Với tỷ trọng khoảng 70% dân số ở
nông thôn, lao động nông nghiệp chiếm
hơn 50% lực lượng lao động xã hội,
đóng góp khoảng 20% GDP. Khu vực
này đang rất cần sự kết hợp hiệu quả từ
các nguồn lực như vốn, KHCN hiện đại,
lao động có tay nghề, trình độ. để tạo
ra sự đột phá. Để hoàn thành thắng lợ
mục tiêu đề ra cần phát huy và nâng cao
sự hợp tác đồng bộ giữa khu vực nhà
nước và tư nhân trong vấn đề chính
sách và trí tuệ, đặc biệt là trong nghiên
cứu và phát triển nhằm tăng cường tối
đa tiềm năng của các dự án nhằm thu
hút nguồn đầu tư dồi dào từ các thành
phần kinh tế trong xã hội và các nước
trên thế giới. Mối quan hệ hợp tác này
sẽ trở thành công cụ đắc lực cho các địa
phương có tiềm năng phát triển nông
nghiệp nói riêng và các nước đang phát
triển có nền kinh tế chủ yếu dựa vào
nông nghiệp nói chung trong công cuộc
phát triển nông nghiệp bền vững, góp
phần xóa đói giảm nghèo và đảm bảo an
ninh lương thực.
11 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 534 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tăng cường thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai thông qua nâng cao hiệu quả hợp tác giữa nhà nước và tư nhân trong nghiên cứu và phát triển (r&d), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
96
TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO LĨNH VỰC
NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI THÔNG QUA
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HỢP TÁC GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ TƯ NHÂN
TRONG NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN (R&D)
Trương Thị Anh Đào1
Vũ Kiến Phúc2
TÓM TẮT
Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là một xu thế tất yếu nhằm tạo
ra những đột phá mới trong sản xuất nông nghiệp và thu hút nguồn vốn đầu tư dồi
dào vào lĩnh vực này. Góp phần vào thành công của mục tiêu này chính là đẩy mạnh
quá trình nghiên cứu và phát triển trong sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh sự hỗ trợ
đáng kể từ các chính sách của Nhà nước, vai trò của các thành phần kinh tế tư nhân
cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Bài viết tập trung phân tích lợi ích mối
quan hệ hợp tác giữa nhà nước và tư nhân trong quá trình thực hiện công tác nghiên
cứu và phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp nhằm góp phần vào công cuộc phát
triển nông nghiệp bền vững và thu hút đầu tư, từ đó, kiến nghị một số giải pháp góp
phần hoàn thiện và nâng cao tính hiệu quả trong phối hợp hoạt động giữa hai đối
tác này.
Từ khóa: Hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, nghiên cứu và phát triển, phát
triển nông nghiệp
1. Đặt vấn đề
Mô hình kinh điển được đưa ra bởi
Lewis (1954) [1] và sau đó được mở
rộng bởi Ranis và Fei (1961) [2] dựa
trên ý tưởng về lao động dư thừa trong
ngành nông nghiệp. Với năng suất thấp
hơn trong nông nghiệp, tiền lương sẽ
cao hơn trong khu vực hiện đại, dẫn đến
lao động chuyển từ nông nghiệp sang
khu vực hiện đại, từ đó tạo ra tăng
trưởng kinh tế. Dựa trên mô hình
Lewis, Johnston và Mellor (1961) [3]
cho rằng ngành nông nghiệp như một
ngành hoạt động tích cực trong nền kinh
tế. Ngoài việc cung cấp lao động và
lương thực, nông nghiệp đóng vai trò
tích cực trong tăng trưởng kinh tế thông
qua các liên kết sản xuất và tiêu dùng.
Theo quan điểm của Schultz (1964) [4],
nông nghiệp đóng vai trò quan trọng đối
với tăng trưởng kinh tế với nhiệm vụ
đảm bảo sinh tồn cho xã hội, mà không
có sự tăng trưởng là không thể. Hầu hết
các nhà kinh tế và các nhà hoạch định
chính sách xác định tăng trưởng năng
suất nông nghiệp như là một lý do hàng
đầu khiến sản xuất lương thực toàn cầu
tiếp tục đáp ứng nhu cầu lương thực
đang tăng lên. Thêm vào đó, bằng
chứng cho thấy đầu tư vào nghiên cứu
và phát triển (R&D) đối với các hệ
thống nghiên cứu nông nghiệp và thực
phẩm đã tạo ra những kiến thức và công
nghệ mới nhằm nâng cao năng suất
1Trường Đại học kinh tế TP. Hồ Chí Minh
Email: adao@ueh.edu.vn
2Trường Cao Đẳng Kinh tế - Tài chính Vĩnh Long
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
97
nông nghiệp theo Fuglie và Toole
(2014) [5]. Tóm lại, tăng trưởng nông
nghiệp bền vững là một trong những
nền tảng vững chắc của tăng trưởng
kinh tế tại một quốc gia. Theo Naseem
và cộng sự (2010) [6], các công ty nước
ngoài có thể sẵn sàng đầu tư vào các
nước nhỏ nếu lợi ích của công nghệ mới
được thể hiện dưới hình thức sản lượng
nông nghiệp cao và có thể xuất khẩu ra
thị trường nước ngoài với mức cao hơn.
