Đối với các trường hợp ung thư, rìa diện cắt
thường được khuyến khích là 2cm. Tuy nhiên với
độ rộng này thì chức năng sẽ bị ảnh hưởng đáng kể
cho dù bướu chỉ có kích thước nhỏ [5]. Hiện nay, rìa
diện cắt 1cm theo không gian ba chiều được chấp
nhận cho ung thư khoang miệng nói chung và ung
thư lưỡi nói riêng [5]. Với rìa diện cắt này, thì tỉ
lệ diện cắt dương tính là 10% [5]. Zhien Feng và
cs tiến hành cắt rộng sang thương với rìa diện cắt
là 1,5cm, nhưng nghiên cứu này chưa thấy sự khác
biệt có ý nghĩa khi so sánh với rìa diện cắt 1cm [4].
Vì vậy, ở bệnh nhân này chúng tôi tiến hành cắt
rộng sang thương lưỡi với diện cắt cách bướu tối
thiểu là 1cm theo không gian ba chiều. Kết quả các
mẫu sinh thiết bờ rìa diện cắt đều không phát hiện
tế bào ác tính.
Sau khi cắt, khuyết hổng chiếm nữa lưỡi bên phải
và 1 phần của sàn miệng. Trong trường hợp này, vạt
tự do là một lựa chọn toàn diện để tái tạo lưỡi. Trong
nhiều nghiên cứu trước đây, kết quả cho thấy tạo
hình bằng vạt cẳng tay quay tự do là phương pháp
điều trị bảo đảm tốt về mặt ung thư, cũng như có
khả năng phục hồi chức năng và thẩm mỹ cho lưỡi.
Tuy nhiên, 1 trở ngại của vạt cẳng tay quay là để lại
sẹo cẳng tay gây mất thẩm mỹ, đặc biệt là ở bệnh
nhân nữ [1]. Vì vậy để khắc phục nhược điểm trên,
chúng tôi sử dụng vạt SCIP, vạt này có ưu điểm là
nơi cho vạt được dấu kín, vùng lấy vạt được khâu
da trực tiếp, không ảnh hưởng đến chức năng sau
khi lấy vạt. Đồng thời vạt này mỏng, dễ uốn lượn
phù hợp để tái tạo khuyết hổng vùng lưỡi. Tuy nhiên
chiều dài cuống vạt chỉ ở mức trung bình, đường
kính ĐM và TM nhỏ (khoảng 1mm) đây là những
yếu tố không thuận lợi khi chuyển vạt bẹn tự do.
Chính vì chiều dài cuống vạt chỉ ở mức trung bình
nên chúng tôi khâu mạch máu trước khi khâu cố
định vạt vào phần lưỡi còn lại. Mạch máu của vạt
này nhỏ nên quá trình nối mạch đòi hỏi phẫu thuật
viên phải có kinh nghiệm và khéo léo.
Trong tái tạo lưỡi, thì phục hồi chức năng được
ưu tiên hơn so với vấn đề thẩm mỹ [6]. Ở bệnh nhân
của chúng tôi, đánh giá về mặt chức năng (nói, nuốt)
cũng như thẫm mỹ của lưỡi (sự cân xứng) đều có sự
cải thiện đáng kể theo các mốc thời gian 1 tháng, 3
tháng và 6 tháng.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 8 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tạo hình khuyết hổng bằng vạt scip sau phẫu thuật cắt nửa lưỡi do ung thư tại bệnh viện trung ương Huế cơ sở 2: Nhân 1 trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bệnh viện Trung ương Huế
18 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 66/2020
Tạo hình khuyết hổng bằng vạt scip sau phẫu thuật cắt nửa lưỡi...
1 Bệnh viện Trung ương Huế cơ sở 2 - Ngày nhận bài (Received): 2/10/2020, Ngày phản biện (Revised): 5/11/2020;
- Ngày đăng bài (Accepted): 21/12/2020
- Người phản hồi (Corresponding author): Nguyen Thanh Xuan
- Email: thanhxuanbvh@gmail.com; ĐT: 0945313999
Báo cáo trường hợp
TẠO HÌNH KHUYẾT HỔNG BẰNG VẠT SCIP SAU PHẪU THUẬT
CẮT NỬA LƯỠI DO UNG THƯ TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG HUẾ
CƠ SỞ 2: NHÂN 1 TRƯỜNG HỢP
Nguyễn Thanh Xuân1*, Hồ Mẫn Trường Phú1, Phan Cảnh Duy1,
Nguyễn Xuân Hùng1, Trần Xuân Phú1, Trần Nhật Huy1
DOI: 10.38103/jcmhch.2020.66.3
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của vạt SCIP trong tạo hình khuyết hổng sau phẫu thuật cắt bán phần lưỡi
do ung thư.
