Kiến nghị
- Sở KH&CN tiếp tục quan tâm, tạo điều
kiện để tiếp tục phát triển cây trám đen thông
qua triển khai nghiên cứu về bảo quản, chế
biến, xây dựng chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm
trám đen.
- Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
ưu tiên hỗ trợ phát triển cây trám đen trong
những năm tiếp theo trên địa bàn huyện
Thanh Chương và các vùng phụ cận.
- UBND huyện Thanh Chương, phòng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Trạm
Khuyến nông - khuyến lâm huyện quan tâm,
có phương án quản lý cây đầu dòng và vườn
cây đầu dòng, tiếp tục kết nối các nguồn kinh
phí khác hỗ trợ, đầu tư cho người dân phát
triển cây trám ghép.
- UBND huyện Thanh Chương giao các
đơn vị chuyên môn tiếp tục theo dõi, đánh giá
kết quả dự án.
- Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm rau,
hoa, quả Gia Lâm - Viện Nghiên cứu rau quả
Trung ương tiếp tục theo dõi, hỗ trợ người dân
Thanh Chương về các vấn đề kỹ thuật liên
quan đến cây trám đen và các loại rau, hoa,
quả khác, kể cả trong điều kiện không có
nguồn đầu tư, hỗ trợ từ địa phương.
- Người dân Thanh Chương cần chủ động
phát huy nội lực để xây dựng các mô hình
kinh tế từ các cây trồng nông nghiệp nói
chung và mô hình trồng cây trám đen nói
riêng góp phần nâng cao thu nhập và cải thiện
cảnh quan vườn hộ trong điều kiện không có
nguồn đầu tư hỗ trợ của Nhà nước./.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 8 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tạo giống và phát triển cây trám đen ở huyện Thanh Chương (giai đoạn 2), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOẠT ĐỘNG KH-CN
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 1/2017 [18]
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, trám được
xem là một loại quả đặc sản, quả sạch do loại
cây trồng này sinh trưởng khỏe, chống chịu
sâu bệnh tốt nên hầu như không phải phun
thuốc phòng trừ sâu bệnh. Trám cũng là cây
trồng được đánh giá có hiệu quả kinh tế cao
(tính với giá 50.000 đồng/kg, mỗi cây đạt
năng suất 70-100kg, cho thu nhập mỗi năm
đạt 3.500.000-5.000.000 đồng/cây, nhiều
cây còn cho thu nhập trên 10.000.000
đồng/năm). Quả trám chế biến được nhiều dạng
như: om, muối, ô mai, thời gian thu hoạch
kéo dài nên thị trường tiêu thụ rất khả quan.
Tại Nghệ An, cây trám đen phân bố ở một
số huyện như Thanh Chương, Đô Lương,
Anh Sơn, Tân Kỳ... Trên địa bàn huyện
Thanh Chương, các xã Thanh Tiên, Thanh
Liên, Phong Thịnh, Cát Văn, Thanh Nho,
n Nguyễn Hữu Hiếu
Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm Rau, hoa, quả Gia Lâm
(Viện Nghiên cứu Rau, quả Trung ương)
Hạnh Lâm, Thanh Đức, Thanh Thủy xem đây là cây
trồng góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập
và thậm chí có thể làm giàu. Tuy nhiên, cây trám được
trồng ở Nghệ An và huyện Thanh Chương chủ yếu là
mọc tự nhiên hoặc được trồng bằng hạt, có rất nhiều
nhược điểm như lâu có quả (7-8 năm mới bói quả),
nhanh bị thoái hóa, bộ khung tán cao nên khó khăn
cho việc thu hoạch, chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh,
năng suất không ổn định, chất lượng quả không đều,
giá bán thấp.
Kết quả thực hiện giai đoạn 1 của dự án, cây trám
đen đã được nhân giống bằng phương pháp ghép
thành công. Ưu điểm của cây ghép là cây trồng nhanh
cho thu hoạch quả (3 năm cho thu hoạch), cây con
thừa hưởng được các đặc tính tốt từ cây mẹ, hệ số
nhân giống cao, bộ khung tán thấp nên thuận lợi cho
việc chăm sóc, thu hoạch và phòng trừ sâu bệnh. Dự
án cũng đã tuyển chọn được 20 cây ưu tú ở các hộ dân
trên địa bàn huyện Thanh Chương để lấy mắt ghép.