Nhận thức được điều đó, Việt Nam xác
định đầu tư cho nghiên cứu và phát
triển nông nghiệp bền vững là một trong
những nhiệm vụ hàng đầu đặt ra cho
toàn Đảng và toàn dân. Cùng góp phần
vào thực hiện thắng lợi mục tiêu đã đề
ra, tỉnh Đồng Nai đã không ngừng phấn
đấu phát triển và đạt được khá nhiều
thành tựu trong tiến trình phát triển
nông nghiệp. Với nguồn vốn đầu tư dồi
dào từ cả trong và ngoài nước, ngành
nông nghiệp trên địa bàn tỉnh trong giai
đoạn từ năm 2011 đến 2016 đã gặt hái
nhiều thành công lớn thông qua việc
xây dựng các mô hình sản xuất nông
nghiệp đạt hiệu quả cao như dự án cánh
đồng lớn, mô hình nuôi tôm tiên tiến
Tuy nhiên năm 2017, số vốn đầu tư cho
loại hình kinh tế này lại khá khiêm tốn
do một số nguyên nhân như giá nông
sản giảm mạnh do biến đổi khí hậu thất
thường, khó khăn trong việc tìm nguồn
tiêu thụ cho nông sản, quy mô diện tích
đất sản xuất còn nhỏ lẻ, xen canh nhiều
nên rất khó khăn trong triển khai thực
hiện các dự án; một số doanh nghiệp,
hợp tác xã và nông dân chưa nhận thức
rõ tầm quan trọng của việc liên kết sản
xuất, vai trò hỗ trợ của chính quyền địa
phương đối với các chủ dự án vẫn chưa
kịp thời. Do đó để có thể tiếp tục thu
hút đầu tư vào lĩnh vực này cần có sự
kết hợp giữa Nhà nước và tư nhân trong
nghiên cứu và phát triển nông nghiệp
nhằm mang lại niềm tin cho nhà đầu tư
vào lĩnh vực nông nghiệp tại tỉnh Đồng
Nai - lĩnh vực kinh tế nhiều tiềm năng
tại địa phương vốn được nhiều ưu đãi
về điều kiện thuận lợi cho phát triển
kinh tế nông nghiệp.
2. Tình hình đầu tư vào lĩnh vực
nông nghiệp tại tỉnh Đồng Nai trong
thời gian qua
Với vị trí địa lý thuộc vào trung tâm
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và là
một trong ba góc nhọn của tam giác
phát triển là thành phố Hồ Chí Minh -
Bình Dương - Đồng Nai, Đồng Nai xếp
vị trí thứ 4 trong cả nước về thu hút đầu
tư từ nước ngoài dựa vào lợi thế về kết
cấu hạ tầng giao thông thuận lợi và cơ
sở hạ tầng của các khu công nghiệp.
Năm 2017 được xem là một năm bội
thu trong thu hút nguồn vốn đầu tư
trong nước và đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) của Đồng Nai với nhiều dự
án đầu tư có vốn lớn và nhiều dự án
được triển khai nhanh. Theo nguồn
thông tin từ Sở Kế koạch và Đầu tư của
tỉnh, trong năm 2017, toàn tỉnh thu hút
được khoảng 83 dự án đầu tư trong
nước. Trong đó, có 69 dự án cấp mới
với tổng vốn đăng ký hơn 24,5 ngàn tỷ
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
98
đồng và 14 dự án điều chỉnh tăng vốn
hơn 3,7 ngàn tỷ đồng. Thu hút đầu tư
trong nước của Đồng Nai năm 2017 đạt
hơn 28,3 ngàn tỷ đồng, tăng gấp 2,5 lần
so với kế hoạch năm đề ra, phần lớn tập
trung vào lĩnh vực bất động sản, hạ tầng
và công nghiệp. Một điểm đáng chú ý,
trong năm nay, tỉnh có sự chọn lọc và
kiểm duyệt khắt khe hơn đối với các dự
án đầu tư, chỉ mời gọi những dự án có
công nghệ hiện đại, thân thiện với môi
trường, công nghệ cao, công nghiệp hỗ
trợ, hạ tầng, dịch vụ thương mại. Những
dự án có nguy cơ gây ô nhiễm cao và sử
dụng quá nhiều lao động phổ thông đều
không được thông qua.
Những yêu cầu trên đã đặt ra nhiều
điều kiện, nhiều quy định hơn cho các
dự án đầu tư thuộc lĩnh vực nông
nghiệp. Theo chương trình hành động
của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
Đồng Nai được công bố hằng năm, phát
triển nông nghiệp bền vững luôn được
xem là một trong những nhiệm vụ hàng
đầu của tỉnh. Phát triển nông nghiệp bền
vững không những tạo điều kiện cho
việc đảm bảo đời sống của người dân
lao động, phát triển kinh tế - xã hội địa
phương mà còn góp phần thu hút nguồn
vốn đầu tư dồi dào nhằm nâng cao khả
năng cạnh tranh của nông sản của tỉnh
so với các địa phương trong cả nước,
các nước khác trong khu vực, thậm chí
là cả thế giới.
