
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 93
Tác giả Số đơn
vị thận
Loại sỏi, Diện
tích sỏi
Kỹ thuật mổ Thời gian
mổ (phút)
Máu mất
(mL)
Tỉ lệ
truyền
máu (%)
Nằm viện
sau mổ
(ngày)
Tỉ lệ sạch
sỏi sau lần
mổ đầu (%)
Aron, 2005(2) 121 San hô lớn, 4,800
mm(2).
Nhiều đường hầm
(2-5)
- - 14,87 - 85
Davol, 2006(3) 43 San hô, bán san
hô
Một đường hầm - - - - 85
Hoàng (loạt này)
2011
28 San hô, bán san
hô, 31,4 mm
Đường vào cực trên,
giữa, 2 đường hầm
98,3 308,3 7,1 5,2 71,4
KẾT LUẬN
Tán sỏi thận qua da trong sỏi san hô thận
là một kỹ thuật khá phức tạp. Kết quả ban đầu
của chúng tôi là đáng khích lệ và kết quả này
khả quan hơn khi phối hợp với tán sỏi ngoài
cơ thể. Tán sỏi thận qua da hoàn toàn có thể
trở thành một lựa chọn thay thế cho mổ mở
trong sỏi thận san hô trong tương lai gần
trong điều kiện Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Al-Kohlany K.M., Shokeir A.A., Mosbah A., Mohsen T, Shoma
A.M., Eraky I., El-Kenawy M. and El-Kappany H.A. (2005):
Treatment of complete staghorn stones: a prospective
randomized comparison of open surgery versus percutaneous
nephrolithotomy. J Urol Vol.173,469–473.
2. Aron M., Yadav R., Goel R. (2005): Multi-tract percutaneous
nephrolithotomy for large complete staghorn calculi. Urol Int;
75(4):327–32.
3. Davol P.E., Wood C., Fulmer B. (2006): Success in treating renal
calculi with single-access, single-event percutaneous
nephrolithotomy: is a routine ‘‘second look’’ necessary? J
Endourol;20(5):289–92.
4. Deane L.A., Clayman R.V (2007): Advances in percutaneous
nephrostolithotomy. Urol Clin N Am 34: 383–395.
5. Desai M (2009): Advanced PCNL. Instructional course in 30th
Congress of the Société Internationale d’Urologie, Nov.,
Shanghai, China.
6. Eichel L. and Clayman R.V (2006): Percutaneous Stone Removal.
Advanced Endourology. The Complete Clinical Guide. Humana
Press Inc., 121-144.
7. Golijanin D., Katz R., Verstandig A., Sasson T., Landau E.H.,
Meretyk S. (1998): The supracostal percutaneous nephrostomy
for treatment of staghorn and complex kidney stones. J
Endourol;12: 403–5
8. Gupta R., Kumar A., Kapoor R., A. Srivastava A. and Mandhani
A. (2002): Prospective evaluation of safety and efficacy of the
supracostal approach for percutaneous nephrolithotomy. BJU
Int, 90,809–813.
9. Healy K.A., Ogan K. (2007): Pathophysiology and Management
of Infectious Staghorn Calculi. Urol Clin N Am 34: 363–374.
10. Landman J., Venkatesh R., Lee D.I., (2003): Combined
percutaneous and retrograde approach to staghorn calculi with
application of the ureteral access sheath to facilitate percutaneous
nephrolithotomy. J Urol; 169:64–7.
11. Liatsikos EN, Kapoor R, Lee B, et al. (2005): ”Angular
percutaneous renal access”. Multiple tracts through a single
incision for staghorn calculous treatment in a single session. Eur
Urol;48(5):832–7.
12. Marguet C.G., Springhart W.P., Tan Y.H. (2005): Simultaneous
combined use of flexible ureteroscopy and percutaneous
nephrolithotomy to reduce the number of access tracts in the
management of complex renal calculi. BJU Int ;96(7):1097–100.
13. Munver R., Delvecchio F.C., Newman G.E., Preminger G.M.
(2001): Critical analysis of supracostal access for percutaneous
renalsurgery.J Urol.; 166: 1242–6.
14. Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng, Đào Quang Oánh, Lê Sỹ Hùng,
Nguyễn Ngọc Tiến, Trần Thượng Phong (2003): Lấy sỏi thận
qua da: kết quả sớm sau mổ qua 50 trường hợp tại bệnh viện
Bình Dân. Y học TP Hồ Chí Minh, Hội nghị KHKT lần thứ 20,
Tập 7,(Phụ bản của số 1), tr. 66-74.
15. Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng, Nguyễn Tuấn Vinh, Vũ Lê Chuyên,
Nguyễn Việt Cường, Dương Xuân Hòa (2010): Lấy sỏi thận qua
da: đường vào cực trên thận với kỹ thuật nong đường hầm biến
đổi. Y học TP Hồ Chí Minh, Hội nghị KHKT bệnh viện Bình Dân,
Tập 14, (Phụ bản của số 1), 2010, tr. 491-99.
16. Panah A., Masood J., Zaman F., Papatsoris A.G., El-Husseiny T.,
Buchholz N (2009): A technique to flush out renal stone
fragments during percutaneous nephrolithotomy J Endourol,
Vol.23, No.1, Jan., Mary Ann Liebert, Inc.pp.5–6
17. Preminger G.M., Assimos D.G., Lingeman J.E., Nakada S.Y.,
Pearle M.S. and J. Stuart Wolf, JR. (2005): AUA guideline on
management of staghorn calculi: diagnosis and treatment
recommendations. J.Urol Vol. 173, June,1991–2000.
18. Raza A., Moussa S., Smith G. and Tolley D.A. (2005): Upper-pole
puncture in percutaneous nephrolithotomy: a retrospective
review of treatment safety and efficacy. BJU Int 101,599–602.
19. Streem S.B G.M, Risius B., Zelch M.G., et al. (1987): Endourologic
‘‘sandwich’’ therapy for extensive staghorn calculi. J Endourol;
1:253.
20. Tiselius H-G., Alken P., Buck C., Gallucci M., Knoll T., Sarica K.,
Türk Chr. (2008): EAU Guidelines on Urolithiasis 2008.
21. Vũ Văn Ty, Nguyễn Văn Hiệp, Vũ Lê Chuyên, Đào Quang
Oánh, Nguyễn Tuấn Vinh, Vĩnh Tuấn, Lê Sỹ Hùng, Nguyễn
Phúc Cẩm Hoàng, Nguyễn Đạo Thuấn (2004): Tình hình lấy sỏi
thận và niệu quản qua da cho 398 bệnh nhân. Y học TP. Hồ Chí
Minh, Số Đặc biệt Hội nghị KHKT bệnh viện Bình Dân, Phụ bản
của Tập 8*(1), tr.237-42.
22. Wong C., Leveillee R.J. (2002): Single upper-pole percutaneous
access for treatment of > or =5-cm complex branched staghorn
calculi: is shockwave lithotripsy necessary? J Endourol; 16(7):477–
81.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tan_soi_than_qua_da_trong_soi_than_san_ho.pdf