Tạo giống và phát triển cây trám đen
ở huyện Thanh Chương (giai đoạn 2)
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 1/2017 [19]
HOẠT ĐỘNG KH-CN
Tuy nhiên, để bảo tồn và phát triển lâu dài cây trám
đen, đặc biệt trong khâu nhân giống thì cần tuyển chọn
và xây dựng được vườn cây đầu dòng bàn giao cho
các cơ quan chức năng quản lý nhằm chủ động được
nguồn mắt ghép. Bên cạnh đó, xây dựng một số mô
hình trồng thâm canh cây trám ghép, từ đó hoàn thiện
quy trình trồng để chuyển giao cho người dân và phát
triển cây trám đen là rất cần thiết.
Xuất phát từ những vấn đề trên, dự án “Ứng dụng
tiến bộ KH-CN tạo giống và phát triển cây trám đen
(Canarium tramdenum) ở huyện Thanh Chương - giai
đoạn 2” đã được triển khai thực hiện.
II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
1. Điều tra, khảo sát, lựa chọn địa điểm xây
dựng mô hình
Cơ quan chủ trì đã phối hợp với các đơn vị tham
gia tiến hành xây dựng các tiêu chí lựa chọn địa điểm,
hộ tham gia xây dựng mô hình và tiến hành điều tra
khảo sát trên địa bàn các xã thuộc huyện Thanh
Chương. Kết quả đã chọn hộ ông Nguyễn Tiến Đại tại
xã Thanh Thủy làm địa điểm xây dựng mô hình vườn
cây đầu dòng, 10 hộ dân xây dựng mô hình trồng trám
thuần với diện tích 2ha tại xã Thanh Thủy và 20 hộ
trồng trám trong vườn tạp với diện tích 3ha tại xã
Thanh Đức.
2. Bình tuyển cây đầu dòng và xây dựng vườn
cây đầu dòng
2.1. Bình tuyển cây đầu dòng
Kết quả theo dõi, đánh giá cho thấy, đa số các cây
trám đen được theo dõi đều sinh trưởng, phát triển, ra
hoa, đậu quả tốt. Thời gian thu hoạch của các cây
tuyển chọn từ 8-9 năm. Năng suất trung bình từ năm
2012-2014 dao động từ 85,0-186,7kg. Trong số 20 cây
theo dõi, có 12 cây có mã số: TrĐ_TC_02,
TrĐ_TC_03, TrĐ_TC_04, TrĐ_TC_06, TrĐ_TC_07,
TrĐ_TC_10, TrĐ_TC_11, TrĐ_TC_13, TrĐ_TC_15,
TrĐ_TC_16, TrĐ_TC_18, TrĐ_TC_19 có độ tuổi từ
14-23 năm, năng suất qua các năm cao và khá ổn định.
Năng suất trung bình qua 3 năm của các cây này đạt
từ 128,7-186,7kg/cây. Các chỉ tiêu về kích thước, khối
lượng quả, hạt và tỷ lệ phần ăn được không có dao
động nhiều qua các năm theo dõi: khối lượng quả đạt
từ 11,57-13,88g; tỷ lệ phần ăn được từ 47,7-59,2%;
hàm lượng chất khô dao động từ 42,94-47,64%; Pro-
tein từ 0,61-1,23%; Lipit từ 10,88-17,48%; không bị
nhiễm hoặc nhiễm ở mức độ nhẹ một số đối tượng sâu
bệnh chủ yếu.
Sau khi tổng hợp kết quả theo dõi các cây trám đen
ưu tú, Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm
rau, hoa, quả Gia Lâm đã lập hồ sơ đề xuất
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Nghệ An công nhận 12 cây trám đen có mã
số trên là cây đầu dòng, bổ sung vào hệ
thống cung cấp giống trám tốt cho sản xuất.
Ngày 18/9/2014, Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Nghệ An đã cấp giấy chứng
nhận cho 10 cây trám đen đầu dòng có đầy
đủ các đặc tính tốt của trám đen Thanh
Chương để đưa vào quản lý, chăm sóc và
khai thác mắt ghép phục vụ sản xuất.