Hiện tại, trên địa bàn tỉnh đã có 14
dự án cánh đồng lớn được Ủy ban nhân
dân (UBND) tỉnh phê duyệt với tổng
diện tích 6.126 ha với 5.182 hộ tham
gia; 12 dự án đã được chấp thuận chủ
trương hiện đang trong giao đoạn xây
dựng dự án với diện tích 1.865 ha và
2.100 hộ tham gia. Bên cạnh đó có 2 dự
án cánh đồng lớn đã có đơn đề nghị
chấp thuận chủ trương đầu tư. Thêm
vào đó, Đồng Nai đang quy hoạch cánh
đồng lớn đối với 3 nhóm cây trồng
gồm: cây ngắn ngày, cây công nghiệp
lâu năm và cây ăn quả lâu năm với 19
loại cây trồng trên tổng diện tích gần
160 ngàn ha.
Cùng với những nỗ lực không
ngừng trong phát triển lĩnh vực nông
nghiệp nhằm thu hút đầu tư như tạo mọi
điều kiện ưu đãi về chính sách, cơ chế
thu hút nhà đầu tư, một số địa phương
của tỉnh còn tổ chức nhiều buổi hội thảo
với nhiều chuyên đề khác nhau liên
quan đến phát triển nông nghiệp với sự
tham gia của nhiều tổ chức, doanh
nghiệp (DN) từ khắp nơi trên mọi miền
đất nước và các đối tác nước ngoài
nhằm thu hút nhà đầu tư về địa phương
liên kết cùng nông dân phát triển nông
nghiệp bền vững. Theo thống kê của Sở
Kế hoạch và Đầu tư, trong vòng 5 năm,
từ 2011 - 2015, tổng số dự án thu hút
đầu tư vào địa bàn nông thông là 448 dự
án. Trong đó bao gồm 294 dự án nhận
được nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài
lên đến 86,7 nghìn tỷ đồng và 154 dự án
trong nước với số vốn lên đến 29,6
nghìn tỷ đồng. Riêng năm 2015, toàn
tỉnh thu hút được khoảng 90 dự án đầu
tư FDI vào khu vực nông nghiệp, nông
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
99
thôn với 5 dự án đầu tư vào lĩnh vực
thức ăn gia súc, thủy hải sản chế biến
nông sản. Theo đà phát triển của những
năm trước đó, năm 2016, tỉnh Đồng Nai
tiếp tục triển khai nhiều dự án đầu tư
vào nông nghiệp công nghệ cao. Trong
đó có 2 dự án liên doanh giữa Agropark
và các nhà đầu tư Hàn Quốc được xúc
tiến thực hiện. Dự án trồng, xuất khẩu
chuối với vốn đầu tư 5 triệu đô la được
triển khai ngay trong quý I-2016, bước
đầu là trồng 95 hécta chuối và năm sau
sẽ liên kết với nông dân phát triển lên 2
ngàn hécta. Dự án Trung tâm chăn nuôi
bò và chế biến sữa cũng đã thành lập
Công ty cổ phần Domilk, đang triển
khai trồng cỏ và xây dựng cơ sở hạ tầng
để tổ chức trại sản xuất giống với vốn
đầu tư 100 tỷ đồng. Tuy nhiên tình hình
đầu tư cho nông nghiệp vào năm 2017
lại khá khiêm tốn (Dự án nuôi gà đẻ
trứng sạch xã Xuân Hòa (huyện Xuân
Lộc) vốn đăng ký 376 tỷ đồng), nguồn
vốn đầu tư tập trung chủ yếu cho các
lĩnh vực vực bất động sản, hạ tầng và
công nghiệp. Cụ thể như khu trung tâm
dịch vụ tại xã Hiệp Phước và xã Long
Thọ (huyện Nhơn Trạch), vốn đăng ký
gần 5 ngàn tỷ đồng. Tiếp đến là dự án
khu dân cư với các dịch vụ thương mại,
nhà ở cao tầng và tái định cư ở phường
Bửu Long (TP. Biên Hòa), tổng vốn
đăng ký hơn 834 tỷ đồng. Dự án xây
dựng hệ thống cấp nước sạch huyện
Thống Nhất hơn 300 tỷ đồng; dự án nhà
máy chế biến gỗ xuất khẩu tại xã Long
Phước (huyện Long Thành) khoảng 200
tỷ đồng...
Đồng Nai được đánh giá cao trong
thực hiện các dự án cách đồng lớn, song
quá trình thực hiện vẫn còn tồn tại
nhiều khó khăn, trong đó, quy mô diện
tích đất sản xuất còn nhỏ lẻ, xen canh
nhiều nên rất khó để triển khai thực
hiện các dự án. Vẫn còn một số doanh
nghiệp, hợp tác xã và nông dân chưa
nhận thức rõ tầm quan trọng của việc
liên kết sản xuất. Bên cạnh đó vai trò hỗ
trợ của chính quyền địa phương đối với
các chủ dự án nhiều khi chưa kịp thời.