Phương pháp: Tác giả báo cáo 1 trường hợp lâm sàng sử dụng vạt SCIP để tái tạo cho bệnh nhân
khuyết hổng nữa lưỡi sau phẫu thuật ung thư lưỡi tại khoa Ung bướu Bệnh viện Trung ương Huế cơ sở 2.
Kết quả: Sau phẫu thuật, bệnh nhân không có tình trạng tụ dịch, nhiễm trùng vết mổ và chảy máu
sau mổ, vạt sống tốt. Rút sonde dạ dày sau 10 ngày và xuất viện sau 2 tuần. Đánh giá về mặt chức năng
(nói, nuốt) cũng như thẩm mỹ của lưỡi (sự cân xứng) đều có sự cải thiện đáng kể theo các mốc thời gian
1 tháng, 3 tháng và 6 tháng.
Kết luận: Vạt SCIP là 1 sự lựa chọn cho các bệnh nhân có khuyết hổng lớn vùng lưỡi sàn miệng, vừa
đảm bảo về mặt chức năng cũng như thẩm mỹ cho lưỡi sau tái tạo và cho vị trí lấy vạt. Nhược điểm của vạt
là chiều dài cuống vạt ở mức trung bình, đường kính ĐM và TM nhỏ.
Từ khóa: Ung thư lưỡi, vạt SCIP
ABSTRACT
SUPERFICIAL CIRCUMFLEX ILIAC ARTERY PERFORATOR FLAP FOR TONGUE
RECONSTRUCTION AFTER HEMIGLOSSECTOMY DUE TO CANCER AT HUE CENTRAL
HOSPITAL BRANCH 2. A CLINICAL CASE.
Nguyen Thanh Xuan1*, Ho Man Truong Phu1, Phan Canh Duy1,
Nguyen Xuan Hung1, Tran Xuan Phu1, Tran Nhat Huy1
Objective: This study to evaluate the effectiveness of superficial circumflex iliac artery perforator (SCIP)
flap in reconstruction after hemiglossectomy due to cancer.
Method: The author reports a clinical case using SCIP flap to reconstruct tongue of the patient with
half-tongue defects after tongue cancer surgery at Oncology-Palliative care Department of Hue Central
Hospital branch 2.
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 66/2020 19
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư lưỡi là ung thư thường gặp nhất của ung
thư hốc miệng, là phần đầu tiên của ống tiêu hóa [3].
Bệnh diễn tiến tại chỗ tại vùng, ít khi cho di căn xa.
Phẫu thuật và xạ trị vẫn là mô thức điều trị chủ yếu
cho bướu nguyên phát và hạch vùng. Tỷ lệ sống còn
toàn bộ sau 3 năm đối với giai đoạn I, II là 70,9%,
đối với giai đoạn III, IV chỉ còn 28,8% [2],[3],[7].
Việc phối hợp phẫu thuật và xạ trị cho các trường
hợp bệnh tiến xa là cách điều trị tiêu chuẩn. Trên
lâm sàng, phẫu thuật là phuơng pháp thường được
lựa chọn hơn.
Phẫu thuật cắt rộng bướu nguyên phát trong
đa số các trường hợp là phẫu thuật cắt nửa lưỡi.
Do đó, khuyết hổng để lại khá lớn, ảnh hưởng
nhiều đến chức năng nói và nuốt của người bệnh
sau điều trị. Có nhiều phương pháp tạo hình cho
khuyết hổng lưỡi. Theo bậc thang tái tạo, may khép,
ghép da, và các vạt tại chỗ chỉ thích hợp với các
khuyết hổng nhỏ. Đối với khuyết hổng nửa lưỡi,
hai loại vạt được đánh giá là hiệu quả bao gồm
vạt tại vùng và vạt tự do. Trên thực tế, chúng tôi
đã cố gắng sử dụng các vạt tại vùng để tạo hình.
Tuy nhiên, các vạt tại vùng lại có nhiều nhược
điểm liên quan đến độ dày, thể tích của vạt. Cho
nên, vạt tự do vẫn là một lựa chọn toàn diện cho các
khuyết hổng lớn của lưỡi [1].
