Khả năng rút ngắn thời gian làm nghiệm
pháp dung nạp glucose
Để so sánh kết quả đo đường huyết mao
mạch tại thời điểm 90 phút và 120 phút, chúng
tôi tính chỉ số kappa khi so sánh kết quả quan
sát tại thời điểm 90 phút và 120 phút là 0,393,
nghĩa là chưa có sự đồng nhất cao về mặt kết
quả chung. Do đó, tất cả các kết quả tại thời
điểm 90 phút không thể đại diện cho thời điểm
120 phút được. Điều này cũng đã được ghi nhận
trong y văn và nhiều nghiên cứu khác nhau.
Tuy nhiên, khi xét riêng các trường hợp được
đánh giá là bình thường ở phút 90, chúng tôi ghi
nhận có 48 đối tượng nghiên cứu có mức đường
huyết trở về bình thường ở thời điểm này, trong
đó có 93,7% (n=45) đạt giá trị bình thường cho
đến khi thực hiện xong nghiệm pháp (phút 120).
Như vậy, có một tỉ lệ cao các trường hợp có giá
trị bình thường ở phút 90 và duy trì đến phút
120. Do đó, ta có thể cân nhắc đến khả năng rút
ngắn thời gian thực hiện nghiệm pháp glucose
từ 120 phút còn 90 phút dành cho các đối tượng
có kết quả bình thường tại thời điểm 90 phút.
Điều này có ý nghĩa quan trọng vì nó góp phần
giúp ích cho các nhà nghiên cứu lâm sàng, dịch
tễ học và đối tượng tham gia nghiên cứu. Đối
với các nhà nghiên cứu, khi nghiệm pháp được
rút ngắn sẽ góp phần giảm chi phí và thời gian.
Trong nghiên cứu này, 49% (n=48) đối tượng
nghiên cứu được đánh giá bình thường ở phút
thứ 90 nên có thể tiết kiệm đến gần 50% chi phí
cho lần thực hiện cuối cùng trong toàn bộ quá
trình làm nghiệm pháp. Đối với các đối tượng
tham gia sẽ giảm bớt được một lần thực hiện
một kỹ thuật xâm lấn và gây đau, đồng thời
cũng gia tăng sự thoải mái và tiết kiệm thời
gian. Theo kết quả trên, có đến gần 50% các đối
tượng có thể dừng lại tại phút 90. Tuy nhiên, cần
có nhiều nghiên cứu quy mô hơn nữa để xác
định thêm về khả năng và phạm vi rút ngắn thời
gian thực hiện nghiệm pháp.
Chúng tôi cho rằng thời gian 2 giờ cần cho
việc thực hiện nghiệm pháp là khá lâu và là một
trong những rào cản đối với việc ứng dụng
nghiệm pháp này trong khi hiệu quả sàng lọc,
tầm soát của nghiệm pháp này là rất tốt. Chúng
tôi hy vọng khả năng rút ngắn thời gian làm
nghiệm pháp này sẽ giúp giảm bớt rào cản
trong việc ứng dụng để tầm soát tiền đái tháo
đường, góp phần giảm gánh nặng chi phí cho cá
nhân và xã hội.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 232 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tần suất nguy cơ mắc tiền đái tháo đường và khả năng rút ngắn thời gian thực hiện nghiệm pháp dung nạp Glucose, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 3 * 2011
178
Specimens in APTIMA Assays. Volume 45, pages 2434-2438.
3. Koumans EH. (2002). Comparison of Methods for Detection of
Chlamydia trachomatis and Neisseria gonorrhoeae Using
Commercially Available Nucleic Acid Amplification Tests and a
Liquid Pap Smear Medium. Volume 41, Pages 1507-1511.
4. Mahony JB, Song X, Chong S., Faught M., Salonga T., Kapala J.
(2001). Evaluation of the NucliSens Basic Kit for Detection of
Chlamydia trachomatis and Neisseria gonorrhoeae in Genital Tract
Specimens Using Nucleic Acid Sequence-Based Amplification of
16S rRNA. Volume 39, Pages 1429-1425.
5. Nguyễn Hoàng Chương (2005). Xây dựng quy trình PCR phát
hiện papillomavirus (hpv) trong dịch phết âm đạo. Y Học TP.
Hồ Chí Minh, Tập 9, số 1.