Dù trong năm 2017, nông nghiệp tăng
trưởng 2,5% nhưng nông sản ở địa
phương này vẫn lâm vào tình trạng dù
được mùa nhưng vẫn mất giá, thêm vào
đó, những tháng đầu năm gặp khó khăn
do ảnh hưởng thời tiết, những cơn mưa
trái vụ vào thời điểm một số cây lâu
năm đang ra hoa kết trái làm ảnh hưởng
đến năng suất, mặt khác giá tiêu thụ sản
phẩm nông sản, giá chăn nuôi heo, gà
giảm mạnh ảnh hưởng đến hiệu quả
nuôi, trồng của người nông dân. Lãnh
đạo của Tỉnh và các ngành chức năng
đã phải vào cuộc nhằm hỗ trợ nông dân
vượt qua khó khăn khi giá heo, chuối
xuống thấp đến mức kỷ lục. Do các
ngành chức năng và địa phương tích
cực thực hiện các biện pháp khắc phục
kịp thời và đẩy mạnh nghiên cứu phát
triển những mô hình sản xuất mới như
mô hình nuôi tôm công nghệ cao tại xã
Nhơn Trạch; mô hình ứng dụng khoa
học kỹ thuật trong khâu tôm giống với
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
100
giống tôm càng xanh toàn đực tại huyện
Tân Phú... nên sản xuất nông, lâm, thủy
sản của tỉnh vẫn phát triển ổn định, giá
trị sản xuất ước tăng 2,48% so cùng kỳ,
trong đó giá trị sản xuất nông nghiệp
tăng 2,3%; giá trị sản xuất lâm
nghiệp tăng 1,84%; giá trị sản xuất thủy
sản tăng 5,81% so cùng kỳ.
Do đó để thực hiện thành công mục
tiêu phát triển nông nghiệp bền vững
đòi hỏi ngành nông nghiệp cần được
quan tâm trong khâu nghiên cứu và phát
triển, bởi theo Naseem và cộng sự
(2010) các công ty nước ngoài có thể
sẵn sàng đầu tư vào các nước nhỏ nếu
lợi ích của công nghệ mới được thể hiện
dưới hình thức sản lượng nông nghiệp
cao và có thể xuất khẩu ra thị trường
nước ngoài với mức cao hơn.
3. Lợi ích của hợp tác công tư
trong nghiên cứu và phát triển nông
nghiệp nhằm thu hút đầu tư vào lĩnh
vực này
Theo Padgett và Galan (2009) [7],
R&D được coi là một hình thức đầu tư
dẫn đến tăng cường kiến thức, đổi mới
sản phẩm và quy trình. R&D giúp tạo ra
kiến thức và công nghệ mới nâng cao
năng suất nông nghiệp [5]; tăng cơ hội
tạo thu nhập; đa dạng hóa các phương
án sinh kế cho người có thu nhập thấp;
góp phần xóa đói giảm nghèo (Adato &
Meinzen-Dick, 2007) [8]. Theo Naseem
và cộng sự (2010) [6], để nâng cao năng
suất nông nghiệp và giảm nghèo ở các
nước đang phát triển cần tiến hành đổi
mới công nghệ. Đầu tư của Nhà nước
vào nghiên cứu và phát triển dẫn đến
thay đổi công nghệ trong nông nghiệp.
Đây là một hình thức đầu tư khá phổ
biến tại các nước đang phát triển - nơi
mà các bằng sáng chế hay các hợp đồng
thiết lập quyền sở hữu trí tuệ rất khó
thực thi với chi phí hợp lý, lợi nhuận cá
nhân nhận được thấp hơn lợi ích của xã
hội dẫn đến chỉ mỗi lợi ích của xã hội
đạt mức tối ưu. Thêm vào đó, đầu tư
R&D trong nông nghiệp vốn có rủi ro
cao đã làm giảm động lực để tìm kiếm
nguồn tài trợ cho hoạt động này. Theo
Rosegrant và cộng sự (1998) [9]; Fan và
cộng sự (2008) [10], chi tiêu cho R&D
trong nông nghiệp có ảnh hưởng lớn
đến năng suất trong ngành hơn so với
các loại chi tiêu khác và có ảnh hưởng
tích cực đến sức khỏe và dinh dưỡng.
Do đó, nguồn tài chính công có thể
được sử dụng để tăng đầu tư vào nghiên
cứu và phát triển nông nghiệp.
