Kết quả bảng 2 cho thấy, hiệu quả kinh tế
thu được trong chăn nuôi THL GF399xGF24
tăng lên khi tăng KLGM từ 100 lên 120kg. Lợi
nhuận ròng thu được tăng lần lượt 100.725 và
186.410 VNĐ/con/lứa khi lợn được giết mổ ở
khối lượng 110 và 120 kg so với 100 kg. Với giả
thiết thời gian xử lý chuồng trại sau mỗi lứa
nuôi là 10 ngày thì số lứa nuôi/trại/năm sẽ giảm
0,45 lứa khi tăng KLGM của THL GF399xGF24
từ 100 lên 120kg. Điều này có nghĩa, mỗi năm
trang trại sẽ giảm được phần chi phí mua con
giống và thú y (vì cả trong nghiên cứu này và
trên thực tế, khi tăng KLGM lên 120kg, chi
phí thú y hầu như không tăng thêm so với
khi lợn được giết mổ ở khối lượng 100kg) cho
0,45 lứa nuôi. Trong khi đó, phần chi phí tăng
thêm từ thức ăn, thuê chuồng trại, lao động,
điện nước và các khoản chi khác để tăng khối
lượng của lợn từ 100 lên 120kg là thấp hơn so
với phần chi phí tiết kiệm được từ con giống
và thú y. Vì vậy, với quy mô nuôi 500 lợn thịt,
mỗi năm trang trại tăng mức lợi nhuận ròng
từ 712.180.165 lên 875.260.982 VNĐ khi tăng
KLGM của lợn từ 100 lên 120 kg. Bên cạnh lợi
ích trực tiếp đó còn thu được lợi ích gián tiếp
thông qua việc giảm chi phí nuôi lợn nái vì số
lợn cần để sản xuất một lượng thịt lợn nhất
định giảm và giảm rủi ro (hao hụt) trong giai
đoạn lợn con. Piao và ctv (2004) nghiên cứu
trên tổ hợp lai Dux(LxY) cũng cho biết, lợi
nhuận ròng thu được khi giết mổ lợn ở khối
lượng 110 và 120kg là cao hơn so với 100kg.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tăng khối lượng, tiêu tốn thức ăn và hiệu quả kinh tế của tổ hợp lợn lai GF399xGF24 ở các khối lượng giết mổ khác nhau, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DI TRUYỀN - GIỐNG VẬT NUÔI
KHKT Chăn nuôi số 255 - tháng 3 năm 202024
Theo Đỗ Đức Lực và ctv (2013), lợn nái Pi
có kiểu gen CC và CT kháng Stress có các chỉ
tiêu về năng suất sinh sản SCSSS/ổ, SCCS/ổ,
KLSSS/con, KLSSS/ổ, KLCS/con, KLCS/ổ lần
lượt là 9,48 và 8,70 con; 7,34 và 7,25 con; 1,42
và 1,40kg; 6,46 và 5,81kg; 13,37 và 12,39kg;
46,82 và 42,67kg, đều thấp hơn Pi trao đổi gen
này tại Thụy Phương.
4. KẾT LUẬN
Đàn lợn nái L, Y, Du và Pi được trao đổi
gen có năng suất sinh sản cao và tăng lên rõ
rệt: SCCS/nái/năm lần lượt là 28,63; 28,65;
24,12 và 23,80 con; các chỉ tiêu SCCS, KLCS/ổ
và SCCS/nái/năm đều tăng trên 10%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. DanAvl (2017). Danbred Internitional.
Danbredint.dk
2. Đỗ Đức Lực, Hà Xuân Bộ, Vũ Đình Tôn và Đặng Vũ
Bình (2013). Ảnh hưởng của kiểu gen Halothane đến
năng suất sinh sản của đàn lợn hạt nhân Pietrain kháng
Stress trong điều kiện chuồng kín và chuồng hở. Hội
nghị Khoa học Công nghệ Sinh học toàn quốc 2013,
ngày 27/9/2013, Trang: 898-01.