Trong nhiều nghiên cứu trước đây, kết quả cho
thấy tạo hình bằng vạt cẳng tay quay tự do, vạt đùi
trước ngoài là phương pháp điều trị bảo đảm về mặt
ung thư, cũng như có khả năng phục hồi chức năng
và thẩm mỹ cho lưỡi [3],[7]. Tuy nhiên chúng tôi
nhận thấy vạt SCIP có nhiều ưu điểm so với 2 loại
Result: The patient did not have accumulating of liquid, wound infection and bleeding after surgery,
the flap survived well. The patient was taken nasogastric tube out after ten days and discharged after
two weeks. Postoperative functional assessments (speech, swallowing) as well as aesthetic of tongue
(symmetry) have significant improvement over the 1 month, 3 months and 6 months.
Conclusion: SCIP flap is a choice for the patients with large flaws at tongue and floor of the mouth. It
ensures both functional and aesthetic for the regenerative tongue and donor-site. The disadvantage of the
flap: the length of the flap is moderate, the diameter of the arteries and veins is small.
Keywords: Tongue cancer, SCIP flap
vạt trên nên chúng tôi sử dụng vạt này để tái tạo
khuyết hổng lưỡi cho bệnh nhân sau phẫu thuật ung
thư lưỡi tại khoa Ung bướu Bệnh viện Trung ương
Huế cơ sở 2.
II. BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP
Bệnh nhân nữ, 56 tuổi vào viện vì nuốt đau.
Thăm khám phát hiện khối u sùi vùng hông lưỡi
phải, được sinh thiết khối u, kết quả giải phẫu bệnh
lý: Ung thư tế bào gai biệt hóa tốt, sừng hóa xâm
nhập. Kết quả nội soi TMH và nội soi Thực quản
dạ dày chưa phát hiện bất thường. Kết quả CT Scan
toàn thân có thuốc: - Khối u vùng hông lưỡi phải
tỉ trọng mô mềm, bờ kém đều, kt 22*11cm, ngấm
thuốc mạnh không đồng nhất sau tiêm, chưa xâm
lấn sàn miệng, chưa xâm lấn xương, hạch cổ bên
phải, chưa phát hiện di căn xa.Bệnh nhân được hội
chẩn liên khoa - Chẩn đoán: Ung thư hông lưỡi phải
T2N0M0 - Điều trị: cắt ½ lưỡi - sàn miệng phải +
vét hạch cổ phải + tái tạo bằng vạt tự do SCIP.
Các bước phẫu thuật:
- Gây mê nội khí quản
- Đặt sonde dạ dày nuôi dưỡng
- Khai khí quản chủ động, đặt nội khí quản lò xo
số 7.0 qua lổ khai khí quản.
- Tiến hành phẫu thuật nạo hạch cổ bên phải
nhóm I,II,III, cắt tuyến nước bọt dưới hàm phải, bảo
tồn động mạch mặt, động mạch giáp trên và các tĩnh
mạch vùng cổ của bệnh nhân.
- Tiến hành nhổ răng 4.1- 4.5, hạ thấp xương
hàm dưới tại vị trí răng đã nhổ
- Cắt 1 phần lưỡi - sàn miệng kèm khối u: Cắt
rộng sang thương lưỡi với diện cắt cách bướu tối
thiểu là 1 cm theo không gian ba chiều.
Bệnh viện Trung ương Huế
20 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 66/2020
Tạo hình khuyết hổng bằng vạt scip sau phẫu thuật cắt nửa lưỡi...
- Trước khi tiến hành lấy vạt, dùng siêu âm dop-
pler để tìm động mạch mũ chậu nông bên phải, kích
thước của vạt được xác định bằng cách đo các cạnh
của khuyết hổng lưỡi sàn miệng.
- Tiến hành lấy vạt vùng bẹn SCIP kt 12*5mm,
cuống vạt bao gồm nhánh xuyên của động mạch mũ
chậu nông và hệ thống tĩnh mạch nông.
- Chuyển vạt vào khoang miệng, định vị vạt vào
phần lưỡi còn lại
- Tiến hành nối mạch máu trước khi ghép vạt.
