Thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao và thiếu
nhận thức về tăng trưởng xanh là điểm yếu đặc
biệt đối với doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay khi các công ty mong muốn
thu hút nguồn vốn và tìm kiếm khách hàng, đối tác
từ nước ngoài. Vì vậy, để có thể thực hiện phát
triển bền vững qua tăng trưởng xanh cần:
- Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là
phục vụ tăng trưởng xanh, xây dựng cơ chế chính
sách để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao;
thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài xây dựng
các cơ sở đào tạo chất lượng cao, đa ngành.
- Tổ chức đào tạo và bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng
quản trị, điều hành trong nền kinh tế xanh, ngành
sản xuất xanh cho đội ngũ cán bộ quản trị công và
doanh nghiệp, trước mắt là đối với đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, hoạch định chính sách, chiến lược, quy
hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
- Phát triển nguồn nhân lực cho tăng trưởng xanh
trên cơ sở nghiên cứu, lựa chọn đưa các nội
dung về tăng trưởng xanh, công nghệ xanh, khai
thác tài nguyên bền vững. vào các cấp học và
bậc học.
Thứ ba, công nghệ xanh - nhân tố quyết định cho
tăng trưởng xanh
So với các nước trong khu vực hiện nay thì tốc
độ đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt
Nam vẫn còn chậm và chưa được chú trọng.
Nguyên nhân là do nhận thức về đổi mới công
nghệ còn hạn chế, các doanh nghiệp chưa nhận
thấy lợi ích lâu dài của việc đổi mới công nghệ.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 341 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tăng trưởng xanh - Giải pháp phát triển bền vững cho doanh nghiệp trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
71
NGÀNH KINH TẾ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(58).2017
TĂNG TRƯỞNG XANH - GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG CHO DOANH NGHIỆP TRONG THỜI KỲ
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
GREEN GROWTH - SUSTAINABLE DEVELOPMENT
SOLUTION FOR ENTERPRISES IN THE TIME
OF INTERNATIONAL ECONOMIC INTEGRATION
Trần Thị Hằng
Email: tranhang.k48neu@gmail.com
Trường Đại học Sao Đỏ
Ngày nhận bài: 22/8/2017
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 25/9/2017
Ngày chấp nhận đăng: 26/9/2017
Tóm tắt
Tăng trưởng xanh là một xu hướng tiếp cận mới trong tăng trưởng kinh tế. Đây sẽ là giải pháp phát
triển kinh tế bền vững cho doanh nghiệp theo chiều sâu. Tuy nhiên, người lao động và doanh nghiệp
còn thiếu nhận thức về vấn đề tăng trưởng xanh dẫn đến việc sử dụng các nguồn lực theo hướng tăng
trưởng xanh có hiệu quả chưa cao. Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiện trạng chiến lược xanh tại Việt
Nam, tình hình phát triển và năng lực của doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế,
qua đó đưa ra một vài giải pháp hữu ích giúp doanh nghiệp phát triển bền vững theo định hướng chiến
lược tăng trưởng xanh.
Từ khóa: Tăng trưởng xanh; phát triển bền vững; hội nhập kinh tế quốc tế.
Abstract
Green growth is a new access trend in economic growth. This will be a solution for sustainable economic
development for businesses in depth. However, workers and enterprises lack awareness about green
growth, which leads to less efficient use of resources towards green growth. This study aims at
assessing the current state of the green strategy in Vietnam, the development situation and the capacity
of Vietnamese enterprises in the international economic integration period, thereby providing some
useful solutions for enterprises. Sustainable development in the direction of green growth strategy.
Keywords: Green growth; sustainable development; international economic integration.
1. GIỚI THIỆU
Kể từ khi thực hiện quá trình đổi mới đến nay,
Việt Nam đã có rất nhiều nỗ lực trong quá trình
cải cách thị trường và thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế. Mặc dù đã đạt được những tiến bộ nhất định
trong phát triển kinh tế nhưng chất lượng, năng
suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế
còn thấp. Tăng trưởng kinh tế còn dựa vào các
yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển
sang phát triển theo chiêu sâu. Tăng trưởng xanh
là một xu hướng tiếp cận mới trong tăng trưởng
kinh tế. Đây sẽ là giải pháp phát triển kinh tế theo
chiều sâu của thế kỷ 21.
Trong xu thế phát triển chung của thế giới hiện
nay và trong tương lai, Việt Nam không thể và
không nên là ngoại lệ trong định hướng thúc đẩy
tăng trưởng xanh. Từ nhiều năm qua, vấn đề tăng
trưởng xanh đã thu hút nhiều các tổ chức quốc tế
và các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu như:
Ủy ban Kinh tế xã hội châu Á - Thái Bình Dương
(UNESCAP, 2012; OECD, 2014). Những nghiên
cứu này đã đưa ra khung phân tích và các chỉ tiêu
đánh giá tăng trưởng xanh của nền kinh tế hiện
nay. “Tăng trưởng xanh đã và đang được xác định
là vấn đề trọng tâm trong chính sách phát triển
của nhiều quốc gia trên thế giới nhằm hướng tới
sự phát triển bền vững” [8].
72
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(58).2017
Ngày 25/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê
duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh
thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050 tại
Quyết định số 1393/QĐ-TTg. “Chiến lược quốc
gia về tăng trưởng xanh tập trung vào 3 nhiệm
vụ sau đây: (1) giảm khí thải nhà kính và thúc đẩy
sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; (2)
xanh hóa sản xuất; (3) xanh hóa lối sống và thúc
đẩy tiêu dùng bền vững” [1].