2.2. Xây dựng mô hình vườn cây đầu
dòng quy mô 1.000m2
Dự án đã sử dụng cây giống được đánh
dấu của các cây đầu dòng để xây dựng vườn
cây đầu dòng với tổng số cây trồng là 200
cây. Địa điểm xây dựng vườn cây đầu dòng
là hộ ông Nguyễn Tiến Đại, xã Thanh Thủy,
huyện Thanh Chương. Sau gần 2 năm triển
khai, các cây trám đen trong vườn cây đầu
dòng sinh trưởng phát triển tốt, các cây bị
chết, yếu được thay thế bằng các cây giống
mới.
Kết quả, tổng số cây khi trồng là 200 cây
thì sau trồng 1 tháng còn lại là 194 cây, tỷ lệ
cây sống đạt 97%. Đến thời điểm vụ hè năm
2015, do thời tiết nắng nóng cục bộ dài ngày,
một số cây bị chết, số cây sống chỉ đạt 158
cây, tương ứng với tỷ lệ sống là 79%. Sau
đó, vào tháng 10/2015, dự án đã cho trồng
dặm những cây đã chết (42 cây) nên cho tới
thời điểm nghiệm thu (tháng 10/2016), số
lượng cây trên vườn đầu dòng là 196 cây, đạt
tỷ lệ sống là 98%.
Trám là cây sinh trưởng, phát triển khỏe
nhưng ít phân cành. Sau trồng 1 năm, hầu
hết các cây chưa phân cành nhưng chiều cao
cây đã đạt 1,04m, đường kính gốc đạt 1,8cm.
Sang năm thứ 2, cây bắt đầu phân cành, đến
thời điểm trước nghiệm thu trung bình cành
cấp 1 đạt 2,6 cành, đường kính cành cấp 1 là
1,2cm, chiều cao cây đạt 1,45m và đường
kính gốc 2,83cm.
Theo dõi các chỉ tiêu về lộc tại vườn cây
đầu dòng năm 2015 cho thấy, cây phát triển
3 đợt lộc trong năm. Lộc xuân có trị số lớn
nhất với chiều dài trung bình là 18,7cm,
HOẠT ĐỘNG KH-CN
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 1/2017 [20]
đường kính là 1,29cm. Tiếp đến là lộc thu với chiều
dài là 17,2cm, đường kính là 1,15cm. Do điều kiện
thời tiết khắc nghiệt nên lộc hè có trị số thấp nhất với
chiều dài trung bình là 14,1cm, đường kính là 1,11cm.
Số liệu theo dõi năm 2016 cho thấy, các chỉ tiêu về
lộc đều nhỏ hơn so với năm 2015 do giai đoạn này cây
đã phân cành. Lộc thu có trị số cao nhất do thời điểm
này mưa nhiều, độ ẩm cao nên cây trồng phát triển tốt.
Chiều dài lộc thu trung bình là 15,7cm, đường kính là
1,02cm; tiếp đến là lộc xuân với chiều dài trung bình
là 15,3cm, đường kính là 1,09cm; cuối cùng là lộc hè
với chiều dài trung bình là 14,6cm, đường kính là
0,95cm.
2.3. Xây dựng đề án bảo tồn, phát triển cây đầu
dòng và vườn cây đầu dòng
Để phát huy tối đa hiệu quả của dự án trong việc
bảo vệ nguồn giống quý từ các cây đầu dòng và vườn
cây đầu dòng, dự án đã tiến hành xây dựng đề án bảo
tồn và phát triển cây đầu dòng và vườn cây đầu dòng
bằng nhiều hình thức khác nhau như đề xuất hỗ trợ
kinh phí, tổ chức hội thảo.
3. Xây dựng mô hình trồng trám đen thương phẩm
Các hộ tham gia xây dựng mô hình trồng trám đen
thương phẩm được đào tạo, tập huấn về quy trình kỹ
thuật, được hỗ trợ cây giống, phân bón, thuốc bảo vệ
thực vật để trồng và chăm sóc trong 2 năm đầu của dự
án. Hộ dân phải tự đối ứng kinh phí để làm hàng rào bảo
vệ, hệ thống tưới tiêu, máy bơm nước, một phần phân
bón, công lao động để đào hố, trồng và chăm sóc cây.
