Tạo hình trong bệnh lý dính khớp sọ coronal một bên nhân 01 trường hợp và nhìn lại y văn
Chúng tôi tiến hành phối hợp phẫu thuật
viên thần kinh và phẫu thuật viên hàm mặt tạo
hình để tạo lại khung thành trên trần ổ mắt.
Chúng tôi tiến hành cắt rời xương thành trên ổ
mắt bên lành từ khớp trán‐gò má của thành bên
ổ mắt đến đường giữa. Để tạo hình lại thành trên
cân đối với bên lành chúng tôi ghép xương vòm
sọ sau khi cắt đôi thành trên ổ mắt để tạo độ
cong, để giữ được độ cong như mong muốn
chúng tôi tạo hình dựa trên khung bên lành và
cố định mảnh ghép bằng nẹp vis titanium. Có
rất nhiều kỹ thuật được báo về việc tạo hình lại
thành trên ổ mắt trong bệnh lý dính khớp
coronal một bên. McCarthy và cộng sự đã báo
cáo về kinh nghiệm đẩy toàn bộ thành trên ổ
mắt ra phía trước để tạo hình lại ổ mắt(4). Hilling
và cộng sự đánh giá các kết quả thẩm mỹ của
một kỹ thuật tiến bộ trong tạo lại thành trên ổ
mắt(3). Trong loạt lớn 137 bệnh nhân của họ, các
tác giả nhận thấy rằng các biến dạng sau phẫu
thuật kéo dài là hình ảnh hẹp thắt lại ở thái
dương và vấn đề trở nên xấu đi với thời gian.
Điều thú vị là, họ cho rằng độ tuổi mà bệnh
nhân khi phẫu thuật không ảnh hưởng đến kết
quả thẩm mỹ sau phẫu thuật. Những kết quả
này tương phản với kết quả báo cáo của Jane và
cộng sự gợi ý rằng một kỹ thuật phẫu thuật khác
nhau nên được sử dụng tùy thuộc vào tuổi của
bệnh nhân tại thời điểm phẫu thuật. Ngoài ra
một số báo cáo như của Persing và cộng sự cho
rằng có việc theo cơ thái dương bên bệnh lý sau
phẫu thuật nên tác giả đã tiến hành tạo vạt cơ
xương thái dương khi cắt xương sọ tạo hình để
tránh hiện tượng teo cơ(6). Tuy nhiên, đây chỉ là
báo cáo trên một ca lâm sàng. Để tránh hiện
tượng này chúng tôi đã không làm tổn thương
cơ thái dương, tuy nhiên kết quả lâu dài chúng
tôi vẫn đang tiếp tục theo dõi. Đối với thành trên
ổ mắt chúng tôi không can thiệp bên lành như
các tác giả mà tiến hành ghép xương tạo độ
cong. Kết quả sau mổ cho thấy rất khả quan.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 211 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tạo hình trong bệnh lý dính khớp sọ coronal một bên nhân 01 trường hợp và nhìn lại y văn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 144
TẠO HÌNH TRONG BỆNH LÝ DÍNH KHỚP SỌ CORONAL MỘT BÊN
NHÂN 01 TRƯỜNG HỢP VÀ NHÌN LẠI Y VĂN
Bùi Mai Anh *, Ngô Mạnh Hùng **, Vũ Trung Trực *, Nguyễn Hồng Hà *, Lý Ngọc Liên **
TÓM TẮT
Tạo hình lại hộp sọ trong bệnh lý sọ phẳng do dính khớp sọ một bên (unicoronal plagiocephaly) cho đến nay
vẫn là một thách thức đối với các phẫu thuật viên tạo hình và phẫu thuật viên thần kinh. Mục đích chính của
phẫu thuật là mở rộng hộp sọ làm giảm áp lực nội sọ và tạo hình lại trần ổ mắt bị biến dạng do nguyên nhân liền
sớm khớp trán đỉnh ở trẻ nhỏ. Đã có nhiều báo cáo của các tác giả nước ngoài về tạo hình trong bệnh lý hẹp hộp
sọ, tuy nhiên chúng tôi chưa thấy báo cáo nào về phẫu thuật này tại Việt Nam. Do vậy, nhân một trường hợp tạo
hình lại hộp sọ của bệnh nhi 09 tháng tuổi với sự phối hợp liên chuyên khoa tạo hình và phẫu thuật thần kinh,
chúng tôi đưa ra một số bàn luận và nhìn lại y văn.