Tuy nhiên Naseem và cộng sự
(2010) [6] cho rằng khu vực tư nhân có
thể đóng một vai trò lớn hơn trong
nghiên cứu và phát triển nông nghiệp
trong tương lai. Xu hướng nghiên cứu
và phát triển của tư nhân chủ yếu hướng
đến lợi nhuận cá nhân mong đợi cao
nhất. Nhưng lợi nhuận cá nhân không
phản ánh đầy đủ các lợi ích từ R&D cho
khách hàng, người tiêu dùng và đối thủ
cạnh tranh trong khi đó lợi ích xã hội
đối với đầu tư vào R&D nên bao gồm
cả lợi ích cá nhân của công ty cũng như
lợi ích của các nhóm khác trong xã hội.
Ngoài ra, lợi ích xã hội của R&D bao
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
101
gồm một yếu tố quan trọng không được
phản ánh trong lợi nhuận cá nhân của
công ty đó là sự đóng góp tích lũy của
những khám phá và sáng chế cho những
nghiên cứu và phát triển tiếp theo do
các nhà nghiên cứu khác trong xã hội
thực hiện.
Xuất phát từ những ưu điểm và hạn
chế từ hai mô hình nghiên cứu và phát
triển trên, mô hình hợp tác nhà nước và
tư nhân trong nghiên cứu và phát triển
được xem như một công cụ hiệu quả.
Reid và cộng sự (2001) cho rằng mối
quan hệ hợp tác giữa nhà nước và tư
nhân được xem là một phương tiện
nhằm tăng khả năng cạnh tranh ở cấp
độ doanh nghiệp và thúc đẩy sự đổi mới
bằng cách kết hợp các nguồn lực từ khu
vực công và tư nhân để tạo ra sự kết
hợp trong nghiên cứu và phát triển.
Việc hợp tác này được xây dựng trên
nền tảng sự hợp tác chặt chẽ và đồng
điệu giữa các đơn vị trong khu vực nhà
nước và tư nhân, trong đó các đối tác
cùng nhau lên kế hoạch và thực hiện
các hoạt động để đạt được các mục tiêu
đã thỏa thuận như chia sẻ chi phí, rủi ro
và lợi ích phát sinh trong quá trình đó.
Theo đó, hợp tác giữa nhà nước và tư
nhân có thể hình thành một số hình thức
can thiệp từ khu vực công nhằm hạn
chế sự thất bại của công trình nghiên
cứu hay sự thất bại của thị trường (do
thị trường không có sự đối xứng về mặt
thông tin, bất bình đẳng trong xã hội)
như thông qua các chương trình có sự
hỗ trợ từ nguồn vốn nhà nước hay các
tổ chức quốc tế. Hoặc trợ giá một cách
ngầm định cho các chi phí trong quá
trình tiến hành nghiên cứu và phát triển.
Wang và cộng sự (2009) cho rằng các
khoản đầu tư tư nhân vào nghiên cứu và
phát triển nông nghiệp có ý nghĩa tương
quan đáng kể với các xu hướng chi tiêu
công trong nghiên cứu nông nghiệp và
khoa học đời sống. Thêm vào đó, hợp
tác nhà nước và tư nhân được xem như
một phương tiện để khắc phục sự thiếu
chặt chẽ của các thể chế kinh tế và xã
hội nếu không có sự kiểm soát trao đổi
kiến thức trên thị trường. Các thể chế
được đề cập đến như chế độ quyền sở
hữu trí tuệ và các quy tắc thực thi hợp
đồng là rất cần thiết để đảm bảo việc
trao đổi kiến thức một cách suôn sẻ.
Trường hợp những thể chế này không
tồn tại hoặc không đủ tính răn đe, trao
đổi kiến thức có thể phải chịu chi phí
giao dịch đáng kể liên quan đến giám
sát và thực thi việc trao đổi.
Nghiên cứu và phát triển do nhà
nước tài trợ có thể bổ sung cho nghiên
cứu và phát triển tư nhân. Tính bổ sung
sẽ xảy ra khi đầu tư vào R&D của khu
vực công khuyến khích đầu tư vào
R&D tư nhân (và ngược lại). Tính bổ
sung có thể xảy ra nếu các tổ chức
nghiên cứu của nhà nước và tư nhân
tiến hành các loại nghiên cứu khác
nhau. Các nhà nghiên cứu thuộc khu
vực công tập trung vào khoa học cơ
bản hoặc nghiên cứu về mặt lý thuyết
thì kết quả thu được có thể được sử
dụng để các công ty tư nhân tiến hành
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
102
nghiên cứu ứng dụng (Fuglie và Toole,
2014). Việc thay thế diễn ra khi các
hoạt động R&D công hỗ trợ các hoạt
động mà khu vực tư nhân có thể thực
hiện. Sự thay thế có nhiều khả năng đạt
hiệu quả cao hơn khi các nhà nghiên
cứu nhà nước và tư nhân làm việc
trong cùng một lĩnh vực (ví dụ như
chăn nuôi hoặc trồng trọt) và tiến hành
nghiên cứu có tính chất tương tự và với
các mục tiêu tương tự.
4. Một số khuyến nghị nhằm tăng
hiệu quả hợp tác giữa nhà nước và tư
nhân trong nghiên cứu và phát triển
trong lĩnh vực nông nghiệp
Phát triển nông nghiệp bền vững là
xu hướng chủ đạo và tất yếu trong xu
thế hội nhập, là giải pháp mạnh, hiệu
quả trong cơ cấu ngành nông nghiệp.