Chúng tôi tiến hành nối mạch máu kiểu tận - tận,
động mạch nhận được chọn lựa là động mạch mặt
và tĩnh mạch mặt
- Khâu tạo hình lưỡi - sàn miệng
- Đặt dẫn lưu và khâu vết thương vùng cổ và bẹn.
- Thay ống nội khí quản bằng canule 2 nòng có
cuff số 7.0.
Sau phẫu thuật 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, chúng
tôi đánh giá về quá trình biểu mô hóa, chức năng và
phục hồi chức năng của vạt theo Moscoso, Uken,
Polonovski (1994).
Kết quả
- Sau phẫu thuật
Bệnh nhân không có tình trạng tụ dịch và nhiễm
trùng vết mổ và chảy máu sau mổ. Tiếp tục sử dụng
kháng sinh kéo dài tối thiểu là 7 ngày, kháng viêm,
giảm đau. Đặc biệt sử dụng thuốc hỗ trợ sự thông
nối mạch máu khâu nối như dung dịch cao phân tử,
chống kết tập tiểu cầu, chống đông máu, và thuốc
giãn mạch.
Kiểm tra những giờ đầu sau phẫu thuật và hàng
ngày sau đó thấy vạt hồng, tưới máu tốt, độ trương
phồng của vạt bình thường. Vết thương tại vị trí lấy
vạt không chảy máu, khô.
Bệnh nhân được rút sonde dạ dày sau 10 ngày, và
tập uống nước bằng đường miệng và ăn các thức ăn
lỏng. Cắt chỉ vết thương tại vùng cổ và vùng bẹn và
xuất viện sau 2tuần.
Khối u ban đầu Sau 2 tuần Sau 1 tháng
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 66/2020 21
- Tái khám
Sau 1 tháng: kiểm tra vạt hồng, lưỡi còn mất cân
xứng, bệnh nhân chỉ ăn được thức ăn với độ đặc nhất.
Khi bệnh nhân nói có thể nghe hiểu nhưng các âm
chưa rõ hoàn toàn. Vị trí lấy vạt có cảm giác tê. Bệnh
nhân được chỉ định làm các xét nghiệm cơ bản, kết
quả chưa phát hiện tái phát tại chổ hoặc di căn xa.
Sau 3 tháng: bề mặt vạt biểu mô hóa tốt, lưỡi mất
cân xứng ít hơn, nuốt thức ăn không có trở ngại nào,
khi nói âm phát ra nghe rõ hơn. Vị trí lấy vạt liền
sẹo tốt, vận động chân phải bình thường, Các xét
nghiệm chưa phát hiện tái phát tại chỗ và di căn xa
Sau 6 tháng: bệnh nhân ổn định về mặt vết
thương tại lưỡi cũng như tại vị trí lấy vạt, ăn uống
và phát âm gần như bình thường, các xét nghiệm
chưa phát hiện tái phát và di căn xa.
III. BÀN LUẬN
Đối với các trường hợp ung thư, rìa diện cắt
thường được khuyến khích là 2cm. Tuy nhiên với
độ rộng này thì chức năng sẽ bị ảnh hưởng đáng kể
cho dù bướu chỉ có kích thước nhỏ [5]. Hiện nay, rìa
diện cắt 1cm theo không gian ba chiều được chấp
nhận cho ung thư khoang miệng nói chung và ung
thư lưỡi nói riêng [5]. Với rìa diện cắt này, thì tỉ
lệ diện cắt dương tính là 10% [5]. Zhien Feng và
cs tiến hành cắt rộng sang thương với rìa diện cắt
là 1,5cm, nhưng nghiên cứu này chưa thấy sự khác
biệt có ý nghĩa khi so sánh với rìa diện cắt 1cm [4].
Vì vậy, ở bệnh nhân này chúng tôi tiến hành cắt
rộng sang thương lưỡi với diện cắt cách bướu tối
thiểu là 1cm theo không gian ba chiều. Kết quả các
mẫu sinh thiết bờ rìa diện cắt đều không phát hiện
tế bào ác tính.
Sau khi cắt, khuyết hổng chiếm nữa lưỡi bên phải
và 1 phần của sàn miệng. Trong trường hợp này, vạt
tự do là một lựa chọn toàn diện để tái tạo lưỡi. Trong
nhiều nghiên cứu trước đây, kết quả cho thấy tạo
Bệnh viện Trung ương Huế
22 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 66/2020
Tạo hình khuyết hổng bằng vạt scip sau phẫu thuật cắt nửa lưỡi...
hình bằng vạt cẳng tay quay tự do là phương pháp
điều trị bảo đảm tốt về mặt ung thư, cũng như có
khả năng phục hồi chức năng và thẩm mỹ cho lưỡi.