Tại Việt Nam, "Tăng trưởng xanh" tuy đã được
nhiều địa phương quan tâm, một số doanh nghiệp
lớn đã ứng dụng nhưng tầm quan trọng vẫn chưa
được thực sự đề cao so với việc thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Chính vì thế, phần lớn người dân
và doanh nghiệp chưa có nhận thức đầy đủ về sự
cấp thiết của tăng trưởng xanh. Đây sẽ là điểm
yếu đặc biệt đối với doanh nghiệp Việt Nam trong
bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, khi các công ty
mong muốn thu hút nguồn vốn và tìm kiếm khách
hàng, đối tác từ nước ngoài.
Xuất phát từ những vấn đề đó, trong khuôn khổ
bài viết này, tác giả xem xét cụ thể thực trạng
chiến lược tăng trưởng xanh tại Việt Nam, tình
hình phát triển và năng lực của doanh nghiệp Việt
Nam hiện nay, từ đó nhằm góp phần tìm kiếm các
giải pháp phát triển bền vững doanh nghiệp bằng
cách sử dụng hiệu quả các nguồn lực theo chiến
lược tăng trưởng xanh trong thời kỳ hội nhập kinh
tế quốc tế.
2. TĂNG TRƯỞNG XANH VÀ VẤN ĐỀ PHÁT
TRIỂN DOANH NGHIỆP TRONG THỜI KỲ HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
2.1. Tăng trưởng xanh và vai trò của tăng
trưởng xanh trong thời kỳ hội nhập kinh tế
quốc tế
Theo quan điểm của OECD: “Tăng trưởng xanh
là thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, đồng
thời đảm bảo các nguồn tài sản tự nhiên tiếp tục
cung cấp các tài nguyên và dịch vụ môi trường
thiết yếu cho cuộc sống của chúng ta. Để thực
hiện điều này, tăng trưởng xanh phải là nhân tố
xúc tác trong việc đầu tư và đổi mới, là cơ sở cho
sự tăng trưởng bền vững và tăng cường tạo ra
các cơ hội kinh tế mới” [11].
Quan điểm của UNESCAP cho rằng: “Tăng
trưởng xanh là cách tiếp cận để đạt được tăng
trưởng kinh tế, chính trị xã hội trong sự hạn chế
về môi trường và nguồn tài nguyên thiên nhiên,
hay nói cách khác đi tăng trưởng xanh là quá trình
xanh hóa hệ thống kinh tế theo qui ước và là một
chiến lược để đạt được một nền kinh tế xanh” [7].
Tại Việt Nam, “Tăng trưởng xanh được hiểu là tiến
tới nền kinh tế cacbon thấp, làm giàu vốn tự nhiên
trở thành xu hướng chỉ đạo trong phát triển kinh
tế bền vững, giảm phát thải và tăng khả năng hấp
thụ khí nhà kính dần trở thành chỉ tiêu bắt buộc và
quan trọng trong phát triển kinh tế” [2].
Có nhiều cách tiếp cận để thúc đẩy tăng trưởng
xanh, tuy nhiên, với cách tiếp cận nào, nội dung
của tăng trưởng xanh cũng chủ yếu bao gồm các
vấn đề: sản xuất và tiêu dùng bền vững; giảm
phát thải khí nhà kính và thích ứng với biến đổi khí
hậu; xanh hóa các hoạt động sản xuất kinh doanh
thông qua phát triển công nghệ xanh.
Các doanh nghiệp Việt Nam cần thiết phải chuyển
đổi mô hình tăng trưởng bằng thực hiện tăng
trưởng xanh vì những lý do sau: “(1) tăng trưởng
kinh tế hiện nay dựa chủ yếu vào yếu tố vốn và
lao động, trong khi đó hiệu quả và năng suất chưa
được coi trọng; (2) nền sản xuất dựa vào khai thác
các nguồn tài nguyên, nhưng hiệu quả sử dụng
thấp; (3) vai trò của khoa học - công nghệ chưa
được phát huy trong mô hình tăng trưởng” [10].
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, tăng trưởng
xanh có vai trò quan trọng, đó không chỉ là động
lực phục hồi kinh tế mà còn là phương thức thực
hiện phát triển bền vững với ba thành tố chính:
(1) phát triển kinh tế; (2) đảm bảo an sinh xã hội;
(3) bảo vệ môi trường. Vì vậy, các doanh nghiệp
phải lựa chọn cho mình phương thức tăng trưởng
xanh để có thể tiến kịp hoặc ít ra không bị tụt
hậu xa hơn so với các quốc gia trên thế giới và
khu vực.
Các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều tiềm năng
để thực hiện nền kinh tế xanh và bền vững trên
cơ sở lợi thế so sánh về vốn tự nhiên và vốn lao
động. Chiến lược phát triển bền vững giai đoạn
2011-2020 cũng đã xác định rõ hướng kinh tế
cần ưu tiên nhằm thực hiện sản xuất và tiêu dùng
bền vững là: (1) đẩy mạnh áp dụng rộng rãi sản
xuất sạch hơn để nâng cao hiệu quả sử dụng tài
nguyên thiên nhiên, nguyên vật liệu, năng lượng,
nước, đồng thời giảm thiểu phát thải và hạn chế
mức độ gia tăng ô nhiễm, bảo vệ chất lượng môi
trường, sức khỏe con người; (2) xây dựng văn
73
NGÀNH KINH TẾ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(58).2017
hóa tiêu dùng văn minh, hài hòa và thân thiện
với thiên nhiên. Từng bước thực hiện dán nhãn
sinh thái, mua sắm xanh. Phát triển thị trường sản
phẩm sinh thái và sáng kiến cộng đồng về sản
xuất và tiêu dùng bền vững.