3. Padel Tummaruk, Wichai Tantasuparuk, Mongkol
Techakumphu and Annop Kunavongkrit (2009). Effect
of season and outdoor climate on litter sire at birth in
purebred Landrace and Yorkshire sows in Thailand. J.
Vet. Med. Sci., 66(5): 477-82.
4. Praew Thiengpimol, Supansa Tappreang and Phutlada
Onarun (2017). Reproductive performance of purebred
and crossbred Landrace and Large White sows raised
under Thai commercial swire herd. Thammasat Int. J.
Sci. Tec., 22(2): 13-22.
5. Trịnh Hồng Sơn, Phạm Duy Phẩm, Đinh Hữu Hùng
và Trịnh Quang Tuyên (2017). Kết quả nuôi thích nghi
các giống lợn Landrace, Yorkshire và Duroc nhập từ
Pháp, Mỹ và Canada. Tạp chí KHCN Việt Nam, 4(15):
46-50.
6. Hồ Thanh Thâm, Nguyễn Minh Thông và Nguyễn
Thành Nhân (2017). Năng suất sinh sản heo nái được
nuôi tại công ty chăn nuôi Tiền Giang. Tạp chí KHKT
Chăn nuôi, 218: 19-25.
7. Nguyễn Văn Thắng (2017). Năng suất sinh sản của nái
Landrace và Yorkshire. Tạp chí KHKT Chăn nuôi, 227:
28-33.
8. Đoàn Phương Thuý, Phạm Văn Học, Trần Xuân
Mạnh, Lưu Văn Tráng, Đoàn Văn Soạn, Vũ Đình
Tôn và Đặng Vũ Bình (2015). Năng suất sinh sản và
định hướng chọn lọc đối với lợn nái Duroc, Landrace
và Yorkshire tại công ty TNHH lợn giống hạt nhân
Dabaco. Tạp chí KHPT, 13(8): 1397-04.
9. Nguyễn Bình Trường, Võ Thị Thuỳ Trang, Nguyễn
Trần Phước Chiến và Phạm Huỳnh Khiết Tâm (2018).
Năng suất sinh sản heo nái Landrace và Yorkshire
trong chăn nuôi nông hộ tại An Giang. Tạp chí KHKT
Chăn nuôi, 231: 29-33.
10. Wahner M. and Brussow K.P. (2009). Biological of
fecundity of sows. Rerearch In Breeding, 3(2): 22-27.
11. Nguyễn Ngọc Thanh Yên, Nguyễn Hữu Tỉnh và Trần
Văn Hào (2018). Yếu tố ảnh hưởng đến năng suất sinh
sản ở đàn lợn Landrace và Yorkshire nhập từ Đan
Mạch. Tạp chí KHKT Chăn nuôi, 229: 34-39.
TĂNG KHỐI LƯỢNG, TIÊU TỐN THỨC ĂN VÀ HIỆU QUẢ
KINH TẾ CỦA TỔ HỢP LỢN LAI GF399xGF24 Ở CÁC KHỐI
LƯỢNG GIẾT MỔ KHÁC NHAU
Hoàng Thị Mai1, Nguyễn Xuân Bả2, Lê Đức Thạo2, Trần Ngọc Long2,
Hồ Lê Quỳnh Châu2 và Lê Đình Phùng2*
Ngày nhận bài báo: 02/01/2020 - Ngày nhận bài phản biện: 29/01/2020
Ngày bài báo được chấp nhận đăng: 08/02/2020
TÓM TẮT
Nghiên cứu này nhằm đánh giá mức tăng khối lượng, tiêu tốn thức ăn và hiệu quả kinh tế
trong chăn nuôi tổ hợp lợn lai GF399xGF24 khi được giết mổ ở 3 mức khối lượng 100, 110 và 120
kg. Nghiên cứu được tiến hành trên 136 con lợn lai GF399xGF24, tỷ lệ đực:cái là 1:1. Thí nghiệm
được thiết kế theo kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn 1 nhân tố trên 12 đơn vị thí nghiệm (3 nghiệm thức
x 4 lần lặp lại). Đơn vị thí nghiệm là nhóm lợn trong một ô chuồng. Lợn được đưa vào thí nghiệm
1 Trường Đại học Vinh
2 Trường Đại học Nông Lâm Huế
* Tác giả liên hệ: PGS.TS. Lê Đình Phùng, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Huế-Đại học Huế; ĐT: 0978306147;
Email: phung.ledinh@huaf.edu.vn.