Mô hình trồng cây trám đen thương phẩm sử dụng
giống cây ghép được lấy từ mắt ghép của những cây
đầu dòng và được trồng từ tháng 10/2014
với tổng diện tích là 5ha. Trong đó, 2ha được
bố trí trồng thuần tại xã Thanh Thủy với mật
độ trồng 600 cây/ha gồm 10 hộ tham gia
thực hiện; 3ha được trồng tại vườn tạp với
mật độ trồng 500 cây/ha gồm 20 hộ ở xã
Thanh Đức tham gia thực hiện.
3.1. Tỷ lệ cây sống các mô hình trồng
cây trám đen thương phẩm
Tổng số cây khi trồng là 2.700 cây, trong
đó mô hình trồng thuần là 1.200 cây và
1.500 cây trồng xen tại vườn tạp. Sau 1
tháng trồng, một số cây bị chết nên tổng số
cây còn lại là 2.572 cây với tỷ lệ sống trung
bình là 95,2%, trong đó trồng thuần là 1.152
cây, trồng tại vườn tạp là 1.420 cây. Tuy
nhiên, sau vụ hè năm 2015, do thời tiết nắng
nóng cục bộ dài ngày, dẫn đến tỷ lệ cây sống
chỉ đạt 74-81,2%, tương đương với tổng số
cây còn lại là 2.154 cây, trong đó trồng thuần
là 936 cây, trồng tại vườn tạp là 1.218 cây. Kết
quả này cho thấy, mô hình trồng xen tại vườn
tạp do được che bóng và cũng thuận lợi trong
chăm sóc, tưới nước nên tỷ lệ sống đạt cao
hơn. Tháng 10/2015, dự án đã hỗ trợ cây
giống để người dân trồng lại bù những cây đã
chết. Tại thời điểm tháng 10/2016, tổng số
cây còn lại là 2.652 cây, đạt tỷ lệ sống là
98,2%, cao hơn so với yêu cầu của hợp đồng
thực hiện dự án.
3.2. Tình hình sinh trưởng của cây trám
đen thương phẩm
Các cây giống trám trồng trong mô hình
sinh trưởng, phát triển tốt. Sau 1 năm trồng,
chiều cao cây trung bình đạt từ 105cm đối
với mô hình trồng thuần và 117cm đối với
mô hình trồng trong vườn tạp. Sau 2 năm
trồng, chiều cao cây trước thời điểm nghiệm
thu là 162cm đối với mô hình trồng thuần và
176cm đối với mô hình trồng trong vườn
tạp. Chỉ tiêu đường kính tán sau trồng 2 năm
đạt trung bình 70,3cm đối với mô hình trồng
thuần và 61,7cm với mô hình trồng trong
vườn tạp. Với chỉ tiêu đường kính gốc, sau
1 năm, mô hình trồng thuần đạt 1,72cm, mô
hình trồng trong vườn tạp đạt 1,63cm. Sau 2
năm trồng, đường kính gốc đã đạt 2,88cm ở
mô hình trồng thuần và 2,74cm ở mô hìnhBình tuyển cây trám đen đầu dòng
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 1/2017 [21]
HOẠT ĐỘNG KH-CN
trồng trong vườn tạp. Số cành cấp 1 đạt trung bình là
1,25 cành đối với mô hình trồng thuần và 1,18 cành
đối với mô hình trồng trong vườn tạp ở thời điểm 1
năm sau trồng. Sau 2 năm trồng, số cành cấp 1 đã đạt
2,35 cành với mô hình trồng trong vườn tạp và 2,82
cành với mô hình trồng thuần. Các chỉ tiêu này đã
phản ánh rõ khả năng sinh trưởng tốt của cây trám đen
thương phẩm được trồng dưới 2 hình thức trồng thuần
và trồng xen trong vườn tạp. Kết quả này là đạt và
vượt so với yêu cầu về một số chỉ tiêu sinh trưởng của
hợp đồng thực hiện dự án.