Từ khóa: Dinh khớp sọ một bên
ABSTRACT
RECONSTRUCTION OF UNICORONAL PLAGIOCEPHALY: A CASE AND LITERATURE REVIEW
Bui Mai Anh, Ngo Manh Hung, Vu Trung Truc, Nguyen Hong Ha, Ly Ngoc Lien
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 144 – 148
Successful repair of all abnormal characteristics of unicoronal plagiocephaly remains a challenge for
craniofacial surgeons and neuro surgeons. The aim of surgery is to expand skull reduced intracranial pressure
and reshaped lateral orbital wall and supraorbital rim caused by one coronal suture fuses prematurely early. There
have been many reports of foreign authors in surgical technique of unilateral coronal craniosynostosis, however
we have not seen any reports of this surgical technique in Vietnam. Therefore,ʹs a case of reconstruction of
plagiocephaly’s 09‐month‐old patient with coordination specialist craniofacial surgery and neurosurgery, we give
some discussions and literatur e review.
Keyword: unicoronal plagiocephaly
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh lý dính khớp sọ sớm đã được mô tả từ
những năm 100 trước công nguyên bởi
Hypocrate. Những báo cáo của thời điểm đó đã
chỉ ra rằng việc liền sớm các khớp sọ sẽ gây biến
dạng hộp sọ. Theo nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ dị
tật dính hộp sọ gặp ở 1/2000 trẻ bệnh lý dính
khớp sọ (craniosynostoses) là độc lập với hội
chứng dính khớp sọ mặt (craniofacial
sysnostoses) như hội chứng Apert hay
CrouzonCác biểu hiện của bệnh lý dính khớp
sọ được chia thành nhiều thể phụ thuộc vào số
lượng và vị trí đường khớp bị liền sớm. Hay gặp
nhất là liền sóm khớp dọc giữa (saggital
synostoses) gây biểu hiện đầu dài hay sọ hình
thuyền, dính khớp trán biểu hiện trán nhọn,
hoặc dính nhiều khớp. Liền sớm khớp ngang
(coronal) là bệnh lý hiếm gặp (chiếm 0,7%) trong
bệnh lý dính hẹp hộp sọ nói chung và tần suất
gặp ở 1/10.000 trẻ sinh ra với biểu hiện sọ phẳng
(plagiocephaly) một bên hoặc hai bên(5). Do vậy,
nhân một trường hợp dính khớp sọ ngang hay
sọ phẳng hiếm gặp được phẫu thuật phối hợp 2
chuyên khoa phẫu thuật thần kinh và phẫu
thuật tạo hình hàm mặt chúng tôi tiến hành tổng
quan các nghiên cứu trong y văn và đưa ra một
số bàn luận.
* Khoa Tạo hình Hàm mặt‐Bệnh viện Việt Đức ** Khoa Phẫu thuật thần kinh‐Bệnh viện Việt Đức
Tác giả liên lạc: BS. Bùi Mai Anh; ĐT: 0904218389 Email: drbuimaianh@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Bệnh Lý Sọ Não 145
MÔ TẢ CA LÂM SÀNG
BN nữ 09 tháng tuổi, đẻ thường con thứ hai
trong gia đình. Trong quá trình mang thai mẹ
phát triển bình thường. Tiền sử gia đình: Không
gặp trường hợp nào. Bệnh nhi đến khám với
biểu hiện trán, cung mày phải phẳng, lông mày
bên dị tật bị đưa lên cao, mắt phải nhắm không
kín, nhãn cầu nhô ra trước, vị trí tai phải đưa ra
phía trước nhiều hơn, trục thẳng của mặt có xu
hướng vẹo sang bên lành. Trẻ phát triển tâm
thần vận động bình thường, không thấy biểu
hiện của tăng áp lực nội sọ. Hình ảnh chụp CT:
không thấy đường khớp sọ trán đỉnh bên phải,
thành ngoài ổ mắt ngắn hơn bên đối diện, xương
trán bên bệnh phẳng lõm vào trong. Hình ảnh
não thất, nhu mô não bình thường.
Hình ảnh bệnh nhân và phim CT trước phẫu thuật
Bệnh nhân được chẩn đoán: dính khớp sọ
coronal một bên (Unilateral coronal
craniosynostoses) hay sọ phẳng (Plagiocephaly).
Bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật giải phóng
khớp sọ bị liền sớm và tạo hình lại hộp sọ, ổ mắt.
Chúng tôi tiến hành phẫu thuật với sự phối
hợp 2 chuyên khoa: Phẫu thuật thần kinh và
phẫu thuật tạo hình hàm mặt. Bệnh nhân dưới
gây mê nội khí quản nằm ngửa, rạch da theo
đường bicoronal cách chân tóc 02 cm đến sát
xương. Bộc lộ toàn bộ trần ổ mắt 2 bên đến khớp
xương gò má và xương trán ở thành ngoài ổ
mắt, bảo tồn thần kinh trên ổ mắt 2 bên. Tiến
hành cắt khối xương trán 2 bên theo đường
khớp coronal đến bờ trước của thành trên ổ mắt
khoảng 2cm, cắt rời thành trước trần ổ mắt bên
phải đến khớp trán‐gò má. Ghép xương tạo hình
bờ trên trần ổ mắt để tạo độ cong, cố định bằng
nẹp vis titanium. Khối xương trán đỉnh 2 bên
được xoay 180 độ để tạo hình lại xương trán
cũng như làm tăng thể tích hộp sọ vùng trán.