6. Whiley PJ, et al (2004). A new confirmatory Neisseria
gonorrhoeae real-time PCR assay DM. targeting the porA
pseudogene.
TẦN SUẤT NGUY CƠ MẮC TIỀN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
VÀ KHẢ NĂNG RÚT NGẮN THỜI GIAN THỰC HIỆN NGHIỆM PHÁP
DUNG NẠP GLUCOSE
Trần Ngọc Thanh*. Nguyễn Thị Lệ**
TÓM TẮT
Mở đầu: Việt Nam nằm trong nhóm nước có tỷ lệ bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) tăng nhanh nhất trên thế
giới. Theo báo cáo của Trung tâm dinh dưỡng TPHCM cho biết, có từ 40 - 50% có biến chứng ở thời điểm chẩn
đoán. Trong đó, số người dưới 30 tuổi mắc bệnh ngày càng gia tăng, thậm chí có những trẻ dưới 10 tuổi cũng
mắc bệnh và như vậy là tỉ lệ mắc tiền ĐTĐ còn cao hơn nữa.. Do đó, việc tầm soát tiền ĐTĐ mang lại một ích
lợi quan trọng trong bối cảnh chưa có nhiều nghiên cứu về vấn đề này. Nghiệm pháp dung nạp glucose đường
uống là một trong ba cách giúp chẩn đoán ĐTĐ và là cách để phát hiện tiền ĐTĐ. Tuy nhiên, thời gian 2 giờ cần
cho việc thực hiện nghiệm pháp là khá lâu và là một trong những rào cản đối với việc ứng dụng nghiệm pháp này
trong thực tế nên cần thiết phải đánh giá khả năng cải tiến.
Mục tiêu: Xác định tần suất rối loạn dung nạp glucose và khả năng rút ngắn thời gian thực hiện nghiệm
pháp dung nạp glucose.
Đối tượng - phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang trên 98 học viên đến thực tập tại Bộ môn
sinh lý học – Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả: Tần suất rối loạn dung nạp glucose (tiền đái tháo đường) là 26,5%. Tần suất rối loạn dung nạp
glucose có liên quan với tiền căn gia đình mắc tiền đái tháo đường hoặc đái tháo đường. (RR= 2,69), với việc chơi
thể thao (RR= 3,23); Ghi nhận tần suất này có gia tăng theo tuổi. Có khả năng rút ngắn thời gian thực hiện
nghiệm pháp dung nạp glucose dành cho các đối tượng có kết quả bình thường tại thời điểm 90 phút và tỉ lệ
trường hợp có thể được rút ngắn là 49%.
Từ khóa: nghiệm pháp dung nạp glucose, đường huyết lúc đói, tiền đái tháo đường, rối loạn dung nạp
glucose.
ABSTRACT
PREVALENCE OF PRE-DIABETES BY ORAL GLUCOSE TOLERANCE TEST AND THE
PROBABILITY OF SHORTERNING TEST TIME
Tran Ngoc Thanh, Nguyen Thi Le * Y hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 – No. 3 – 2011: 176 - 182
Background: Vietnam is one of the most increasing prevalence of diabetes mellitus countries. According to
HCMC Center for Nutrition, approximately 40-50% diabetes patients have had complications at diagnosis. The
number of under 30 year old patients is increasing with pre-diabetes. Therefore, screening and defining the
* Bộ moân Sinh Lí Học, Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch, ** Bộ moân Sinh Lí Học, Đại Học Y Dược TP.HCM.
Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Thị Lệ ĐT: 0903311507. Email: bs.nguyenthile@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
179
prevalence of pre-diabetes are very important while there are few studies about it in Vietnam. Oral glucose
tolerance test (OGTT)is one of the ways to diagnose diabetes diseases and pre-diabetes. 2-hour test time is too long
for using this test in community and needs to be improved.
Objective: To define the prevalence of pre-diabetes by using OGTT and to evaluate the probability of
shortening test time.
Method: Cross-sectional study on 98 students practicing at Department of Physiology in the University of
Medicine and Pharmacy at HCMC.