Ngoài việc ban hành nhiều chủ trương,
chính sách quan trọng đối với nghiên
cứu và phát triển, ứng dụng công nghệ
cao trong nông nghiệp, đầu tư cho nông
nghiệp nói chung và nông nghiệp công
nghệ cao nói riêng cần được quan tâm
theo chiều sâu. Mặc dù Nhà nước đã có
nhiều chính sách thu hút DN đầu tư vào
nông nghiệp nông thôn (NNNT), nhưng
tốc độ tăng trưởng số lượng DN đầu tư
vào lĩnh vực nông nghiệp vẫn chậm so
với các lĩnh vực khác. Nghị định
210/2013/NĐ-CP đã đề ra nhiều chính
sách hỗ trợ nhưng DN lại vấp phải
nhiều khó khăn khi tiếp cận. DN phải
thực hiện 16 bước với 40 văn bản liên
quan mới nhận được hỗ trợ như: xin
giấy phép kinh doanh, giấy phép xây
dựng, khảo nghiệm, nhập khẩu thiết bị
công nghệ cao Nhiều chính sách khác
nhằm hỗ trợ nhiều hơn mà DN rất cần,
nhưng chưa được đề cập đầy đủ và toàn
diện trong nghị định. Cụ thể như: chính
sách về đất đai; chính sách về thuế;
chính sách về tín dụng; chính sách hỗ
trợ nghiên cứu, chuyển giao, áp dụng
khoa học công nghệ (KHCN), đào tạo
nguồn nhân lực DN khi đầu tư vào
nông nghiệp luôn gặp khó khăn ở một
số vấn đề như chính sách đất đai chưa
tạo ra được thể chế hợp lý và hiệu quả
để quản lý và điều tiết thị trường đất
nông nghiệp, chính sách tài chính tín
dụng còn nặng hỗ trợ theo kiểu “xin -
cho” mà chưa có sự quan tâm đúng mức
đến nhu cầu thật sự của DN, thủ tục tiếp
cận tín dụng phức tạp khi vẫn yêu cầu
về các loại chứng nhận, đăng ký, tài sản
thế chấp làm giảm sự mặn mà của
DN và nhà đầu tư khi đầu tư vào nông
nghiệp. Ngoài ra, sự tồn tại của nhiều
loại phí, lệ phí làm gia tăng chi phí và
gây cản trở đáng kể trong kinh doanh
của DN. Theo đánh giá của DN, thủ tục
hoàn thuế, các chính sách miễn giảm,
gia hạn, thuế giá trị gia tăng chưa hợp
lý, nhiều máy móc thiết bị phục vụ
nông nghiệp vẫn phải chịu thuế giá trị
gia tăng; chưa có bình đẳng giữa các
DN sản xuất phục vụ trong nước và
phục vụ xuất khẩu. Mặt khác, ngân sách
đầu tư của Nhà nước cho KHCN còn
thấp, chỉ đạt dưới 2% tổng chi ngân
sách và tương đương khoảng 0,4%
GDP, con số này bằng khoảng 25% so
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
103
Malaysia nhưng chỉ tương đương 1% so
Nhật Bản và 0,5% so Trung Quốc. Quy
định về cơ chế phối hợp giữa DN và các
cơ quan nghiên cứu trong chuyển giao
KHCN còn hạn chế. Các quy định về sở
hữu trí tuệ chưa đủ mạnh để bảo vệ
quyền lợi của tác giả công trình nghiên
cứu. Chính sách bảo hiểm nông nghiệp
chưa sẵn sàng đáp ứng, khung pháp lý
chưa đủ mạnh, thủ tục chi trả bảo hiểm
phức tạp, cơ chế và biện pháp đánh giá
mức đền bù và thiệt hại còn nhiều
vướng mắc. Do đó để công cuộc đổi
mới và phát triển, ứng dụng công nghệ
trong nông nghiệp được thực hiện một
cách hiệu quả cần có sự cố gắng, nỗ lực
từ tất cả mọi tổ chức, mọi thành phần
kinh tế trong xã hội, đặc biệt là mối
quan hệ hợp tác hiệu quả giữa khu vực
công và khu vực tư trong nghiên cứu và
phát triển đối với lĩnh vực nông nghiệp.
Việc không ngừng tạo ra các sản phẩm
nông nghiệp mới, thu được hiệu quả
kinh tế cao và an toàn, thân thiện với
con người và môi trường sẽ thu hút
nguồn đầu tư dồi dào từ nguồn vốn
ngân sách và nguồn vốn đầu tư từ nước
ngoài. Để đạt được mục tiêu đề ra, sự
hợp tác giữa khu vực công và khu vực
tư trong nghiên cứu và phát triển trong
lĩnh vực nông nghiệp cần được chú ý
một số nội dung sau:
- Theo Chataway (2005) [11], Hall
(2006) cho thấy mối quan hệ giữa nhà
nước và tư nhân chỉ phát huy hiệu quả
khi các thói quen, hành vi và thực tiễn
của tổ chức về vấn đề quản lý và thực
hiện các dự án nghiên cứu và phát triển
được tiến hành phân tích nhiều hơn.