Tuy nhiên, 1 trở ngại của vạt cẳng tay quay là để lại
sẹo cẳng tay gây mất thẩm mỹ, đặc biệt là ở bệnh
nhân nữ [1]. Vì vậy để khắc phục nhược điểm trên,
chúng tôi sử dụng vạt SCIP, vạt này có ưu điểm là
nơi cho vạt được dấu kín, vùng lấy vạt được khâu
da trực tiếp, không ảnh hưởng đến chức năng sau
khi lấy vạt. Đồng thời vạt này mỏng, dễ uốn lượn
phù hợp để tái tạo khuyết hổng vùng lưỡi. Tuy nhiên
chiều dài cuống vạt chỉ ở mức trung bình, đường
kính ĐM và TM nhỏ (khoảng 1mm) đây là những
yếu tố không thuận lợi khi chuyển vạt bẹn tự do.
Chính vì chiều dài cuống vạt chỉ ở mức trung bình
nên chúng tôi khâu mạch máu trước khi khâu cố
định vạt vào phần lưỡi còn lại. Mạch máu của vạt
này nhỏ nên quá trình nối mạch đòi hỏi phẫu thuật
viên phải có kinh nghiệm và khéo léo.
Trong tái tạo lưỡi, thì phục hồi chức năng được
ưu tiên hơn so với vấn đề thẩm mỹ [6]. Ở bệnh nhân
của chúng tôi, đánh giá về mặt chức năng (nói, nuốt)
cũng như thẫm mỹ của lưỡi (sự cân xứng) đều có sự
cải thiện đáng kể theo các mốc thời gian 1 tháng, 3
tháng và 6 tháng.
IV. KẾT LUẬN
Vạt SCIP là 1 sự lựa chọn cho các bệnh nhân
có khuyết hổng lớn vùng lưỡi sàn miệng. Vạt này
có ưu điểm là đảm bảo về mặt chức năng cũng như
thẩm mỹ cho lưỡi sau tái tạo và cho vị trí lấy vạt.
Bên cạnh đó nhược điểm của vạt này là chiều dài
cuống vạt chỉ ở mức trung bình, đường kính ĐM và
TM nhỏ (1mm).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Anh Khôi (2017), Nghiên cứu tạo hình
khuyết hổng sau phẫu thuật ung thư lưỡi hốc
miệng bằng vạt da cân cẳng tay quay, Luận án
tiến sĩ, Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, TP.
Hồ Chí Minh.
2. Nguyễn Hữu Phúc (2004), Ung thư lưỡi:
dịch tễ, chẩn đoán, điều trị, Luận văn
tốt nghiệp Bác Sĩ Nội Trú, Đại Học Y Dược TP.
Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
3. Deschler DG, Erman AB (2014), Oral
Cavity Cancer‖ in Bailey’s Head and
Neck Surgery - Otolaryngology ed-
ited by Jonas T. Johnson, 5th Edition,
Lippincott Williams & Wilkins, pp. 1849-1874.
4. Feng Z, Li JN, Li CZ, et al. (2014), Su-
praomohyoid Neck Dissection in the
Management of Oral Squamous Cell Carcino-
ma: Special Consideration for Skip Metastases
at Level IV or V‖, J Oral Maxillofac Surg. Jun;
72 (6): pp.1203-1211.
5. Martin T, Webster K (2012), Lip and
oral cavity‖ in Stell and Maran’s
Textbook of Head and Neck Sur-
gery and Oncology edited by John C
Watkinson, Ralph W Gilbert, 5th ed, Hodder &
Stoughton Ltd, pp. 549 - 587.
6. Snoker JM, Hornig J, et Day TA
(2006), Reconstruction of Partial
Glossectomy Defects‖ in Oral Cav-
ity Reconstruction edited by Terry A. Day,
pp. 205-224.
7. Wein RO, Weber RS (2015), Malig-
nant neoplasms of the oral cavity‖ in
Cummings Otolaryngology-Head &
Neck Surgery edited by Paul W. Flint,
6th ed, Elsevier, pp. 1359 - 1387.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tao_hinh_khuyet_hong_bang_vat_scip_sau_phau_thuat_cat_nua_lu.pdf