Results: The prevalence of impaired glucose tolerance (pre-diabetes) by using OGTT was 26.5%. There were
correlations between this prevalence and family history of pre-diabetes, diabetes (RR=2.69) and state of playing
sport (3.23). We also noted that the higher age was, the higher this prevalence was. This study showed that there
was a probability of shortening test time and this might be used for people having normal result at 90th minute of
test. The prevalence of people who can be stopped at 90th minute of test was 49%.
Key words: oral glucose tolerance test, fasting glucose test, pre-diabetes, impaired glucose tolerance.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường (ĐTĐ) là một rối loạn
chuyển hóa do nhiều nguyên nhân phức tạp.
Hậu quả của ĐTĐ là những tổn thương kéo
dài, rối loạn và suy chức năng của các cơ
quan khác nhau(3,19). Hiện trên toàn thế giới có
khoảng 180 triệu người mắc bệnh ĐTĐ. Tổ
chức y tế thế giới (World Health Organization
– WHO) dự báo đến năm 2030, con số này sẽ
tăng lên 366 triệu người. Với tỷ lệ tăng từ 8-
20% mỗi năm, Việt Nam nằm trong nhóm
nước có tỷ lệ bệnh ĐTĐ tăng nhanh nhất trên
thế giới(11). Theo báo cáo của Trung tâm dinh
dưỡng TPHCM, có từ 40 - 50% bệnh nhân
ĐTĐ có biến chứng ở thời điểm chẩn đoán,
nguyên nhân chính là do bệnh được phát hiện
muộn(5). Tỉ lệ mắc ĐTĐ còn cao, tỉ lệ phát hiện
muộn còn nhiều đã làm gia tăng thêm gánh
nặng cho bản thân người bệnh và xã hội. Mặt
khác, trong tình hình phát triển của nền kinh
tế hiện nay, chế độ dinh dưỡng nhiều chất
béo, thừa năng lượng, thiếu vận động và béo
phì, đây cũng là nguyên nhân gia tăng bệnh
ĐTĐ ở người trẻ(12), số người dưới 30 tuổi mắc
bệnh ngày càng gia tăng(15) và như vậy là tỉ lệ
mắc tiền ĐTĐ còn cao hơn nữa. Tuy nhiên, có
thể ngăn ngừa hoặc làm chậm quá trình tiến
triển tiền ĐTĐ thành ĐTĐ týp 2, và thậm chí
có thể trở lại mức đường huyết bình
thường(10,12). Do đó, việc tầm soát tiền ĐTĐ
mang lại một ích lợi quan trọng trong bối
cảnh chưa có nhiều nghiên cứu về vấn đề này.
Nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống
là một trong ba cách giúp chẩn ĐTĐ và cũng
là cách để phát hiện tiền ĐTĐ(7).
Mục tiêu đề tài
Xác định tần suất rối loạn dung nạp glucose
và khả năng rút ngắn thời gian thực hiện
nghiệm pháp dung nạp glucose.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Gồm 98 học viên đến thực tập tại Bộ môn
sinh lý học – Đại học Y Dược thành phố Hồ
Chí Minh.
Tiêu chuẩn thu nhận(13)
Có chế độ ăn không giới hạn (trong đó chứa
ít nhất 150g carbohydrate mỗi ngày) trong ít
nhất 3 ngày và có hoạt động thể lực trước khi
thực hiện nghiệm pháp.
Ngưng đưa năng lượng vào cơ thể tối thiểu
8 giờ trước khi thực hiện nghiệm pháp (kể cả
việc hút thuốc lá và dùng cà phê).
Có thể tham gia thực hiện nghiệm pháp một
cách liên tục trong thời gian là 2 giờ buổi sáng.
Hoàn toàn khỏe mạnh và không có dấu hiệu
lo lắng hay có thai.
Tiêu chuẩn loại trừ
Người có bệnh lý hoặc đang điều trị bệnh lý
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 3 * 2011
180
nội, ngoại khoa.
Đang dùng thuốc thiazide, thuốc ngừa
thai đường uống, các corticoteroid hoặc
các thuốc khác được biết là có ảnh hưởng
đến glucose máu.
Người nghiện cà phê, thuốc lá.
Bệnh nhân không thu thập đủ chỉ tiêu theo
thiết kế nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu – cắt
ngang mô tả.