DI TRUYỀN - GIỐNG VẬT NUÔI
KHKT Chăn nuôi số 255 - tháng 3 năm 2020 25
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bên cạnh các yếu tố thuộc về di truyền
(giống, kiểu gen), thức ăn, nuôi dưỡng, chuồng
trại thì khối lượng giết mổ (KLGM) là một
yếu tố quản lý có ảnh hưởng đến sức sản xuất
thịt của lợn và hiệu quả kinh tế của ngành chăn
nuôi lợn. Võ Trọng Thành và ctv (2017) công
bố, khi tăng KLGM từ 100 lên 110 và 120kg thì
mức tăng khối lượng và lượng thu nhận thức
ăn trong toàn kỳ nuôi thịt của tổ hợp lai Duroc-
Dux(Landrace-LxYorkshire-Y) đều tăng lên.
Piao và ctv (2004) cho biết, lợn lai Dux(LxY)
khi được giết mổ ở khối lượng 110 hoặc 120kg
cho lợi nhuận ròng cao hơn so với khi được
giết mổ ở khối lượng 100 kg. Tăng KLGM sẽ
giúp làm giảm chi phí sản xuất cố định vì tổng
số đầu lợn cần để sản xuất một lượng thịt lợn
nhất định giảm (Park và Lee, 2011). Tuy nhiên,
một hạn chế của việc tăng KLGM là làm giảm
hiệu quả chuyển hóa thức ăn do sự tích lũy
mỡ tăng tốc và tích lũy nạc giảm dần trong
các pha sinh trưởng cuối (Piao và ctv, 2004).
Tuy vậy, nhờ các giải pháp về giống và dinh
dưỡng đã giúp làm giảm sự tích lũy mỡ và
tăng hiệu quả chuyển hóa thức ăn ở các giống/
dòng lợn thịt (Bertol và ctv, 2015). Trong suốt
thời kỳ sinh trưởng cuối, những giống/dòng
lợn có tiềm năng cho nạc cao thì có sự tích
lũy mỡ thấp hơn và vì thế hiệu quả chuyển
hóa thức ăn cũng tốt hơn so với những giống/
dòng nạc thấp hơn (Kim và ctv, 2005; Park và
Lee, 2011). Vì vậy, nhờ công tác chọn lọc và
cải tiến về di truyền đối với nhiều giống/dòng
lợn có tiềm năng cho nạc cao đã góp phần tạo
điều kiện để tăng KLGM trên toàn thế giới
trong suốt thập kỷ qua (Wu và ctv, 2017). Ở
Brazil, Bertol và ctv (2015) cho biết, cho đến
giữa những năm 1990, KLGM của lợn thịt là
90-100kg nhưng đã tăng thêm 20-30kg trong
hai thập kỷ qua. Ở Mỹ, Shull (2013) cũng cho
biết, KLGM trung bình của lợn đã tăng đều
qua thời gian: từ 121,1kg (2004) lên 125,6kg
(2013). Tuy nhiên, tăng KLGM đến mức nhất
lúc 60 ngày tuổi với khối lượng (KL) trung bình là 20,96±3,42kg. Lợn được cho ăn tự do theo từng
giai đoạn sinh trưởng. Kết quả cho thấy, tăng khối lượng, lượng ăn vào và tiêu tốn thức ăn trong
toàn thời kỳ nuôi thịt đều tăng khi KLGM tăng từ 101,4 lên 118,4kg, tương ứng tăng từ 788,6 lên 812,2
g/ngày (P=0,11), từ 2,02 lên 2,19 kg/con/ngày (P=0,00) và từ 2,56 lên 2,69kg TĂ/kg TKL (P=0,08). Mỗi
trang trại, với quy mô nuôi 500 lợn thịt, tăng lợi nhuận ròng từ 712.180.165 lên 875.260.982 VNĐ/năm
khi tăng KLGM từ 100 lên 120kg. Có thể áp dụng tăng KLGM của tổ hợp lai GF399xGF24 lên 120kg
trong chăn nuôi công nghiệp.