2.2. Hiện trạng chiến lược tăng trưởng xanh
tại Việt Nam
Để từng bước cụ thể hóa Chiến lược tăng trưởng
xanh quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã xây
dựng Kế hoạch hành động quốc gia về tăng
trưởng xanh giai đoạn 2013-2020. Trong đó chú
trọng vào bốn nội dung là xây dựng thể chế và
kế hoạch tăng trưởng xanh tại địa phương; giảm
cường độ khí thải nhà kính và thúc đẩy sử dụng
năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; thực hiện
xanh hóa sản xuất, lối sống và tiêu dùng.
Tại Việt Nam, tăng trưởng nhanh những năm
trước đây cũng đã bộc lộ ra những vấn đề mang
tính cơ cấu. Chất lượng và tính bền vững của
tăng trưởng vẫn là vấn đề đáng lo ngại. Việc tăng
trưởng kinh tế sử dụng và dựa quá nhiều vào vốn,
lao động, đặc biệt là tài nguyên, năng lượng. Các
nguồn lực này được khai thác triệt để và có nguy
cơ cạn kiệt dần và đang trở thành thách thức rất
lớn. Việc sử dụng quá nhiều dạng năng lượng và
nguyên liệu hóa thạch đã làm cho lượng khí thải
gây hiệu ứng nhà kính tăng khá nhanh.
Bảng 1. Dự báo mức phát thải khí nhà kính của
Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020
(Đơn vị tính: triệu tấn CO2)
Năm
Đốt
nhiên
liệu
Sản
xuất
công
nghiệp
Hoạt
động
nông
nghiệp
Tổng
phát
thải khí
nhà
kính
2010 141 21 15 247
2020 332 40 24 480
2030 712 49 33 864
2040 1283 50 40 1481
2050 2103 69 49 2391
(Nguồn: Dự án Calculator 2050)
Có thể nhận thấy lượng khí thải nhà kính do
hoạt động đốt nhiên liệu chiếm tỷ trọng lớn. Các
mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, cũng như
kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược quốc
gia về tăng trưởng xanh hoàn toàn phù hợp với
cam kết “Đóng góp do quốc gia tự quyết định”
(Nationally Determined Contribution - NDC) và kế
hoạch của Việt Nam thực hiện Thỏa thuận Paris
về biến đổi khí hậu.
Bảng 2. Tiềm năng giảm khí thải CO2 của các ngành
Ngành
Chi phí giảm phát thải CO2 (USD/tấn CO2)
≤0 ≤5 ≤10 ≤20
Số
lựa
chọn
Lượng
phát
thải
giảm
(MtCO2)
Số
lựa
chọn
Lượng
phát
thải
giảm
(MtCO2)
Số
lựa
chọn
Lượng
phát
thải
giảm
(MtCO2)
Số
lựa
chọn
Lượng
phát
thải
giảm
(MtCO2)
Xây dựng 3 0,17 3 0,17 3 0,17 3 0,17
Vật liệu xây dựng 1 0,49 1 0,49 1 0,49 1 0,49
Ximăng 3 2,61 3 2,61 3 2,61 3 2,61
Dệt may 2 0,08 2 0,08 2 0,08 2 0,08
Hộ gia đình 8 14,80 9 16,22 9 16,22 9 16,22
Giấy và bột giấy 2 0,19 2 0,19 2 0,19 2 0,19
Sản xuất điện 0 0 1 15,49 3 17,96 9 61,23
Sắt, thép 2 0,09 3 0,22 3 0,22 3 0,22
Giao thông đường bộ 1 3,45 1 3,45 1 3,45 1 3,45
(Nguồn: [5])
74
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(58).2017
Bên cạnh việc giảm thiểu khí thải nhà kính, Việt
Nam đang từng bước tham gia các sáng kiến cấp
khu vực về tiêu dùng và sản xuất xanh. Dự án khu
vực về “Thúc đẩy tiêu dùng và tham gia sản xuất
các sản phẩm xanh thông qua mua sắm công bền
vững và nhãn sinh thái” đã hoàn thiện. Trung tâm
Sản xuất sạch Việt Nam đã triển khai thành công
chương trình đánh giá sản xuất sạch tại trên 30
tỉnh thành với hơn 400 doanh nghiệp.
Cùng với việc xây dựng kế hoạch sản xuất sạch
hơn thì chương trình Dán nhãn sinh thái đã
được Bộ Tài nguyên và Môi trường triển khai từ
năm 2010.
Bảng 3. Danh sách các sản phẩm được chứng nhận Nhãn xanh Việt Nam
STT Sản phẩm Công ty Mã số Hiệu lực
1 Bột giặt Tide Công ty TNHH Procter & Gramble
Số 52/QĐ-
TCMT-2011
18/01/2011 đến
18/01/2014
2
- Bóng đèn huỳnh quang compact (33 loại)
- Bóng đèn huỳnh quang ống thẳng (10 loại)
- Bóng đèn double wing (3 loại)
Công ty cổ phần Bóng
đèn Điện Quang
Số 1228/QĐ-
TCMT-2014
10/10/2014 đến
10/10/2017
3
Sơn phủ dùng trong xây dựng:
- Majestic Pearl Silk
- Jotashield
Công ty TNHH Sơn
Jotun Việt Nam
Số 83/QĐ-
TCMT-2014
20/2/2014 đến
20/2/2017
4
Máy in:
- Fuji Xerox DocuPrint P355d
- Fuji Xerox DocuPrint P355db
Văn phòng đại diện Fuji
Xerox Asia Pacific Pte
Ltd.