Cỡ mẫu(6,9)
Cỡ mẫu được tính theo công thức:
Z21-α/2 P (1 - P)
n = d2
Với α = 0,05, Z = 1,96 giá trị tại độ tin cậy
95%, P = 0,65 tỷ lệ ước đoán, d = 0,05
Cỡ mẫu cần cho nghiên cứu này là n = 91
Trong đó p = 0,65 là tỷ lệ ước đoán dựa vào
kết quả nghiên cứu của Levent Odemir và cs.(12).
Quy trình nghiên cứu
Tất cả các đối tượng được nghiên cứu sẽ
được hướng dẫn các nội dung cần tuân thủ.
Các đối tượng thỏa các điều kiện sẽ được
thu thập các thông tin cơ bản, nhân trắc và các
thông tin về yếu tố nguy cơ của đái tháo đường,
giải thích lại quy trình lấy mẩu và ghi lại kết quả
thực hiện.
Đo huyết áp
Phân loại huyết áp theo tiêu chuẩn JNC VII.
Tính chỉ số khối cơ thể (BMI)
Tính BMI theo tiêu chuẩn của hiệp hội đái
tháo đường Đông Nam Á.
Đánh giá kết quả đo đường huyết(8,13)
Đối tượng được chẩn đoán là có mắc tiền đái
tháo đường khi kết quả thực hiện đo:
- Glucose lúc đói là trong khoảng ≥ 100
mg/dl đến < 126 mg/dl (5,6-7,0 mmol/l)
- Hoặc nghiệm pháp dung nạp glucose bằng
đường uống từ ≥ 140mg/dl đến < 200 mg/dl. (7,8-
11,1 mmol/l) và đường huyết lúc đói < 126 mg/dl
(7,0 mmol/l)
Nồng độ glucose máu toàn phần thấp hơn
nồng độ glucose máu huyết thanh khoảng từ
10% đến 12%. Do đó, các đối tượng có kết quả
đo glucose máu mao mạch có giá trị đường
huyết ngoài mức bình thường sẽ được đánh
giá là có nguy cơ mắc tiền đái tháo đường
hoặc đái tháo đường.
Xử lý số liệu
Phân tích số liệu: phần mềm EXCEL 2007 và
SPSS 16.0
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chúng tôi tiến hành chọn 98 học viên trên
114 học viên được mời vào nghiên cứu
(đạt 92%).
Tần suất nguy cơ mắc tiền đái tháo đường
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tần suất
nguy cơ mắc tiền đái tháo đường tại thời điểm
đo đường huyết lúc đói (lúc 0 phút) là 23,5%,
không phát hiện trường hợp nào có đái tháo
đường. So với kết quả đường huyết sau thực
hiện nghiệm pháp dung nạp glucose (lúc 120
phút), tần suất này là 26,5% và cũng không phát
hiện trường hợp nào có đái tháo đường.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
181
Bảng 1. Tần suất nguy cơ mắc tiền đái tháo đường
và tuổi
Tuổi
Kết quả
21-30 31-40 41-50 > 50 Tổng
Dung nạp bình
thường
25
77,3%
45
73,8%
2
66,7%
0
0%
72
73,5%
Tiền đái tháo
đường
7
22%
16
26,2%
1
33,3%
2
100%
26
26,5%
Tổng 32
100%
61
100%
3
100%
2
100%
98
100%
Tần suất nguy cơ mắc tiền đái tháo đường
tăng theo tuổi, chưa tìm thấy sự liên quan có ý
nghĩa thống kê giữa tần suất mắc tiền đái tháo
đường (χ2 = 3,01, p=0,39).