Từ khóa: Khối lượng giết mổ, GF399, tăng khối lượng, tiêu tốn thức ăn, hiệu quả kinh tế .
ABTRACT
Average daily gain, feed conversion ratio and economic efficiency of GF399xGF24 cross-
bred pigs at different slaughter weights
The objective of this experiment was to study average daily gain, feed conversion ratio
and economic efficiency of GF399xGF24 crossbred pigs at three slaughter weights: 100, 110
and 120kg. The experiment was carried out on 136 GF399xGF24 crossbred pigs at 60 days old
(initially 20,96±3,42kg). The male:female ratio was 1:1. The experiment was arranged according to
a completely randomized design with 12 experimental units (3 treatments * 4 replications). The
experimental unit was pigs in each pen. Pigs were fed ad libitum according to growing phases. The
results showed that the average daily gain (ADG) and average daily feed intake (ADFI) and feed
conversion ratio (FCR) all increased as slaughter weight increased from 101.4 to 118.4kg, the ADG
increased from 788.6 to 812.2 g/ngày (P=0.11), the ADFI increased from 2.02 to 2.19 kg/head/day
(P=0.00) and the FCR increased from 2.56 to 2.69kg feed/kg WG (P=0.08), respectively. Each farm with
breeding scale of 500 heads, increased the net profit from 712,180,165 to 875,260,982 VNĐ/year when
they increased slaughter weight from 100 to 120 kg. It is feasible to increase the slaughter weight of
the GF399xGF24 crossbred pigs to 120kg in the industrial pig production system.
Keywords: Slaughter weight, GF399, average daily gain, feed conversion ratio, economic efficiency.
DI TRUYỀN - GIỐNG VẬT NUÔI
KHKT Chăn nuôi số 255 - tháng 3 năm 202026
định có thể làm tăng chi phí sản xuất, giảm
hiệu quả kinh tế do giảm TKL và hiệu quả
chuyển hóa thức ăn và do phần mỡ (có giá trị
thấp) trong thịt xẻ tăng cao. Mặt khác, tỷ lệ
mỡ quá cao cũng không được người tiêu dùng
ưa chuộng. Vì vậy, tối ưu hóa KLGM sẽ góp
phần tối đa hóa lợi nhuận của toàn hệ thống
sản xuất, từ người sản xuất đến người tiêu thụ
(Shull, 2013).
Tại Việt Nam, một số tác giả (Lê Phạm Đại
và ctv, 2015; Võ Trọng Thành và ctv, 2017) đã
nghiên cứu về ảnh hưởng của KLGM đến một
số tính trạng liên quan đến sức sản xuất thịt
của một số giống lợn ngoại thuần và một số tổ
hợp ngoại lai thương phẩm. Chưa có công bố
nào về vấn đề này trên tổ hợp lai GF399xGF24.