Xương được cố định bằng nẹp vis titanium.
Bệnh nhân được đặt dẫn lưu dưới da, đóng vết
mổ 2 lớp. Bệnh nhân nằm theo dõi nội trú 1
tuần. Không có biến chứng sau mổ như máu tụ
nội sọ, sưng nề, vận nhãn bình thường, vận
động, tinh thần bình thường.
BÀN LUẬN
Thông thường đường khớp cronal giúp trán
và thùy trán phát triển ra phía trước. Sự hiểu biết
về giai đoạn phát triển về hộp sọ giúp phẫu
thuật viên đưa ra thời gian tốt nhất để phẫu
thuật. Nghiên cứu cho thấy thể tích não của trẻ
đạt 47% của người trưởng thành khi trẻ 11
tháng, đạt 93% khi trẻ 07 tuổi. Khi 02 tuổi, nền sọ
trước của trẻ đạt 70% so với người trưởng thành,
khối phức hợp mũi xương hàm trên sẽ phát triển
theo sự phát triển của nền sọ trước(1,5). Chính vì
vậy theo các tài liệu cho thấy thời gian tốt nhất
để phẫu thuật thường là từ 06‐09 tháng(5). Ngoài
ra, thời điểm này tốt cho phẫu thuật do xương sọ
lúc này khá mỏng dễ cắt uốn để tạo hình, các
xoang tĩnh mạch chưa phát triển nên giảm thiểu
nguyên nhân chảy máu. Tuy nhiên, vì trẻ còn
nhỏ nên nếu mất máu khi phẫu thuật sẽ dẫn đến
nguy cơ nguy hiểm tính mạng, do vậy việc
chuẩn bị bệnh nhân, cầm máu khi phẫu thuật
cũng như phối hợp gây mê hồi sức trong và sau
phẫu thuật là rất quan trọng. Có một số tài liệu
thời gian trung bình phẫu thuật là 13 tháng, mặc
dù tác giả cũng cho rằng thời gian tốt nhất là 6‐9
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 146
tháng tuy nhiên thường có một số nguyên nhân
khách quan như trẻ có vấn đề về đường hô hấp
do vậy ảnh hưởng đến thời điểm phẫu thuật.
Mặt khác, có một số tác giả lại cho rằng nếu
phẫu thuật sớm khi 06 tháng tuổi thì xương
chưa đủ độ cứng sẽ ảnh hưởng đến kết quả
thẩm mỹ của tạo hình xương ổ mắt và phải tạo
hình lại khi trẻ được 01 tuổi.
Để tạo hình khối vòm sọ trán chúng tôi cắt
nguyên khối xương trán 2 bên giải phóng khớp
trán đỉnh liền sớm, sau đó xoay 180 độ để tạo độ
cong cho xương trán làm tăng thể tích hộp sọ.
Hình ảnh CT sau mổ cho thấy khớp trán đỉnh
được giải phóng và khối xương sọ được tạo lại
cân đối so với bên lành. Theo nhiều báo cáo cho
thấy việc cắt toàn bộ khối trán 2 bên sẽ cho kết
quả tối ưu nhất do tỷ lệ ít phải sửa chữa lại sau
khi trẻ phát triển lớn(2).
Hình ảnh cắt xương và xoay 180 độ khối xương trán
Hình ảnh CT trước và sau phẫu thuật
Chúng tôi tiến hành phối hợp phẫu thuật
viên thần kinh và phẫu thuật viên hàm mặt tạo
hình để tạo lại khung thành trên trần ổ mắt.
Chúng tôi tiến hành cắt rời xương thành trên ổ
mắt bên lành từ khớp trán‐gò má của thành bên
ổ mắt đến đường giữa. Để tạo hình lại thành trên
cân đối với bên lành chúng tôi ghép xương vòm
sọ sau khi cắt đôi thành trên ổ mắt để tạo độ
cong, để giữ được độ cong như mong muốn
chúng tôi tạo hình dựa trên khung bên lành và
cố định mảnh ghép bằng nẹp vis titanium. Có
rất nhiều kỹ thuật được báo về việc tạo hình lại
thành trên ổ mắt trong bệnh lý dính khớp
coronal một bên. McCarthy và cộng sự đã báo
cáo về kinh nghiệm đẩy toàn bộ thành trên ổ
mắt ra phía trước để tạo hình lại ổ mắt(4). Hilling
và cộng sự đánh giá các kết quả thẩm mỹ của
một kỹ thuật tiến bộ trong tạo lại thành trên ổ
mắt(3). Trong loạt lớn 137 bệnh nhân của họ, các
tác giả nhận thấy rằng các biến dạng sau phẫu
thuật kéo dài là hình ảnh hẹp thắt lại ở thái
dương và vấn đề trở nên xấu đi với thời gian.