Bảng 2. Tần suất nguy cơ mắc tiền đái tháo đường
và giới
Giới
Kết quả
Nam Nữ Tổng
Dung nạp bình thường 33
76,7%
39
70,9%
72
73,5%
Tiền đái tháo đường 10
23,3%
16
29,1%
26
26,5%
Tổng 43
100%
55
100%
98
100%
Chưa tìm thấy sự liên quan có ý nghĩa thống
kê giữa tần suất mắc tiền đái tháo đường và giới
trong nghiên cứu này (χ2 = 0,271, p=0.672)
Bảng 3. Tần suất nguy cơ mắc tiền đái tháo đường với tiền căn hút thuốc lá, cà phê và gia đình
Hút thuốc lá Cà phê Gia đình (mắc ĐTĐ hoặc tiền ĐTĐ)
Kết quả Không hút Có hút Tổng Không dùng Có dùng Tổng Không có Có Tổng
Dung nạp bình
thường
59
69,5%
13
100%
72
73,5%
36
67,9%
36
80%
72
73,5%
66
78%
6
46,2%
72
73,5%
Tiền đái tháo
đường
26
30,5%
0
0%
26
26,5%
17
30,5%
9
20%
26
26,5%
19
20%
7
53,8%
26
26,5%
Tổng 85
100%
13
100%
98
100%
53
100%
45
100%
98
100%
85
100%
13
100%
98
100%
Không có sự liên quan có ý nghĩa thống kê
giữa tần suất mắc tiền đái tháo đường với thuốc
lá (χ2 = 3,734, p=0.672), cà phê (χ2 = 1,482,
p=0.223) nhưng có sự liên quan với tiền căn gia
đình (χ2 = 4,508, p=0.034) (RR=2.69)
Bảng 4. Tần suất nguy cơ mắc tiền đái tháo đường với hoạt động thể lực, BMI và tình trạng huyết áp
Thể dục BMI Huyết áp Thể dục
Kết quả Không Có < 18.5 18.5-22.9 23- 24.9 ≥ 25 Bình thường Không bình thường
Dung nạp
bình thường
46
66,7%
26
89,7%
8
72,8%
46
75,4%
8
58,2%
10
83,3%
43
81,1%
29
89,7%
Tiền đái
tháo đường
23
33,3%
3
10,3%
3
27,2%
15
24,6%
6
42,8%
2
16,7%
10
18,9%
16
35,5%
Tổng 69
100%
29
100%
11
100%
61
100%
14
100%
12
100%
53
100%
45
100%
Tần suất nguy cơ mắc tiền đái tháo đường
ở nhóm không có chơi hoặc tập luyện thể thao
cao hơn nhóm còn lại (33,3% so với 10,3%).
Có sự liên quan giữa việc chơi thể thao và tần
suất mắc tiền đái tháo đường (χ2 = 4,508,
p = 0,034) (RR = 3,23).
Chưa tìm thấy sự liên quan có ý nghĩa
thống kê giữa tần suất mắc tiền đái tháo
đường và chỉ số khối cơ thể trong nghiên cứu
này (γ= -0,03, p=0,901).
Tần suất nguy cơ mắc tiền đái tháo đường
tăng theo huyết áp, từ 18,9% ở nhóm người có
huyết áp bình thường đến 35,5% ở nhóm người
có huyết áp vượt mức bình thường (tiền tăng
huyết áp và tăng huyết áp). Chưa tìm thấy sự
liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tần suất mắc
tiền đái tháo đường và huyết áp trong nghiên
cứu này (χ2 = 2,378, p=0,123).
Khả năng rút ngắn thời gian làm nghiệm
pháp dung nạp glucose
Có 48 đối tượng nghiên cứu có mức đường
huyết trở về bình thường ở phút thứ 90, trong
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 3 * 2011
182
đó có 93,7% (n=42) đạt giá trị bình thường cho
đến khi thực hiện xong nghiệm pháp. Chỉ số
kappa khi so sánh kết quả quan sát tại thời điểm
90 phút và 120 phút là 0,393.
Kết quả ở phút 90
Dung nạp
bình
thường
Dung nạp
bất
thường
Tổng
Dung nạp bình
thường
45
93,7%
27
54%
72
73,5%
Kết quả
ở phút
120 Dung nạp bất
thường
03
6,3%
23
46%
26
26,5%
Tổng 48
100%
50
100%
98
100%
BÀN LUẬN
Tần suất nguy cơ mắc tiền đái tháo đường
Tần suất nguy cơ
Tỉ lệ nguy cơ mắc tiền đái đường trong mẫu
nghiên cứu tại thời điểm 0 phút là 23,5%, không
ghi nhận trường hợp nào có đái tháo đường.