Nghiên cứu này nhằm đánh giá khả năng tăng
khối lượng, tiêu tốn thức ăn và hiệu quả kinh
tế của tổ hợp lai GF399xGF24 ở các KLGM
khác nhau.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được tiến hành trên tổng
số 136 con lợn lai GF399xGF24 (Hình 1), tỷ
lệ đực:cái 1:1. Thí nghiệm được thiết kế theo
kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn 1 nhân tố với 3
nghiệm thức (NT) là 3 mức KLGM 100, 110 và
120kg trên 12 đơn vị thí nghiệm (3 NT x 4 lần
lặp lại). Đơn vị thí nghiệm là nhóm lợn trong
một ô chuồng. Lợn đưa vào thí nghiệm lúc 60
ngày tuổi với khối lượng (KL) ban đầu ở 3 NT
tương ứng là 21,0±0,39; 21,0±0,20; 20,9±0,14kg
(trung bình±độ lệch chuẩn). Khi lợn ở mỗi NT
đạt KLGM dự kiến, lợn được cân để xác định
KL kết thúc và tính toán hiệu quả kinh tế.
Hình 1. Sơ đồ lai tạo THL GF399xGF24
Lợn được cho ăn tự do bởi thức ăn (TA)
của công ty Greenfeed theo từng giai đoạn:
15-30; 30-60 và 60kg đến xuất chuồng. Hàm
lượng protein thô và năng lượng của TA theo
giai đoạn tương ứng là 18,46% và 3.867 Kcal
GE/kg TA; 16,08% và 3.854 Kcal GE/kg TA
và 13,85% và 3.867 Kcal GE/kg TA. Lợn được
uống nước theo nhu cầu ở vòi nước tự động
và được phòng bệnh theo quy trình hiện hành.
Nghiên cứu được tiến hành trong điều kiện
chuồng kín, nhiệt độ và độ ẩm chuồng nuôi
được điều khiển thông qua quạt và hệ thống
làm mát bằng hơi nước, bao gồm 6 quạt hút
ở cuối chuồng và 1 giàn mát ở đầu chuồng.
Lợn được nuôi thí nghiệm tại 01 trang trại
chăn nuôi lợn công nghiệp thuộc xã Vĩnh Sơn,
huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị từ tháng
12/2018 đến tháng 5/2019.
Phương pháp xác định các chỉ tiêu nghiên cứu:
- KL bắt đầu nuôi thịt (kg); KL kết thúc (kg);
Tăng khối lượng (TKL, g/con/ngày); Lượng ăn
vào (kg/con/ngày); Tiêu tốn thức ăn (TTTA, kg
TA/kg TKL), được xác định theo TCVN 3899-84
(Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2000).
- Hiệu quả kinh tế: Lợi nhuận = Thu nhập –
Giá thành (VNĐ/con/lứa).
Số liệu được phân tích bằng phần mềm
SPSS 18.0 theo mô hình thống kê yij=µ+Ci+eij.
Trong đó: yij là biến phụ thuộc; Ci là ảnh hưởng của
KLGM; eij là sai số ngẫu nhiên. Các nghiệm thức
được cho là sai khác khi P<0,05. Giá trị trung bình
và khoảng tin cậy 95% được trình bày.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Tăng khối lượng, lượng ăn vào và tiêu
tốn thức ăn của GF399xGF24 có KLGM khác
nhau
Kết quả nghiên cứu về các tính trạng tăng
khối lượng (TKL), lượng thức ăn ăn vào (LTA
ăn vào) và tiêu tốn thức ăn (TTTA) của tổ hợp
lai GF399xGF24 ở các KLGM khác nhau được
trình bày ở bảng 1. Bảng 1 cho thấy, với KL
trung bình ban đầu lúc 60 ngày tuổi là 20,9-
21,0kg, sau thời gian nuôi thịt 102, 112 và 120
ngày tổ hợp lai GF399xGF24 đạt các mức KL
tương ứng là 101,4; 110,1 và 118,4kg. Khi tăng