Số 512/QĐ-
TCMT-2014
29/5/2014 đến
29/5/2017
5
Sơn phủ dùng trong xây dựng:
- Majestic đẹp hoàn hảo - bóng sang trọng
- Majestic đẹp hoàn hảo - mờ cổ điển
Công ty TNHH Sơn
Jotun Việt Nam
Số 599/QĐ-
TCMT-2014
20/6/2014 đến
20/6/2017
6 Bình ắc quy GS, bình ắc quy Yuasa Công ty TNHH Ắc quy GS Việt Nam
1634/QĐ-
TCMT-2016
01/11/2016 đến
01/11/2019
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả)
Nhãn xanh Việt Nam được kỳ vọng là công cụ để
nhà sản xuất qua đó khẳng định trách nhiệm của
mình đối với xã hội và môi trường, nâng cao thị
phần và lợi nhuận cho hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Có thể nói rằng, Nhãn xanh Việt Nam sẽ
tạo cơ hội cho sự gặp nhau giữa các nhu cầu của
nhà sản xuất, người tiêu dùng và Nhà nước trong
mục tiêu hướng tới sản xuất và tiêu dùng bền
vững củng cố cho tiến trình xây dựng nền “kinh tế
xanh” tại Việt Nam.
Việc thừa nhận nhãn sinh thái giữa các quốc gia
sẽ mang lại lợi ích lớn cho các doanh nghiệp tham
gia chương trình này vì khi đó sản phẩm, dịch vụ
của doanh nghiệp đã dán Nhãn xanh sẽ được
hưởng ưu đãi khi xuất khẩu.
2.3. Tình hình phát triển và thực trạng sử dụng
các nguồn lực của doanh nghiệp Việt Nam
theo chiến lược tăng trưởng xanh
2.3.1. Tình hình phát triển doanh nghiệp
Năm 2016, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm
quốc nội chỉ đạt 6,21%, thấp hơn so với mức
6,88% của năm 2015 và chưa đạt được mục tiêu
6,7% đề ra. Tuy nhiên trong bối cảnh kinh tế thế
giới có nhiều diễn biến phức tạp, cũng như nền
kinh tế trong nước còn nhiều khó khăn, mức tăng
trưởng này có thể coi là đáng khích lệ. Ngoài ra,
năm 2016 còn ghi nhận số lượng doanh nghiệp
đăng ký thành lập đạt mức cao nhất trong nhiều
năm trở lại đây, với 110.100 doanh nghiệp mới,
đưa số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập cán
mốc 1 triệu doanh nghiệp [4].
Sự phát triển của doanh nghiệp đã thể hiện hai
xu hướng khác nhau. Nếu những năm 2007-
2011, các chỉ số phản ánh tốc độ tăng trưởng về
số lượng doanh nghiệp, số lượng lao động, tổng
tài sản và doanh thu đạt mức khá cao thì đến giai
đoạn 2012-2015, tốc độ tăng của các chỉ tiêu này
giảm mạnh và không đồng nhất cho thấy sự mất
cân đối trong phát triển.
75
NGÀNH KINH TẾ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(58).2017
Chất lượng và tính chất bền vững của tăng trưởng
kinh tế vẫn còn đáng lo ngại. Việc tăng trưởng
kinh tế sử dụng và dựa vào quá nhiều về tài
nguyên, năng lượng khai thác triệt để dẫn tới nguy
cơ cạn kiệt và đang trở thành thách thức lớn cho
doanh nghiệp.
Trước thực trạng này thì yêu cầu cấp thiết đặt ra
cho doanh nghiệp là cần xây dựng cho mình giải
pháp phát triển bền vững hơn và tăng trưởng xanh
chính là nội dung quan trọng của phát triển bền
vững, đảm bảo phát triển doanh nghiệp nhanh,
hiệu quả.
2.3.2. Thực trạng sử dụng các nguồn lực của
doanh nghiệp Việt Nam theo chiến lược tăng
trưởng xanh
Để có thể tồn tại và phát triển, doanh nghiệp Việt
Nam (DNVN) cần phải nâng cao năng lực cạnh
tranh của mình vì nó là chìa khóa dẫn đến thành
công của tất cả các doanh nghiệp. Để tạo ra lợi
thế cạnh tranh, các doanh nghiệp phải có nguồn
lực phù hợp. Vì vậy, một yêu cầu cấp bách cho
DNVN là họ phải nhận dạng, nuôi dưỡng và phát
triển các nguồn lực có thể tạo nên lợi thế cạnh
tranh cho mình một cách bền vững để có thể cạnh
tranh được trên thị trường nội địa và từng bước
trên thị trường quốc tế.
2.3.2.1. Kết quả đạt được
a. Nguồn vốn và hiệu quả sử dụng vốn
Cùng với những mục tiêu phát triển chung của
quốc gia về tăng trưởng xanh, cộng đồng doanh
nghiệp được xem là một nhân tố quan trọng, góp
phần vào việc xây dựng một nền kinh tế tăng
trưởng xanh và bền vững ở Việt Nam.
Trong giai đoạn trên, tổng nguồn vốn của các
doanh nghiệp trong nền kinh tế đã tăng gần 5
lần, từ 4,8 triệu tỷ đồng năm 2007 lên 23,6 triệu tỷ
đồng năm 2015, với tốc độ tăng trưởng bình quân
khoảng 22,6%.
Đứng trước thách thức về nguồn vốn như vậy,
việc hoàn thiện và phát triển hệ thống “tài chính
xanh” trong hệ thống ngân hàng là một yêu cầu
cấp thiết. Hệ thống tài chính xanh cần chỉ rõ được
vai trò và năng lực của ngành tài chính trong phân
bổ và quản lý sử dụng ngân sách nhà nước nhằm
thúc đẩy sử dụng hiệu quả, tiết kiệm các nguồn
năng lượng, tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi
trường. Bộ Tài chính đã ban hành quy chế mua
sắm công xanh, trong đó chi mua sắm sử dụng
nguồn ngân sách nhà nước phải ưu tiên hàng
hóa dán nhãn sinh thái, hàng hóa có khả năng
tái chế, riêng các phương tiện giao thông cơ giới
mua bằng kinh phí công từ năm 2017 phải đạt tiêu
chuẩn khí thải Euro; ưu tiên bố trí kinh phí cho các
hoạt động liên quan đến bảo vệ môi trường, thúc
đẩy tăng trưởng xanh.