3.3. Khả năng sinh trưởng của các đợt lộc
Số liệu theo dõi trong năm 2015 cho thấy, trong 3
đợt lộc: lộc xuân, lộc hè, lộc thu thì chiều dài và đường
kính lộc xuân là cao nhất. Ở mô hình trồng thuần,
chiều dài lộc là 16,5cm và đường kính lộc là 1,27cm;
ở mô hình trồng xen trong vườn tạp, chiều dài lộc là
15,3cm và đường kính lộc là 1,16cm. Tiếp theo là lộc
thu cũng cho số liệu tương đương với lộc xuân, cụ thể:
chiều dài lộc là 15,8cm, đường kính lộc là 1,22cm ở
mô hình trồng thuần; chiều dài lộc là 15cm, đường
kính lộc là 1,14cm ở mô hình trồng xen tại vườn tạp.
Lộc hè có số liệu kém nhất, với chiều dài lộc là
13,13cm, đường kính lộc là 1,15cm ở mô hình trồng
thuần; chiều dài lộc là 12,47cm, đường kính lộc là
1,09cm ở mô hình trồng xen tại vườn tạp.
Năm 2016, hầu hết các cây trám đen trong vườn
trồng mô hình đều phân cành, vì vậy chỉ số các đợt
lộc qua theo dõi có sự biến động so với năm 2015. Cây
ra 3 lần lộc trong năm. Chiều dài lộc đạt cao nhất là
lộc xuân trong mô hình trồng thuần đạt 14,5cm, đường
kính lộc là 1,18cm. Lộc hè mô hình vườn tạp có chỉ
tiêu lộc thấp nhất với chiều dài lộc là 11,13cm và
đường kính lộc là 0,89cm.
Qua đánh giá về khả năng sinh trưởng các đợt
lộc trong 2 năm (2015 và 2016) cho thấy, mô hình
trồng thuần do không bị cạnh tranh về ánh sáng và
dinh dưỡng nên các đợt lộc hầu như đều dài và to
hơn. Tuy nhiên, tại mô hình trồng xen trong vườn
tạp với kích thước chiều dài, đường kính lộc đạt
tương đối cao trong 1 và 2 năm sau trồng cho thấy
vẫn đáp ứng được yêu cầu về sinh trưởng, khả năng
cho phát triển tốt.
3.4. Tình hình sâu bệnh hại
Trám đen là cây ít bị sâu bệnh hại làm ảnh hưởng
sinh trưởng, phát triển của cây. Qua quá trình theo dõi,
đánh giá thành phần và mức độ gây hại của một số loại
sâu bệnh hại phổ biến trên các cây trám đen tại vườn
trồng cây thương phẩm, nhận thấy cây trám
đen tại vườn các mô hình có 4 đối tượng sâu
hại và 1 bệnh hại. Song chỉ xuất hiện lẻ tẻ, gây
hại không đáng kể, nhỏ hơn 5% tần suất bắt
gặp, không ảnh hưởng tới sinh trưởng, phát
triển của cây. Tại mô hình trồng thuần, tình
hình sâu bệnh hại ít hơn là do ít bị lây các loại
sâu bệnh từ các cây trồng khác. Tuy nhiên, ở
mô hình trồng xen trong vườn tạp, các loại sâu
bệnh hại xuất hiện với tần suất nhỏ (dưới 5%)
nên không ảnh hưởng nhiều đến khả năng sinh
trưởng của cây trám đen.