Điều thú vị là, họ cho rằng độ tuổi mà bệnh
nhân khi phẫu thuật không ảnh hưởng đến kết
quả thẩm mỹ sau phẫu thuật. Những kết quả
này tương phản với kết quả báo cáo của Jane và
cộng sự gợi ý rằng một kỹ thuật phẫu thuật khác
nhau nên được sử dụng tùy thuộc vào tuổi của
bệnh nhân tại thời điểm phẫu thuật. Ngoài ra
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Bệnh Lý Sọ Não 147
một số báo cáo như của Persing và cộng sự cho
rằng có việc theo cơ thái dương bên bệnh lý sau
phẫu thuật nên tác giả đã tiến hành tạo vạt cơ
xương thái dương khi cắt xương sọ tạo hình để
tránh hiện tượng teo cơ(6). Tuy nhiên, đây chỉ là
báo cáo trên một ca lâm sàng. Để tránh hiện
tượng này chúng tôi đã không làm tổn thương
cơ thái dương, tuy nhiên kết quả lâu dài chúng
tôi vẫn đang tiếp tục theo dõi. Đối với thành trên
ổ mắt chúng tôi không can thiệp bên lành như
các tác giả mà tiến hành ghép xương tạo độ
cong. Kết quả sau mổ cho thấy rất khả quan.
Hình ảnh cắt xương và ghép xương tạo hình thành
trên ổ mắt
Về vấn đề sử dụng vật liệu cố định mảnh
xương sọ, chúng tôi sử dụng mesh titanium với
02 lý do đó là chất liệu này tạo độ cứng thích
hợp để tạo hình và hiện tại chúng tôi chưa có
nẹp tự tiêu. Nhược điểm là sau 06‐09 tháng bệnh
nhân sẽ phải mổ lấy nẹp. Theo y văn cho thấy
nhiều tác giả cũng sử dụng vật liệu này để cố
định mảnh xương sọ, một số khác dùng nẹp vis
tự tiêu hoặc chỉ tự tiêu, tuy nhiên chỉ tự tiêu rất
yêú và không tạo hình lại độ cong như mong
muốn(5).
KẾT LUẬN
Bệnh lý dính khớp coronal một bên nói riêng
cũng như bệnh lý dính hộp sọ nói chung vẫn là
một thách thức với các phẫu thuật viên tạo hình
và phẫu thuật viên thần kinh. Các kỹ thuật khác
nhau được đưa ra nhằm đạt được kết quả về
thẩm mỹ và chức năng tốt nhất vẫn còn đang
được tranh luận rất nhiều.
BN nữ 09 tháng tuổi, liền sớm khớp trán đỉnh bên
trái
Hình ảnh sau mổ 1 tháng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Arriaga MA, Chen DA (2002): Hydroxyapatite cement
cranioplasty in translabyrinthine acoustic neuroma surgery.
Otolaryngol Head Neck Surg 126:512–517.
2. Bartlett SP, Whitaker LA, Marchac D (1990): The operative treat‐
ment of isolated craniofacial dysostosis (plagiocephaly): a
comparison of the unilateral and bilateral techniques. Plast
Reconstr Surg 85:677–683.
3. Hilling DE, Mathijssen IM, Mulder PG, Vaandrager JM (2006):
Long‐ term aesthetic results of frontoorbital correction for
frontal pla‐ giocephaly. J Neurosurg 105 (1 Suppl):21–25.
4. McCarthy JG, Glasberg SB, Cutting CB, Epstein FJ, Grayson BH,
Ruff G, et al (1995): Twenty‐year experience with early surgery
for craniosynostosis: I. Isolated craniofacial synostosis—re‐ sults
and unsolved problems. Plast Reconstr Surg 96:272– 283.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 148
5. Mesa JM., Fang F, Muraszko KM, and BuchMan SR (2011).
Reconstruction of unicoronal plagiocephaly with a hypercorrection
surgical technique. Neurosurg Focus 31 (2):E4.
6. Persing JA, Mayer PL, Spinelli HM, Miller L, Criscuolo GR
(1994): Prevention of “temporal hollowing” after fronto‐orbital
ad‐ vancement for craniosynostosis. J Craniofac Surg 5:271– 274.
Ngày nhận bài báo 16/10/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 27/10/2014
Ngày bài báo được đăng: 5/12/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tao_hinh_trong_benh_ly_dinh_khop_so_coronal_mot_ben_nhan_01.pdf