Hiện nay, một số ngân hàng đã triển khai các gói
hỗ trợ tín dụng xanh hỗ trợ doanh nghiệp như:
Năm 2015, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam (BIDV) hợp tác với Công ty VWS tài trợ 90
triệu USD cho dự án Khu liên hợp xử lý chất thải
rắn Đa Phước tại TP. Hồ Chí Minh, và làm đầu
mối giải ngân 620 triệu USD cho 04 dự án tài
chính nông thôn do World Bank (WB) tài trợ từ
năm 1999 đến nay. Cùng với BIDV, 03 ngân hàng
4801
6293
8779
12121
14863 16101
18786
21251
23638
52
31
39.5 38.2
22.6
8.3
16.7 13.1 11.2
0
10
20
30
40
50
60
0
5000
10000
15000
20000
25000
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Tổng nguồn vốn (nghìn tỷ đồng) Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn (%)
Hình 1. Tổng nguồn vốn của doanh nghiệp giai đoạn 2007-2015
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
76
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(58).2017
là Agribank, Sacombank và Vietcombank đã tham
gia cho vay thí điểm các dự án kinh doanh năng
lượng tái tạo, xử lý tái chế rác thải môi trường,
giảm thiểu các tác hại từ biến đổi khí hậu mang lại
với tổng giá trị lên đến 2.000 tỷ đồng.
Tháng 7/2016, Ngân hàng Nhà nước cùng với WB
đã ký kết hiệp định pháp lý cho 3 dự án chính
sách phát triển về quản lý kinh tế và năng lực cạnh
tranh; chính sách phát triển về biến đổi khí hậu
và tăng trưởng xanh và dự án cấp nước, xử lý
nước thải đô thị. Tổng giá trị của 03 dự án là 371
triệu USD. Bên cạnh đó, IFC đã phối hợp với các
ngân hàng của Việt Nam như Techcombank và
Vietinbank xây dựng chương trình tín dụng tiết
kiệm năng lượng dành cho các doanh nghiệp vừa
và nhỏ với tổng giá trị gần 63 triệu USD.
Một số ngân hàng lớn như Vietinbank, ACB,
Sacombank... cũng đã triển khai các hoạt động
cho vay có bảo lãnh cho các dự án thân thiện môi
trường do Quỹ Ủy thác tín dụng xanh (GCTF) của
Chính phủ Thụy Sỹ thành lập tại Việt Nam tài trợ.
Nguồn tài chính nhà nước tài trợ cho các dự án
thân thiện môi trường chủ yếu được thông qua
các quỹ như: Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam,
Quỹ Bảo vệ môi trường Hà Nội, Quỹ Giảm thiểu
ô nhiễm TP. Hồ Chí Minh... Các quỹ này cho các
dự án xử lý chất thải, phòng ngừa khắc phục sự
cố môi trường, triển khai công nghệ thân thiện môi
trường... vay vốn với mức lãi suất ưu đãi.
Thông qua tài chính xanh, các doanh nghiệp có
cơ hội ưu tiên để dành được kinh phí thỏa đáng
trong thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh.
b. Chất lượng và hiệu quả sử dụng lao động
Lao động là một trong những yếu tố đầu vào của
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
mối tương quan giữa doanh thu mà người lao
động mang lại cho doanh nghiệp và thu nhập của
người lao động sẽ phản ánh hiệu quả sử dụng lao
động của doanh nghiệp.
7.2 7.9
8.7
9.8
10.9 11.1 11.6
12.1 12.9
16
9
9.9
13.4
10.8
1.7
4.3
4.6
6.2
0
5
10
15
20
0
2
4
6
8
10
12
14
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Lao động (triệu người) Tăng trưởng lao động (%)
Hình 2. Tăng trưởng lao động trong doanh nghiệp giai đoạn 2007-2015
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Sự phát triển về số lượng doanh nghiệp đã tạo ra
nhiều việc làm cho người lao động. Số lượng lao
động trong khu vực doanh nghiệp đã tăng hơn 1,7
lần với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 7,5%/
năm, bằng một nửa so với tốc độ tăng trưởng về
số lượng doanh nghiệp trong cùng thời kỳ.
Tại Việt Nam, tăng trưởng xanh tuy đã được nhiều
địa phương quan tâm, nhiều doanh nghiệp ứng
dụng song chưa thành xu thế do tầm quan trọng
của tăng trưởng xanh chưa được thực sự đề cao
so với việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chính
vì thế, số đông người lao động và doanh nghiệp
chưa có nhận thức đầy đủ về sự cấp thiết của
tăng trưởng xanh.
c. Công nghệ và xu hướng sử dụng
Việc tăng trưởng “nóng” về kinh tế và phát triển ồ
ạt các doanh nghiệp cũng là nguyên nhân gây ô
nhiễm môi trường, suy giảm tài nguyên. Nguyên
nhân là do trình độ công nghệ của các doanh
nghiệp nước ta hiện nay còn lạc hậu, chậm đổi
mới, hiệu quả kinh tế thấp.