Sau khi thực hiện xong nghiệm pháp, chúng tôi
xác định được tần suất nguy cơ mắc tiền đái
tháo đường là 26,5%. Tần suất này tăng lên do
có một số đối tượng được đánh giá là bình
thường tại thời điểm 0 phút và có kết quả ngược
lại sau 120 phút thực hiện nghiệm pháp. Điều
này cũng phù hợp với những ghi nhận trong y
văn về đánh giá hiệu quả của nghiệm pháp
dung nạp glucose(8,13). Do đó, trong thực hành
tầm soát tiền đái tháo đường cho các đối tượng
nguy cơ cao trong cộng đồng, nghiệm pháp
dung nạp glucose vẫn còn cần thiết. So với báo
cáo của Trần Văn Bình(16), năm 2002, nghiên cứu
đầu tiên về mật độ phân bố của đái tháo đường
(ĐTĐ) tại bệnh viện nội tiết trung ương cho thấy
mật độ này tại nông thôn là 2,7% và thành thị là
4,4%. Đến 2006, mật độ phân bố bệnh này là
2,6%, tỉ lệ rối loạn dung nạp glucose là 7,3%.
Năm 2007, theo báo cáo của Sở Y Tế tỉnh Bình
Định, rối loạn đường huyết lúc đói 20,34%, rối
loạn dung nạp Glucose 11,07%. Năm 2009, Lê
Quang Minh, Phạm Thị Hồng Vân, Nguyễn
Minh Tuấn phát hiện 18,9% có rối loạn dung
nạp glucose máu; 24,9% rối loạn glucose máu
lúc đói; 22% nam giới và 17% nữ có rối loạn
dung nạp glucose máu(4).
Tần suất nguy cơ tiền đái tháo đường và một
số yếu tố liên quan
Về tiền căn gia đình, chúng tôi ghi nhận tần
suất nguy cơ mắc tiền đái tháo đường ở nhóm
có tiền căn gia đình (cha mẹ, anh chị em ruột,
con ruột) mắc tiền đái tháo đường hoặc đái tháo
đường cao hơn nhóm còn lại (53,8% so với 20%).
Có sự liên quan giữa tiền căn gia đình và tần
suất mắc tiền đái tháo đường (χ2 = 4,508,
p=0,034)(RR=2,69). Như vậy, người có tiền căn
gia đình mắc tiền đái tháo đường hoặc đái tháo
đường có nguy cơ mắc tiền đái tháo đường cao
gấp 2,69 lần so với người không có tiền căn này.
Như vậy, tầm soát tiền đái tháo đường cần chú
ý thực hiện ở đối tượng này.
Về vận động thể lực, chúng tôi ghi nhận tần
suất nguy cơ mắc tiền đái tháo đường ở nhóm
không có chơi hoặc tập luyện thể thao hơn
nhóm còn lại (33,3% so với 10,3%). Có sự liên
quan giữa việc chơi thể thao và tần suất mắc tiền
đái tháo đường (χ2 = 4,508, p=0,034)(RR=3,23).
Như vậy, người có lối sống tĩnh tại, không tham
gia các hoạt động hoặc tập luyện thể dục có
nguy cơ mắc tiền đái tháo đường cao gấp 3,23
lần so với người có tham gia các hoạt động này.
Như vậy, tầm soát tiền đái tháo đường cần chú
ý thực hiện ở đối tượng này và khuyến khích
hơn nữa việc tập thể dục.
Về chỉ số khối cơ thể, chúng tôi chưa tìm
thấy sự liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tần
suất mắc tiền đái tháo đường và chỉ số khối cơ
thể trong nghiên cứu này (γ= -0,03, p=0,901)
Về huyết áp, tần suất nguy cơ mắc tiền đái
tháo đường tăng theo tình trạng huyết áp, từ
18,9% ở nhóm người có huyết áp bình thường
đến 35,5% ở nhóm người có huyết áp vượt mức
bình thường (theo JNC VII). Chưa tìm thấy sự
liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tần suất mắc
tiền đái tháo đường và tình trạng huyết áp trong
nghiên cứu này (χ2 = 2,378, p=0,123). Tuy nhiên,
do chúng tôi chỉ tiến hành thu nhận các trường
hợp không dùng thuốc và trong quần thể
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
183
nghiên cứu của chúng tôi đa số là ở mức tiền
tăng huyết áp nên có thể chúng tôi chưa xác
định được mối liên quan giữa tiền đái tháo
đường và tăng huyết áp. Điều này cần được
thực hiện trên một nghiên cứu có quy mô hơn
nữa.