KLGM từ 101,4 lên 118,4kg thì TKL trong toàn
kỳ nuôi thịt tăng về giá trị tuyệt đối (23,6 g/
ngày), sự sai khác có ý nghĩa ở mức P=0,11;
DI TRUYỀN - GIỐNG VẬT NUÔI
KHKT Chăn nuôi số 255 - tháng 3 năm 2020 27
Peinado và ctv (2011) nghiên cứu trên lợn
lai (Pietrain-PixLarge Whire-LW)x(LxLW),
trong giai đoạn nuôi thịt từ 23kg đến hai mức
KLGM là 106 và 122kg cho biết, mức TKL trung
bình trong toàn giai đoạn là tương đương
giữa 2 mức KLGM. Tuy nhiên, lợn được giết
mổ ở KL 122kg có lượng thu nhận thức ăn cao
hơn 260 g/ngày và TTTA cao hơn 0,36 g TA/g
TKL so với khi được giết mổ ở 106kg. Piao và
ctv (2004) nghiên cứu trên tổ hợp lai Dux(LxY)
với KL ban đầu là 26,6kg, được giết mổ ở các
KL 100, 110, 120 và 130kg báo cáo, LTA ăn vào
hàng ngày và TTTA trong toàn thời kỳ nuôi
thịt tăng lên khi tăng KLGM nhưng mức TKL
trung bình là không sai khác. Park và ctv (2007;
2009) báo cáo, các mức KLGM trong khoảng
110 đến 135 kg không ảnh hưởng đến tăng
khối lượng và hiệu quả chuyển hóa thức ăn
của lợn lai Dux(LxY). Christian và ctv (1980)
nghiên cứu trên tổ hợp lai Hampshirex(DuxY)
giai đoạn từ 30kg đến 2 mức KLGM 98,5 và
113,5kg, cho biết lợn được giết mổ tại 113,5kg
có tăng khối lượng trung bình toàn kỳ cao hơn
so với khi được giết mổ tại khối lượng 98,5
kg. Neely và ctv (1979) nghiên cứu trên các tổ
hợp lai ¾ giống Du, Y hoặc Hampshire (các tổ
hợp lai được tạo ra theo công thức lai ngược
giữa giống mẹ là lợn lai giữa 2 trong 3 giống
với giống đực thuần) cho thấy, nhóm lợn có tỷ
lệ nạc cao (được chọn lọc dựa trên độ dày mỡ
lưng khi đạt khối lượng 68 kg) có tăng khối
lượng trung bình vẫn tăng ở pha sinh trưởng
cuối (từ 86,2 đến 127kg) trong khi chỉ tiêu này
của nhóm lợn có tỷ lệ mỡ cao giảm. Như vậy,
xu hướng kết quả về lượng thu nhận thức ăn
và tiêu tốn thức ăn của nghiên cứu này là phù
hợp với kết quả nghiên cứu của Peinado và ctv
(2011) và Piao và ctv (2004) nhưng không phù
hợp với công bố của Park và ctv (2007, 2009).
Xu hướng kết quả về tăng khối lượng trung
bình của nghiên cứu này phù hợp với công
bố của Christian và ctv (1980) và Neely và ctv
(1979) trên nhóm lợn có tiềm năng cho nạc
cao. Kết quả nghiên cứu của Lê Đình Phùng
và ctv (2019) và Hoàng Thị Mai và ctv (2019)
cũng cho thấy, thịt xẻ của con lai GF399xGF24
có tỷ lệ nạc cao. Kim và ctv (2005) cho biết lợn
có tiềm năng cho nạc cao thích hợp để giết mổ
ở khối lượng lớn nên việc chọn lọc các dòng/
giống có khả năng cho nạc cao là cần thiết để
sản xuất lợn có khối lượng xuất chuồng lớn.
Như vậy, tổ hợp lai GF399xGF24 là đối tượng
nuôi có tiềm năng tích lũy nạc, thích hợp để
nuôi đến khối lượng giết thịt lớn.
TTTA tăng từ 2,56 lên 2,69 kg/con/ngày
(P=0,08). Lượng thức ăn ăn vào hàng ngày
tăng 80-90 g/con/ngày với mỗi 10kg KLGM
tăng thêm (P=0,00).