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã từng bước
tạo lập khung pháp lý, hình thành cơ chế chính
77
NGÀNH KINH TẾ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(58).2017
sách để thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ
theo hướng phát triển xanh qua việc ban hành hệ
thống các luật: Luật Khoa học công nghệ (ra đời
năm 2000, sửa đổi năm 2013), Luật Chuyển giao
công nghệ (2006); Luật Công nghệ cao (2008);
Luật Sử dụng năng lượng, tiết kiệm và hiệu quả
(2010) Các luật này đã tạo hành lang và thủ tục
thuận lợi để doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ đổi
mới công nghệ.
Tuy nhiên, công nghệ sản xuất cũ, lạc hậu còn
phổ biến, năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh
không cao, hiệu quả sử dụng các nguồn lực thấp;
công nghệ sản xuất năng lượng tái tạo chưa phát
triển; trình độ phát triển khoa học, công nghệ
(nhất là hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D)
và chuyển giao công nghệ) còn thấp. Theo các
cuộc điều tra trong các ngành công nghiệp gần
đây, trình độ công nghệ nói chung của hầu hết
các ngành còn khá hạn chế. Một lượng không nhỏ
thiết bị sản xuất hiện tại trong các cơ sở sản xuất
sử dụng các công nghệ phổ biến của những thập
niên 80, 90 thậm chí là 70 của thế kỷ 20, hàm
lượng công nghệ mới, công nghệ sạch thấp.
Bảng 4. Xu hướng sử dụng công nghệ xanh tại một một số ngành công nghiệp
TT Ngành Công đoạn áp dụng công nghệ xanh
1 Dệt may
(1) Sử dụng công nghệ nhuộm dung tỷ thấp; (2) Sử dụng thuốc nhuộm có độ tận trích cao; (3)
Sử dụng công nghệ nhuộm cuộn ủ lạnh; (4) Sử dụng phụ phẩm nông nghiệp thay cho than và
dầu FO cho nồi hơi; (5) Sản xuất sản phẩm dệt may thân thiện với môi trường.
2 Da giày
(1) Công nghệ thuộc crom với mức tiêu thụ nước thấp; (2) Công nghệ thuộc thân thiện môi
trường như thuộc tanin thảo mộc; (3) Công nghệ thuộc khan; (4) Công nghệ thuộc thay thế
một phần crom, công nghệ tuần hoàn dịch thuộc crom.
3 Giấy
(1) Công nghệ thu hồi hóa chất và nấu liêu tục trong sản xuất bột; (2) Công nghệ đồng phát
điện trong khâu phụ trợ; (3) Công nghệ tái chế giấy; (4) Công nghệ tuần hoàn 100% nước
thải xeo.
4 Bia
(1) Công nghệ sản xuất bia sử dụng ít nước; (2) Công nghệ thu hồi nhiệt từ công đoạn nấu;
(3) Sử dụng nồi hơi đốt gas, kết hợp sử dụng biogas từ hệ thống xử lý nước thải; (4) Nồi hơi
sử dụng phụ phẩm nông nghiệp thay cho than và dầu FO; (5) Xử lý nước thải theo công nghệ
ủ biogas thu hồi năng lượng cấp nồi hơi hoặc công nghệ thẩm thấu ngược (RO) để tuần hoàn
nước thải về sản xuất.
5 Thiết bị điện
(1) Công nghệ sản xuất quạt điện không sử dụng hóa chất độc hại; (2) Công nghệ mạ không
sử dụng crom và xianua (3) Công nghệ sản xuất ra các sản phẩm sử dụng năng lượng
hiệu quả.
6 Hóa chất
(1) Công nghệ sản xuất phân bón NPK cơ khí và tự động hóa; (2) Sử dụng công nghệ áp
suất thấp, khí hoá than cám trong sản xuất đạm ure; (3) Công nghệ sản xuất phân hữu cơ,
phân bón và pin thân thiện môi trường; (4) Công nghệ sản xuất các sản phẩm hóa học thân
thiện môi trường.
7
Khai thác
và chế biến
than
(1) Hạn chế, kiểm soát và giảm dần khai thác lộ thiên; (2) Sử dụng công nghệ khai thác
than hầm lò có thu hồi khí metan; (3) Cơ giới hóa công nghệ đào lò thay cho nổ mìn và sử
dụng máy combai; (4) Sử dụng công nghệ vận chuyển than bằng băng tải thay cho sử dụng
goòng, tàu điện; (5) Tăng hiệu suất tuyển than để tận thu than; (6) Sử dụng công nghệ sàng
khử nước.
8 Nhiệt điện
(1) Công nghệ nhiệt điện sử dụng toàn bộ hoặc một phần năng lượng sạch như biomass,
năng lượng mặt trời; (2) Công nghệ nhiệt điện than hiệu suất cao, phát thải thấp, công nghệ
đốt than nghiền siêu tới hạn và công nghệ chu trình hỗn hợp khí hóa than phát điện; (3) Công
nghệ thu hồi và lưu giữ cacbon.
(Nguồn: [12])
Để phát triển đất nước bền vững, công nghệ xanh
sẽ là nhân tố quyết định cho việc tăng trưởng kinh
tế và thúc đẩy phát triển bền vững; giảm sử dụng
năng lượng hóa thạch. Do đó, các doanh nghiệp
cần tăng cường năng lực về đổi mới công nghệ và
tính cạnh tranh của công nghệ xanh trong nước
cũng như trên trường quốc tế.