Theo nghiên cứu của Đỗ Thị Tính(2), huyết
áp động mạch, chỉ số khối cơ thể và chỉ số vòng
eo/vòng hông của nhóm ĐTĐ và rối loạn dung
nạp glucose đều cao hơn so với nhóm người
bình thường.
Khả năng rút ngắn thời gian làm nghiệm
pháp dung nạp glucose
Để so sánh kết quả đo đường huyết mao
mạch tại thời điểm 90 phút và 120 phút, chúng
tôi tính chỉ số kappa khi so sánh kết quả quan
sát tại thời điểm 90 phút và 120 phút là 0,393,
nghĩa là chưa có sự đồng nhất cao về mặt kết
quả chung. Do đó, tất cả các kết quả tại thời
điểm 90 phút không thể đại diện cho thời điểm
120 phút được. Điều này cũng đã được ghi nhận
trong y văn và nhiều nghiên cứu khác nhau.
Tuy nhiên, khi xét riêng các trường hợp được
đánh giá là bình thường ở phút 90, chúng tôi ghi
nhận có 48 đối tượng nghiên cứu có mức đường
huyết trở về bình thường ở thời điểm này, trong
đó có 93,7% (n=45) đạt giá trị bình thường cho
đến khi thực hiện xong nghiệm pháp (phút 120).
Như vậy, có một tỉ lệ cao các trường hợp có giá
trị bình thường ở phút 90 và duy trì đến phút
120. Do đó, ta có thể cân nhắc đến khả năng rút
ngắn thời gian thực hiện nghiệm pháp glucose
từ 120 phút còn 90 phút dành cho các đối tượng
có kết quả bình thường tại thời điểm 90 phút.
Điều này có ý nghĩa quan trọng vì nó góp phần
giúp ích cho các nhà nghiên cứu lâm sàng, dịch
tễ học và đối tượng tham gia nghiên cứu. Đối
với các nhà nghiên cứu, khi nghiệm pháp được
rút ngắn sẽ góp phần giảm chi phí và thời gian.
Trong nghiên cứu này, 49% (n=48) đối tượng
nghiên cứu được đánh giá bình thường ở phút
thứ 90 nên có thể tiết kiệm đến gần 50% chi phí
cho lần thực hiện cuối cùng trong toàn bộ quá
trình làm nghiệm pháp. Đối với các đối tượng
tham gia sẽ giảm bớt được một lần thực hiện
một kỹ thuật xâm lấn và gây đau, đồng thời
cũng gia tăng sự thoải mái và tiết kiệm thời
gian. Theo kết quả trên, có đến gần 50% các đối
tượng có thể dừng lại tại phút 90. Tuy nhiên, cần
có nhiều nghiên cứu quy mô hơn nữa để xác
định thêm về khả năng và phạm vi rút ngắn thời
gian thực hiện nghiệm pháp.
Chúng tôi cho rằng thời gian 2 giờ cần cho
việc thực hiện nghiệm pháp là khá lâu và là một
trong những rào cản đối với việc ứng dụng
nghiệm pháp này trong khi hiệu quả sàng lọc,
tầm soát của nghiệm pháp này là rất tốt. Chúng
tôi hy vọng khả năng rút ngắn thời gian làm
nghiệm pháp này sẽ giúp giảm bớt rào cản
trong việc ứng dụng để tầm soát tiền đái tháo
đường, góp phần giảm gánh nặng chi phí cho cá
nhân và xã hội.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 98 học viên đến thực tập
tại Bộ môn sinh lý học – Đại học Y Dược
thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi rút ra
những kết luận sau:
Tần suất rối loạn dung nạp glucose (tiền đái
tháo đường) là 26,5%
- Người có tiền căn gia đình có nguy cơ mắc
tiền đái tháo đường cao gấp 2.69 lần so với
người không có tiền căn này.
- Có sự liên quan giữa việc chơi thể thao và
tần suất mắc tiền đái tháo đường. Người có lối
sống tĩnh tại, không tham gia các hoạt động
hoặc tập luyện thể dục có nguy cơ mắc tiền đái
tháo đường cao gấp 3.23 lần so với người có
tham gia các hoạt động này.
- Ghi nhận tần suất này có gia tăng theo tuổi.