Nghiên cứu này lập luận rằng các phân
tích về mối quan hệ giữa nhà nước và tư
nhân (dù là trong nông nghiệp hay phi
nông nghiệp) nên tập trung nhiều hơn
vào đổi mới đồng thời ở cấp độ thể chế
và tổ chức; và cách tiếp cận mang tính
hệ thống hơn để hiểu sự thay đổi thể
chế và tổ chức ảnh hưởng như thế nào
đến tính sáng tạo trong nông nghiệp, từ
đó góp phần xây dựng và hoàn thiện
một thể chế hoạt động phù hợp nhất cho
sự hợp tác giữa khu vực công và khu
vực tư trong nghiên cứu và phát triển.
- Khu vực công phải cung cấp các
hình thức ổn định kinh tế mà chỉ có các
chính phủ có thể cung cấp, bao gồm
một nền kinh tế ổn định và có sự công
bằng trong nghiên cứu và phát triển.
- Khu vực công phải tạo cơ sở cho
hệ thống “khoa học và công nghệ nông
nghiệp”, tức là các cấu trúc và quy trình
để thiết lập các chương trình, tài chính,
tổ chức, giao nhận, giám sát và đánh giá
các nghiên cứu về nông nghiệp, khuyến
nông và giáo dục.
- Khu vực công phải thực hiện các
chính sách kích thích sự nổi lên của
các cơ chế thể chế, hành vi tổ chức, và
các mô hình học tập tạo điều kiện cho
sự đổi mới. Những sáng kiến, đổi mới
về thể chế đã tăng cường sự hỗ trợ cho
nghiên cứu nông nghiệp, cải thiện tính
hiệu quả và sự phối hợp, điển hình là
tại Úc, theo Alston, Gray và Bolek
(2012). Chính vì thế chính quyền cùng
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
104
các sở, ban, ngành địa phương cần có
những biện pháp đổi mới các quy định
trong tổ chức hoạt động, hỗ trợ kỹ
thuật trong nghiên cứu và phát triển,
quan tâm sâu sát nhằm có những giải
pháp tối ưu kịp thời để đảm bảo nâng
cao chất lượng nghiên cứu và phát
triển sản phẩm nông nghiệp.
- Cần thỏa thuận về các mục tiêu
chung và phân công các vai trò và trách
nhiệm thích hợp giữa các bên liên quan
trước khi tiến hành quá trình nghiên cứu
và phát triển. Xây dựng cơ chế tổ chức
để tạo thuận lợi cho việc trao đổi kiến
thức và giải quyết xung đột phát sinh
(nếu có) trong quá trình thực hiện.
- Thực hiện cam kết về nguồn lực
từ tất cả các đối tác không chỉ với các
hoạt động nghiên cứu của dự án mà còn
cho các hoạt động phối hợp cần thiết để
quản lý và duy trì cam kết của đối tác.
- Xây dựng điểm chuẩn và điều
kiện quyết định cho phép các đối tác
đánh giá tiến độ, sửa đổi lộ trình của dự
án và chấm dứt dự án khi cần thiết; các
chiến lược để quản lý và giảm thiểu rủi
ro liên quan đến các dự án, bao gồm cả
hành lang pháp lý và cơ cấu tài chính
chính thức cũng như các chiến lược liên
quan đến vấn đề truyền thông bên ngoài.
- Quá trình nghiên cứu và phát triển
trong nông nghiệp cần chú ý mối quan
hệ giữa đánh giá trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp (CSR) và R&D. Theo Ho
và cộng sự (2016) [12], hoạt động của
CSR được tích cực gắn với việc định
giá R&D, sự kết hợp như vậy chỉ có ý
nghĩa trong các ngành có tính cạnh
tranh cao khi góp phần giúp một công
ty tạo ra một hình ảnh công ty lành
mạnh và đạo đức, tăng uy tín cho các
dự án nghiên cứu và phát triển, thị
trường sẵn sàng tin tưởng hơn vào nỗ
lực nghiên cứu và phát triển của các
doanh nghiệp và thu hút nguồn đầu tư
dồi dào cho dự án. Do đó Flammer
(2013) cho rằng hành vi thân thiện với
môi trường và CSR là những yếu tố
quan trọng trong hoạch định và thực
hiện các công trình nghiên cứu và phát
triển trong dài hạn vì chiến lược kinh
doanh hữu ích và thân thiện với môi
trường luôn là mối quan tâm hàng đầu
của các nhà đầu tư.
- Chính phủ cần xác định rõ ràng
các ưu tiên cho nghiên cứu và phát triển
trong dài hạn, thiết kế các chương trình
hành động chặt chẽ, tập trung và phù
hợp nhằm thu hút nguồn tài trợ từ các
nhà tài trợ. Theo Stads và Beintema
(2015), việc ngăn chặn những biến động
tiêu cực của đầu tư vào nghiên cứu và
phát triển nông nghiệp là rất quan trọng
và cần có sự cam kết lâu dài của chính
phủ, nhà tài trợ và khu vực tư nhân.