2.3.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được ở trên thì việc
sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp theo
định hướng chiến lược xanh hiện đang đứng
trước những hạn chế như sau:
Thứ nhất, nguồn lực tài chính cho tăng trưởng
xanh của doanh nghiệp chưa đủ. Có thể nhận
78
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(58).2017
thấy hiện nay doanh nghiệp chưa có nhu cầu sử
dụng sản phẩm tín dụng xanh, hoặc nếu có thì
còn thiếu thông tin để tiếp cận tín dụng xanh của
ngân hàng. Trong khi đó, muốn thực hiện chiến
lược tăng trưởng xanh, đòi hỏi doanh nghiệp phải
có một nguồn vốn lớn tập trung cho các dự án
xanh. Tuy nhiên, từ trước tới nay các ngân hàng
chưa có giải pháp riêng hỗ trợ cho xu hướng tăng
trưởng xanh. Hơn nữa, để đảm bảo tăng trưởng
xanh được bền vững, cơ chế, chính sách phải
thiết lập đầy đủ, thống nhất, đồng bộ và phù hợp
thực tiễn, góp phần phát triển tín dụng xanh.
Thứ hai, hạn chế về nguồn nhân lực chất lượng
cao và thiếu nhận thức về tăng trưởng xanh. Tăng
trưởng xanh là hướng đi mới trên thế giới đã được
giới thiệu cách đây khoảng 8-10 năm, tuy nhiên
doanh nghiệp tại Việt Nam chưa có kinh nghiệm
trong xây dựng và thực hiện cả về thể chế, chính
sách, huy động nguồn lực, tổ chức thực hiện,
cũng như cách thức nâng cao nhận thức cho cộng
đồng doanh nghiệp. Nhận thức chung về kinh tế
xanh của nguồn nhân lực còn rất hạn chế do thói
quen sản xuất và tiêu dùng còn lạc hậu so với yêu
cầu của tăng trưởng xanh - chủ yếu quan tâm đến
giá cả, tính an toàn của sản phẩm đối với cá nhân
người tiêu dùng mà chưa tính đến lợi ích cho môi
trường chung của cộng đồng.
Thứ ba, trình độ công nghệ thấp, lạc hậu, chưa
tương xứng với tiềm năm phát triển. Trình độ công
nghệ nói chung của doanh nghiệp còn khá hạn
chế, hàm lượng công nghệ mới, công nghệ sạch
thấp. Hầu hết các doanh nghiệp tiềm lực kinh tế
còn hạn hẹp, chưa mạnh dạn “đầu tư mạo hiểm”
để tạo ra bước đột phá trong sản xuất và kinh
doanh. Trong cấu trúc doanh nghiệp nước ta chủ
yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, năng lực đổi
mới công nghệ thấp, nên việc thay đổi hoặc đổi
mới công nghệ gặp không ít khó khăn. Chi cho
đầu tư nâng cấp, cải tiến công nghệ còn hạn chế.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tuy đóng góp
cao vào tăng trưởng, đầu tư và xuất khẩu nhưng
ít tương tác với khu vực doanh nghiệp trong
nước, chuyển giao công nghệ không đáng kể,
chưa thực sự tận dụng cho tăng trưởng xanh ở
doanh nghiệp.
3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
DOANH NGHIỆP THEO CHIẾN LƯỢC TĂNG
TRƯỞNG XANH
Năm 2017, tăng trưởng kinh tế Việt Nam được
kỳ vọng sẽ có nhiều khởi sắc hơn khi độ trễ các
chính sách điều hành kích thích tăng trưởng năm
2016 phát huy tác dụng. Những yếu tố quan trọng
có thể khuyến khích thúc đẩy hoạt động sản xuất
và xuất khẩu cho các doanh nghiệp Việt Nam như:
việc thực hiện các hiệp định thương mại với lộ
trình cắt giảm thuế quan sâu rộng hơn với nhiều
sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, sự cải
thiện về môi trường kinh doanh. Việc thông qua
Luật Quy hoạch, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ
và vừa và nhiều chính sách cải cách quan trọng
như thực thi Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư sẽ
là những yếu tố quan trọng, tạo niềm tin cho cộng
đồng doanh nghiệp phát triển. Để thực hiện thành
công các định hướng mà Chính phủ đã đề ra, các
doanh nghiệp cần triển khai giải pháp kinh doanh
xanh hướng tới một nền kinh tế xanh và phát triển
bền vững.
Thứ nhất, tài chính xanh - giải pháp nguồn vốn
đầu tư cho tăng trưởng xanh
Thực tế, việc triển khai các gói tín dụng xanh gặp
phải một số rào cản: (1) Doanh nghiệp chưa có
nhu cầu sử dụng sản phẩm tín dụng xanh của
ngân hàng; (2) Thiếu các thông tin về các sản
phẩm tín dụng xanh của ngân hàng; (3) Thời gian
xin cấp tín dụng xanh dài, các thủ tục vay vốn
phức tạp; (4) Thiếu tài sản đảm bảo do hầu hết
các doanh nghiệp đều là các doanh nghiệp vừa
và nhỏ.
Từ những bất cập trong triển khai các gói tín
dụng xanh, bản thân các doanh nghiệp cần đề
ra các giải pháp tháo gỡ “nút thắt” tín dụng xanh
bằng cách:
- Doanh nghiệp cần tìm hiểu các chính sách ưu
đãi, hỗ trợ về lãi suất, thủ tục vay vốn, tài sản đảm
bảo để tăng cường đầu tư vào các dự án thân
thiện với môi trường.
- Cần nâng cao nhận thức về các sản phẩm tín
dụng xanh của ngân hàng với những bước đi cụ
thể thông qua tổ chức đào tạo, tuyên truyền, phổ
biến nhằm nâng cao ý thức sử dụng hiệu quả,
tiết kiệm năng lượng, các nguồn tài nguyên thiên
nhiên và bảo vệ môi trường.