Bảng 1. Tăng khối lượng, lượng ăn vào và tiêu tốn thức ăn của tổ hợp lai GF399xGF24 theo
KLGM
Tính trạng
KLGM (kg)
P
100 110 120
KL ban đầu, kg
21,0
20,4-21,6
21,0
20,7-21,3
20,9
20,7-21,1
0,87
KL kết thúc, kg
101,4a
98,5-104,4
110,1b
107,8-112,5
118,4c
116,3-120,5
0,00
TG nuôi,ngày 102 112 120
TKL, g/con/ngày
788,6
760,3-816,9
795,8
774,7-816,8
812,2
793,8-830,6
0,11
LTA ăn vào, kg/con/ngày
2,02a
1,99-2,06
2,11b
2,07-2,15
2,19c
2,10-2,27
0,00
TTTA, kg TA/kg TKL
2,56
2,50-2,63
2,65
2,55-2,76
2,69
2,54-2,85
0,08
Ghi chú: Các giá trị trung bình trong cùng hàng có các chữ cái trên đầu khác nhau là khác nhau với P<0,05.
DI TRUYỀN - GIỐNG VẬT NUÔI
KHKT Chăn nuôi số 255 - tháng 3 năm 202028
3.2. Hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi tổ hợp
lai GF399xGF24 khi KLGM khác nhau
Kết quả hạch toán kinh tế trong chăn nuôi
đối với tổ hợp lai GF399xGF24 khi được giết
mổ ở các mức khối lượng 100, 110 và 120kg
được thể hiện ở bảng 2.
Bảng 2. Hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi THL
GF399xGF24 theo KLGM (VNĐ/con/lứa)
Chỉ tiêu
Mức KLGM
100 110 120
Giống 1.745.000 1.745.000 1.740.500
Thức ăn 2.083.265 2.349.152 2.619.666
Thú y 50.200 50.200 50.200
Khấu hao trại 167.671 184.110 197.260
Lao động 47.600 52.267 56.000
Điện, nước, 34.000 37.333 40.000
Giá thành 4.127.736 4.418.061 4.703.626
Thu nhập 4.564.800 4.955.850 5.327.100
Lợi nhuận 437.064 537.789 623.474
Số lứa/năm 3,26 2,99 2,81
Lợi nhuận
(VNĐ/trại 500
lợn thịt/năm)
712.180.165 804.478.834 875.260.982
Ghi chú: Hiệu quả kinh tế được tính toán trên mỗi con
lợn tại mỗi mức KLGM với giả thiết: Giá bán lợn là
45.000 VNĐ/kg hơi; giá con giống là 85.000 VNĐ/kg
hơi đối với 20kg KL đầu, 45.000 VNĐ/kg hơi đối với
KL từ 20kg trở lên; giá thức ăn: giai đoạn lợn 15-30kg
là 11.097 VNĐ/kg, 30-60kg là 10.319 VNĐ/kg, 60kg-
xuất chuồng là 9.869 VNĐ/kg; giá thuê chuồng trại theo
định mức 300.000.000đ/trại 500 lợn thịt/năm; giá lao
động theo định mức 7.000.000VNĐ/người/tháng, nuôi
500 lợn thịt; chi phí điện, nước và các chi phí khác là
5.000.000đ/tháng/trại 500 lợn thịt.