Qua thực tế quá trình theo dõi, đánh giá
của dự án và người dân cho thấy, cây trám
đen phù hợp với cả 2 hình thức trồng. Mô
hình trồng thuần cho khả năng sinh trưởng
tốt hơn và sâu bệnh ít hơn so với mô hình
trồng tại vườn tạp. Tuy nhiên, mô hình trồng
xen canh tại vườn tạp cho tỷ lệ sống cao hơn
so với mô hình trồng thuần. Mô hình trồng
xen canh cây trám đen trong vườn tạp không
ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng và phát
triển của các cây trồng khác trong vườn, mà
có thể có tính chất bổ trợ tương hỗ nên việc
trồng cây trám đen với mật độ thưa, có tính
xen canh với các cây trồng khác là hướng đi
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
4. Hiệu quả kinh tế, xã hội và khả năng
nhân rộng mô hình
4.1. Hiệu quả kinh tế
Trong khuôn khổ dự án, để đánh giá hiệu
quả kinh tế là rất khó vì khi dự án kết thúc,
các mô hình trồng cây vẫn đang trong thời
kỳ kiến thiết cơ bản. Tuy nhiên, theo dõi mô
hình trồng trám tại Bắc Giang và đặc biệt
là một số cây trám trồng trong giai đoạn 1
của dự án đã cho thu hoạch thì có thể đánh
giá hiệu quả kinh tế của mô hình trồng trám
như sau:
Trung bình mỗi cây trám ghép 5 năm tuổi
cho thu hoạch 15kg, cây ghép 10 năm tuổi
cho thu hoạch 25kg. Nếu chăm sóc đúng quy
trình và áp dụng các biện pháp kỹ thuật xử lý
phân hóa mầm hoa thì hàng năm sẽ có 80%
số cây cho thu quả. Với giá bán bình quân
trên thị trường hiện tại là 50.000 đồng/kg thì
doanh thu trồng trám tính theo 1ha được tính
theo bảng sau.
HOẠT ĐỘNG KH-CN
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 1/2017 [22]
Có thể thấy, so với cây keo, cây sắn, cây chè là các
cây trồng có diện tích tương đối lớn trên địa bàn huyện
Thanh Chương thì hiệu quả của cây trám ghép sẽ cao
hơn nhiều. Hiện nay, 1ha trồng keo, với chu kỳ trồng
trung bình là 5 năm cho thu hoạch 1 lần, tổng thu là
trung bình là 150 triệu đồng, sau khi trừ chi phí thì lãi
suất còn lại khoảng 100 triệu đồng/5năm. Như vậy,
1ha đất trồng keo hàng năm chỉ thu hoạch trung bình
là 20 triệu đồng. Đối với cây sắn và cây chè, hiện nay
tổng thu tính trên 1ha trung bình là 70 triệu đồng, sau
khi trừ chi phí thu hái, chăm sóc, thu hoạch và vận
chuyển thì lãi ròng đạt khoảng 35-40 triệu đồng/ha.
Cây trám đen ghép là cây trồng sinh trưởng phát
triển khỏe và ít sâu bệnh hại nên việc đầu tư, chăm sóc
và phòng trừ sâu bệnh hại cho cây không nhiều so với
các cây ăn quả khác như cam, bưởi... Tuổi thọ của cây
trám ghép rất cao, có thể kéo dài từ 40-50 năm nên
việc khấu hao đầu tư cơ bản rất ít. Sau khi kết thúc
chu kỳ thu hoạch quả, có thể tận dụng thân cành cây
trám để bán gỗ thịt, gỗ củi. Nguồn thu này có thể bù
đắp hoàn toàn chi phí đầu tư ban đầu.
Như vậy, sau khi trừ hết các khoản khấu hao trồng
mới, chi phí chăm sóc và thu hoạch, các mô hình trồng
trám thời kỳ cây 5 tuổi cho hiệu quả từ 250-300 triệu
đồng và mô hình thời kỳ cây 10 năm tuổi từ 450-550
triệu đồng là điều có thể.
Mặt khác, càng về sau, độ thuần thục của cây càng
cao nên hiệu quả kinh tế mang lại còn cao hơn. Giá
bán trám trên thị trường trong những năm gần đây rất
ổn định nên hiệu quả đem lại từ cây trám là rất cao mà
ít cây trồng nào trên địa bàn huyện Thanh Chương có
thể so sánh được.
4.2. Hiệu quả xã hội
Kết quả của dự án đã khẳng định trám đen là cây
trồng mũi nhọn có ý nghĩa quan trọng trong phát triển
kinh tế của địa phương, là cây chiến lược xóa đói giảm
nghèo, sản phẩm có giá trị kinh tế cao, đem lại thu
nhập và việc làm cho người dân lao động. Đầu tư hỗ
trợ thực hiện dự án có ý nghĩa rất lớn trong phát triển
kinh tế - xã hội, là nguồn động lực trong
chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng
sản xuất hàng hoá tại địa phương; góp phần
nâng cao thu nhập cho người dân, nâng cao
hiệu quả trên 1 đơn vị diện tích đất trồng
trọt; thu hút và tạo công ăn việc làm cho
người lao động, góp phần chuyển dịch cơ
cấu cây trồng trên diện tích đất sản xuất
nông, lâm nghiệp.