- Tăng cường sự kết nối giữa ngân hàng và doanh
nghiệp để tìm kiếm các nhu cầu đầu tư xanh. Các
doanh nghiệp khi tiếp cận các nguồn vốn cần tích
cực tham gia các dự án xanh và sản xuất sản phẩm
xanh, cần phải đầu tư vào cơ sở hạ tầng và công
nghệ xanh, sạch, thân thiện với môi trường. Trong
dài hạn, điều này sẽ giúp các doanh nghiệp có thể
giảm chi phí về năng lượng và chi phí sản xuất, từ
đó gia tăng lợi nhuận. Nhờ đó, môi trường sinh thái
của quốc gia không bị đe dọa, tránh được các chi
phí lớn cho việc giải quyết hậu quả về môi trường.
79
NGÀNH KINH TẾ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(58).2017
Thứ hai, nhân lực xanh - tiềm lực phát triển chiều
sâu cho tăng trưởng xanh
Thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao và thiếu
nhận thức về tăng trưởng xanh là điểm yếu đặc
biệt đối với doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay khi các công ty mong muốn
thu hút nguồn vốn và tìm kiếm khách hàng, đối tác
từ nước ngoài. Vì vậy, để có thể thực hiện phát
triển bền vững qua tăng trưởng xanh cần:
- Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là
phục vụ tăng trưởng xanh, xây dựng cơ chế chính
sách để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao;
thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài xây dựng
các cơ sở đào tạo chất lượng cao, đa ngành.
- Tổ chức đào tạo và bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng
quản trị, điều hành trong nền kinh tế xanh, ngành
sản xuất xanh cho đội ngũ cán bộ quản trị công và
doanh nghiệp, trước mắt là đối với đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, hoạch định chính sách, chiến lược, quy
hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
- Phát triển nguồn nhân lực cho tăng trưởng xanh
trên cơ sở nghiên cứu, lựa chọn đưa các nội
dung về tăng trưởng xanh, công nghệ xanh, khai
thác tài nguyên bền vững... vào các cấp học và
bậc học.
Thứ ba, công nghệ xanh - nhân tố quyết định cho
tăng trưởng xanh
So với các nước trong khu vực hiện nay thì tốc
độ đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt
Nam vẫn còn chậm và chưa được chú trọng.
Nguyên nhân là do nhận thức về đổi mới công
nghệ còn hạn chế, các doanh nghiệp chưa nhận
thấy lợi ích lâu dài của việc đổi mới công nghệ.
Do đó, giải pháp quan trọng là cần tiếp tục hoàn
thiện hệ thống chính sách về đổi mới công nghệ
theo hướng phát triển xanh, sạch. Tăng cường
nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp về
đổi mới công nghệ. Hình thành các cơ chế, chính
sách, chương trình đào tạo nguồn nhân lực có
trình độ cao về kỹ thuật công nghệ, thân thiện với
môi trường. Thúc đẩy phát triển thị trường công
nghệ hỗ trợ doanh nghiệp trong phát triển chuyển
giao khoa học, kỹ thuật.
4. KẾT LUẬN
Quá trình tăng trưởng của các doanh nghiệp Việt
Nam thời gian qua đã dựa trên các nguồn lực cơ
bản như vốn, nhân lực và công nghệ. Tuy nhiên,
người lao động và doanh nghiệp còn thiếu nhận
thức về vấn đề tăng trưởng xanh dẫn đến việc sử
dụng các nguồn lực theo hướng tăng trưởng xanh
có hiệu quả chưa cao. Vì vậy, để đạt được các mục
tiêu trong chiến lược của Chính phủ về tăng trưởng
xanh và đảm bảo phát triển bền vững thì doanh
nghiệp cần đặc biệt quan tâm tới giải pháp tài chính
xanh, nhân lực xanh và công nghệ xanh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Chính phủ (2012). Chiến lược phát triển bền vững
Việt Nam giai đoạn 2011-2020.
[2]. Chính phủ (2012). Phê duyện Chiến lược quốc gia
về tăng trưởng xanh.
[3]. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
(2016). Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt
Nam năm 2015. NXB Thông tin và Truyền thông
[4]. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
(2017). Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt
Nam năm 2016. NXB Thông tin và Truyền thông.
[5]. CIEM, DoE, ILSSA (2014). Đặc điểm môi trường
kinh doanh ở Việt Nam. Kết quả điều tra doanh
nghiệp nhỏ và vừa năm 2013. NXB Tài chính.
[6]. Nguyễn Thu Hà (2017). Chương trình nhãn xanh
Việt Nam - Hội thảo: Chiến lược thương hiệu gắn
với doanh nghiệp.
[7]. Phạm Hồng Mạnh (2014). Tăng trưởng xanh tại
Việt Nam: nhìn từ quá trình sử dụng năng lượng
và mức phát thải khí CO2. Tạp chí Science &
Technology Development, Vol 17, No. Q3, tr. 14-25.
[8]. Hồ Hạnh Mỹ (2016). Tài chính xanh cho tăng
trưởng và phát triển bền vững tại Việt Nam. Tạp chí
Khoa học & Đào tạo ngân hàng, số 171, tr. 23-30.
[9]. Đinh Đức Trường (2015). Quản lý môi trường tại
các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt
Nam. Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội,
tập 30, số 5, tr. 46-55.
[10]. Bùi Quang Tuấn, Hà Huy Ngọc (2015). Chiến lược
tăng trưởng xanh quốc gia sau ba năm thực hiện:
Kết quả và thách thức. Những vấn đề kinh tế và
chính trị thế giới số 8(232), tr. 34 - 43.
[11]. OECD (2014). Green Growth Indicators, OECD
Green Growth Studies. OECD Publishi (http://
dx.doi.org/10.1787/9789264202030-en.)
[12].
com/2015/09/28/cong-nghe-sach-o-viet-nam-hien-
trang-va-xu-huong-phat-trien
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tang_truong_xanh_giai_phap_phat_trien_ben_vung_cho_doanh_ngh.pdf