Có khả năng rút ngắn thời gian thực nghiệm
pháp dung nạp glucose dành cho các đối tượng
có kết quả bình thường tại thời điểm 90 phút và
tỉ lệ trường hợp được rút ngắn là 49%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. da Costa Goncalves Torquato MT, Montenegro Junior RM, et al
(2003). Prevalence of diabetes mellitus and impaired glucose
tolerance in the urban population aged 30-69 years in Ribeirao
Preto (Sao Paolo), Brazil. Sao Paolo Med J. 121(6): 224-230.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 3 * 2011
184
2. Đỗ Thị Tính (2004). Tỷ lệ mắc đái tháo đường và giảm dung nạp
glucose tại xã Tân Dân và Thái Sơn huyện An Lão, Hải Phòng.
Tạp chí Y học Việt Nam. Số tháng 11-2004. Tr. 128-132.
3. Khatib OMN (2006). Guidelines for the prevention,
management and care of diebetes mellitus. WHO. Fikra
Advertising Agency, Cairo: 4-7
4. Lê Quang Minh, Phạm Thị Hồng Vân, Nguyễn Minh Tuấn
(2009). Nghiên cứu rối loạn dung nạp Glucose máu và một số
yếu tố liên quan ở các dân tộc tỉnh Bắc Kạn. Luận văn thạc sĩ y
học.
5. Lê Thị Kim Quý (2010). Tài liệu triển khai dự án phòng chống
đái tháo đường ở thành phố Hồ Chí Minh.
6. Levent O, Saniye T, Isilay N, Naim N, Sheher A, Haldun S
(2005). The prevalence of diabetes and impaired glucose
intolerance in Sivas, Central Anatolia, Turkey. Diabetes Care.
Vol 28: 795-798.
7. Meigs JB, et al (2003). The natural history of progession from
normal glucose tolerance to type 2 diabetes in Baltimore
Longitudinal Study of Aging. Diabetes. Vol 52: 1475-1484.
8. New Youth State Departement of Health (2008). Children with
Diabetes – A resource guide for families and schools: 13-14
9. Nguyễn Đỗ Nguyên (2005). Cỡ mẫu. Nguyễn Đỗ Nguyên.
Phương pháp nghiên cứu khoa học: 34-43.
10. Nguyễn Huy Cường, Ruby Trần (2008). Tình trạng tiền đái tháo
đường là gì ?.
tuc/Tinh_trang_tien_dai_thao_duong_la_gi/
11. Phạm Song (2009). Tài liệu hội thảo công bố dự án xã hội hóa
hoạt động truyền thông chương trình mục tiêu quốc gia phòng,
chống bệnh đái tháo đường.
12. Quý Nhân (2010). Trẻ em và bệnh đái tháo đường. Sức khỏe và
Đời sống, 2010 (15/02).
dai-thao-duong.htm
13. Sacks DB (2005). Chapter 25 Carbohydrates. Carl A.Burtis,
Edward R.Ashwood, David E.Bruns. TIETZ Textbook of Clinical
Chemistry and Molecular Diagnostics, 4th edition, pp.837-864.
Saunders.
14. Sở Y Tế Bình Định (2007). Báo cáo tổng kết công tác y tế dự
phòng và phòng chống các bệnh xã hội năm 2007.
15. T.Nga (2009). Bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường đang trẻ
hóa. Sức khỏe và Đời sống, 2009 (26/07),
mac-benh-dai-thao-duong-dang-tre-hoa.htm
16. Trần Văn Bình (2006) Epidemiology of Diabetes in Viet Nam.
Method of treatment and preventive measures. Hanoi: Medical
Publishing House.
17. Trung Tâm Dinh Dưỡng thành phố Hồ Chí Minh (2001). 400
thức ăn thông dụng. Nhà xuất bản Y học, Tp.HCM: 42-44
18. United State Department of Agriculture, Agricultural Research
Service (2005). USDA National Nutrient Database for Standard
Reference, Release 18. Nutrient Data Laboratory Home Page,
19. WHO (2006). Guidelines for the management of hypertension in
patients with diebetes mellitus. WHO. Fikra Advertising
Agency, Cairo: 1-6.
20. Wild S, Roglic G, Green A, Sicree R, King H (2004). Global
Prevalence of Diabetes – Estimates for the year 2000 and
projections for 2030. Diabetes Care, 27: 1047-1053
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tan_suat_nguy_co_mac_tien_dai_thao_duong_va_kha_nang_rut_nga.pdf