Việc triển khai dự án tạo không gian sống
với nhiều cây xanh giúp hạn chế nắng nóng
vào mùa hè với gió Lào khắc nghiệt; tạo môi
trường trong lành và cảnh quan xanh tươi
đặc biệt là các điểm mô hình dọc tuyến
đường Hồ Chí Minh; giúp giữ độ ẩm không
khí và đất trong phạm vi vườn hộ, thúc đẩy
sinh trưởng và phát triển của một số sinh vật
hữu ích như giun, ong, chim...; góp phần bảo
tồn nguồn gen quý, phát triển một sản phẩm
đặc sản mang danh địa phương.
4.3. Khả năng nhân rộng
Qua giai đoạn 2 của dự án, với việc bảo
tồn được cây đầu dòng, duy trì và phát triển
vườn cây đầu dòng thì việc lấy mắt ghép trở
nên dễ dàng và đảm bảo chất lượng giống thì
sẽ đáp ứng đủ nhu cầu giống có chất lượng
tốt phục vụ việc phát triển trồng trám đen
trên địa bàn. Dự án đã cơ bản giải quyết
được các vấn đề khoa học và thực tiễn nên
trong tương lai cây trám đen sẽ không ngừng
được mở rộng diện tích trồng, nâng cao năng
suất và hiệu quả hơn nữa.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Sau hơn 2 năm triển khai thực hiện, dự án
đã hoàn thành đầy đủ các nội dung và đạt
được các mục tiêu đề ra.
- Qua kết quả điều tra, khảo sát, nghiên
cứu, chọn lọc và phân tích mẫu quả đã bình
Bảng. Doanh thu của các mô hình trồng trám
TT Nội dung Số cây cho thuhoạch (ha)
Sản lượng
(kg/ha)
Đơn giá
(đồng/kg)
Thành tiền
(đồng)
1 Mô hình trồng thuần (cây 5 tuổi) 480 720 50 360.000.000
2 Mô hình trồng vườn tạp (cây 5 tuổi) 400 600 50 300.000.000
3 Mô hình trồng thuần (cây 10 tuổi) 480 1.200 50 600.000.000
4 Mô hình trồng vườn tạp (cây 10 tuổi) 400 1.000 50 500.000.000
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 1/2017 [23]
HOẠT ĐỘNG KH-CN
tuyển được 10 cây trám đen đầu dòng, đảm bảo năng
suất cao, ổn định, chất lượng thơm ngon, mang các
đặc tính tốt của trám đen để khai thác nguồn vật liệu
nhân giống, bên cạnh đó đang tiếp tục theo dõi các cây
trám chín sớm, chín muộn và các cây cho nhiều vụ
quả trong năm để bổ sung vào cơ cấu giống nhằm kéo
dài thời gian thu hoạch quả trám đen Thanh Chương.
- Trong khuôn khổ thực hiện, đã đào tạo được 18
cán bộ kỹ thuật và hộ xây dựng vườn cây đầu dòng
nắm vững quy trình kỹ thuật xây dựng chăm sóc và
quản lý cây đầu dòng và vườn cây đầu dòng. Bên cạnh
đó, dự án cũng đã đào tạo được 35 cán bộ kỹ thuật và
hộ dân nắm vững các quy trình trồng, chăm sóc cây
trám đen thương phẩm. Điều này đạt được mục tiêu
đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng vào sản xuất
và đời sống, góp phần thúc đẩy nghề trồng trám trên
địa bàn huyện huyện Thanh Chương phát triển.
- Đã xây dựng thành công vườn cây đầu dòng cây
trám đen Thanh Chương với quy mô 200 cây, đạt tỷ
lệ sống 98%, cây sinh trưởng và phát triển tốt, đạt
chiều cao 175cm, đường kính gốc 2,5cm. Vườn cây
đầu dòng là nơi để các tổ chức và cá nhân có nhu cầu
có thể lấy mắt ghép, phục vụ công tác nhân giống, đáp
ứng nhu cầu nhân rộng mô hình trồng cây trám đen
trên địa bàn huyện Thanh Chương.