5. Kết luận
Với tỷ trọng khoảng 70% dân số ở
nông thôn, lao động nông nghiệp chiếm
hơn 50% lực lượng lao động xã hội,
đóng góp khoảng 20% GDP. Khu vực
này đang rất cần sự kết hợp hiệu quả từ
các nguồn lực như vốn, KHCN hiện đại,
lao động có tay nghề, trình độ... để tạo
ra sự đột phá. Để hoàn thành thắng lợi
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
105
mục tiêu đề ra cần phát huy và nâng cao
sự hợp tác đồng bộ giữa khu vực nhà
nước và tư nhân trong vấn đề chính
sách và trí tuệ, đặc biệt là trong nghiên
cứu và phát triển nhằm tăng cường tối
đa tiềm năng của các dự án nhằm thu
hút nguồn đầu tư dồi dào từ các thành
phần kinh tế trong xã hội và các nước
trên thế giới. Mối quan hệ hợp tác này
sẽ trở thành công cụ đắc lực cho các địa
phương có tiềm năng phát triển nông
nghiệp nói riêng và các nước đang phát
triển có nền kinh tế chủ yếu dựa vào
nông nghiệp nói chung trong công cuộc
phát triển nông nghiệp bền vững, góp
phần xóa đói giảm nghèo và đảm bảo an
ninh lương thực.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lewis, W.A (1954), “Economic development with unlimited supply of
labour”, Manchester School of Economic and Social Studies, Vol. 22, Pp. 139-191
2. Ranis, G., Fei, J.C.H (1961), “A theory of economic development”, The
American Economic Review, Vol. 51, Pp. 533-565
3. Johnston, B.F., Mellor, J.W (1961), “The role of agriculture in economic
development”, The American Economic Review, Vol 51, Pp.566-593
4. Schultz, T.W (1964), Transforming Traditional Agriculture, Yale University
Press, New Haven, CT
5. Keith O. Fuglie, Andrew A. Toole (2014), “The evolving institutional
structure of public”, American Journal of Agricultural Economics, Vol 96, Issue 3,
Pp. 862-883
6. Anwar Naseem, David J. Spielman, Steven Were Omamo (2010), “Private-
Sector Investment in R&D: A Review of Policy Options to Promote its Growth in
Developing-Country Agriculture”, Agribusiness, Vol. 26, No. 1, Pp. 143-173
7. Robert C. Padgett, Jose I. Galan (2009), “The Effect of R&D Intensity on
Corporate Social Responsibility”, Journal of Business Ethics. Vol. 93, No. 3, Pp.
407-418
8. Adato, M., Meinzen-Dick, R.S (2007), Agricultural research, livelihoods,
and poverty: studies of economic and social impacts in six countries, Baltimore, MD
(USA), Johns Hopkins Univ. Press. 388 pp
9. Rosegrant, M., Kasryno, F., Perez, N.D (1998), “Output response to prices
and public investment in agriculture: Indonesian food crops”, Perez Journal of
Development Economics, Vol. 55, No. 2, Pp. 333-352
10. Fan, S., Yu, B., Jitsuchon, S. (2008), “Does allocation of public spending
matter in poverty reduction? Evidence from Thailand”, Asian Economic Journal,
Vol. 22, No. 4, Pp. 411-430
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
106
11. Chataway J. (2005), “Introduction: is it possible to create pro-poor
agriculture-related biotechnology?”, Journal of International Development, Vol. 17,
No.5, Pp. 597-610
12. Simon S.M. Ho, Annie Yuansha Li, Kinsun Tam, Jamie Y.Tong (2016),
“Ethical image, Corporate Social Responsibility, and R&D Valuation”, Pacific-Basin
Finance Journal, Vol. 40, Pp. 335-348
RAISING INVESTMENT CAPITAL IN AGRICULTURE IN DONG NAI
PROVINCE BY ENHANCING THE EFFICIENCY OF
COOPERATION BETWEEN THE STATE AND
PRIVATE SECTORS IN RESEARCH AND DEVELOPMENT
ABSTRACT
High-tech agricultural development is an indispensable trend to create new
breakthroughs in agricultural production and attract plentiful investment capital into
this field. Contributing to the success of this goal is to accelerate research and
development in agricultural production. In addition to the considerable support from
public policies, the role of the private sector plays a very important role. The paper
focuses on the benefits of public-private partnerships in the implementation of
research and development in the agricultural sector, contributing to the sustainable
development of agriculture and investment. Hence, some solutions are suggested to
complete and enhance the efficiency of coordination between the two partners.
Keywords: Public–private partnerships, research and development, agriculture
development
(Received: 23/7/2018, Revised: 24/8/2018, Accepted for publication: 18/9/2018)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tang_cuong_thu_hut_von_dau_tu_vao_linh_vuc_nong_nghiep_tren.pdf