Kết quả bảng 2 cho thấy, hiệu quả kinh tế
thu được trong chăn nuôi THL GF399xGF24
tăng lên khi tăng KLGM từ 100 lên 120kg. Lợi
nhuận ròng thu được tăng lần lượt 100.725 và
186.410 VNĐ/con/lứa khi lợn được giết mổ ở
khối lượng 110 và 120 kg so với 100 kg. Với giả
thiết thời gian xử lý chuồng trại sau mỗi lứa
nuôi là 10 ngày thì số lứa nuôi/trại/năm sẽ giảm
0,45 lứa khi tăng KLGM của THL GF399xGF24
từ 100 lên 120kg. Điều này có nghĩa, mỗi năm
trang trại sẽ giảm được phần chi phí mua con
giống và thú y (vì cả trong nghiên cứu này và
trên thực tế, khi tăng KLGM lên 120kg, chi
phí thú y hầu như không tăng thêm so với
khi lợn được giết mổ ở khối lượng 100kg) cho
0,45 lứa nuôi. Trong khi đó, phần chi phí tăng
thêm từ thức ăn, thuê chuồng trại, lao động,
điện nước và các khoản chi khác để tăng khối
lượng của lợn từ 100 lên 120kg là thấp hơn so
với phần chi phí tiết kiệm được từ con giống
và thú y. Vì vậy, với quy mô nuôi 500 lợn thịt,
mỗi năm trang trại tăng mức lợi nhuận ròng
từ 712.180.165 lên 875.260.982 VNĐ khi tăng
KLGM của lợn từ 100 lên 120 kg. Bên cạnh lợi
ích trực tiếp đó còn thu được lợi ích gián tiếp
thông qua việc giảm chi phí nuôi lợn nái vì số
lợn cần để sản xuất một lượng thịt lợn nhất
định giảm và giảm rủi ro (hao hụt) trong giai
đoạn lợn con. Piao và ctv (2004) nghiên cứu
trên tổ hợp lai Dux(LxY) cũng cho biết, lợi
nhuận ròng thu được khi giết mổ lợn ở khối
lượng 110 và 120kg là cao hơn so với 100kg.
4. KẾT LUẬN
Khi tăng KLGM của THL GF399xGF24 từ
100 lên 120kg thì LTA ăn vào tăng từ 2,02 lên
2,19 kg/con/ngày, TTTA tăng từ 2,56 lên 2,69kg
TĂ/kg TKL, TKL tăng từ 788,6 lên 812,2 g/con/
ngày và làm tăng hiệu quả kinh tế trong chăn
nuôi.
Có thể áp dụng tăng KLGM của THL
GF399xGF24 lên 120kg trong điều kiện chăn
nuôi công nghiệp chuồng kín ở miền Trung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nông nghiệp & PTNT (2003). Quy trình mổ khảo sát
phẩm chất thịt lợn nuôi béo, TCVN 3899-84, Tuyển tập
tiêu chuẩn nông nghiệp Việt Nam, tập V, Tiêu chuẩn chăn
nuôi, Phần 1: Chăn nuôi -Thú y. Trung tâm Thông tin và
Phát triển Nông thôn.
2. Bertol T.M., Oliveira E.A., Coldebella A., Kawski
V.L., Scandolera A.J., Warpechowski M.B. (2015). Meat
quality and cut yield of pigs slaughtered over 100kg
live weight. Arquivo Brasileiro de Medicina Vet. Zoot.,
67(4): 1166-74.
3. Christian, L. L., K. L. Strock and J. P. Carlson. (1980). Effects
of protein, breed cross, sex and slaughter weight on swine
performance and carcass traits. J. Anim. Sci., 51(1): 51-58.
4. Hoàng Thị Mai, Lê Đình Phùng, Nguyễn Xuân Bả, Văn
Ngọc Phong và Hồ Lê Quỳnh Châu (2019). Năng suất, chất
lượng thịt của 3 tổ hợp lợn lai GF337xGF24, GF280xGF24
và GF399xGF24 nuôi công nghiệp chuồng kín ở miền
Trung. Khoa Học Kỷ Thuật Chăn Nuôi 252(12):42-50.
5. Lê Phạm Đại, Phạm Tất Thắng, Nguyễn Kim Đoán,
Phạm Sinh, Lê Thanh Hải, Trần Vân Khánh, Trần Văn
Hào, Tôn Trung Kiên, Nguyễn Thành Hưng, Nguyễn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tang_khoi_luong_tieu_ton_thuc_an_va_hieu_qua_kinh_te_cua_to.pdf