- Xây dựng được mô hình trồng cây trám đen
thương phẩm với quy mô 2ha trồng thuần và 3ha trồng
xen cây trám đen Thanh Chương. Sau 2 năm trồng,
cây trám đen sinh trưởng và phát triển khá tốt, những
cây được trồng từ đợt đầu đã đạt chiều cao 165-
177cm, đường kính 1,27-1,5cm và một số cây đã cho
hoa và quả bói. Qua đánh giá, so sánh 2 mô hình cho
thấy, cây trám đen phù hợp với cả hình thức trồng
thuần và trồng xen canh trong vườn tạp, có khả năng
sinh trưởng tốt, các chỉ tiêu đã đạt và vượt so với mục
tiêu đặt ra cũng như yêu cầu của hợp đồng thực hiện
dự án. Mô hình trồng thuần đạt một số chỉ tiêu về sinh
trưởng cao hơn, sâu bệnh hại ít hơn so với mô hình
trồng xen canh tại vườn tạp. Tuy nhiên, mô hình trồng
cây trám đen tại vườn tạp đạt tỷ lệ sống cao hơn mô
hình trồng thuần, trồng xen cây trám đen với các loại
cây khác không làm ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng
và phát triển các cây trồng khác nên mô hình này góp
phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
- Từ những kết quả triển khai thực tiễn và đúc rút kinh
nghiệm đã bổ sung một số nội dung và hoàn thiện quy
trình kỹ thuật nhân giống cây trám đen phù hợp với đặc
thù thời tiết của Thanh Chương và vùng phụ cận nói riêng,
Nghệ An nói chung mà trong quy trình kỹ thuật
của đơn vị chuyển giao chưa đề cập đến.
- Việc tuyên truyền phổ biến tốt về quá
trình triển khai và những kết quả đạt được của
dự án đã góp phần tích cực vào việc nhân
rộng mô hình trồng cây trám đen thương
phẩm trên địa bàn huyện Thanh Chương nói
riêng và trong tỉnh Nghệ An nói chung. Kết
quả này có được là nhờ sự chỉ đạo sát sao của
Sở KH&CN, UBND huyện Thanh Chương,
lựa chọn các cơ quan phối hợp thực hiện và
hộ dân phù hợp đã tạo thuận lợi, quyết định
đến sự thành công của dự án cũng như khả
năng duy trì, phát triển mô hình.
2. Kiến nghị
- Sở KH&CN tiếp tục quan tâm, tạo điều
kiện để tiếp tục phát triển cây trám đen thông
qua triển khai nghiên cứu về bảo quản, chế
biến, xây dựng chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm
trám đen.
- Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
ưu tiên hỗ trợ phát triển cây trám đen trong
những năm tiếp theo trên địa bàn huyện
Thanh Chương và các vùng phụ cận.
- UBND huyện Thanh Chương, phòng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Trạm
Khuyến nông - khuyến lâm huyện quan tâm,
có phương án quản lý cây đầu dòng và vườn
cây đầu dòng, tiếp tục kết nối các nguồn kinh
phí khác hỗ trợ, đầu tư cho người dân phát
triển cây trám ghép.
- UBND huyện Thanh Chương giao các
đơn vị chuyên môn tiếp tục theo dõi, đánh giá
kết quả dự án.
- Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm rau,
hoa, quả Gia Lâm - Viện Nghiên cứu rau quả
Trung ương tiếp tục theo dõi, hỗ trợ người dân
Thanh Chương về các vấn đề kỹ thuật liên
quan đến cây trám đen và các loại rau, hoa,
quả khác, kể cả trong điều kiện không có
nguồn đầu tư, hỗ trợ từ địa phương.
- Người dân Thanh Chương cần chủ động
phát huy nội lực để xây dựng các mô hình
kinh tế từ các cây trồng nông nghiệp nói
chung và mô hình trồng cây trám đen nói
riêng góp phần nâng cao thu nhập và cải thiện
cảnh quan vườn hộ trong điều kiện không có
nguồn đầu tư hỗ trợ của Nhà nước./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tao_giong_va_phat_trien_cay_tram_den_o_huyen_thanh_chuong_gi.pdf