Tạo mạch máu dùng chạy thận nhân tạo chu kỳ ở những trường hợp khó tại bệnh viện Thống Nhất từ tháng 01/2012 đến tháng 06/2014

Biến chứng Nhiễm trùng vết mổ là biến chứng chung trong các cuộc phẫu thuật, đặc biệt trên bệnh nhân suy thận, bệnh nội khoa đi kèm, suy giảm sức đề kháng. Trong nghiên cứu này có 02 trường hợp nhiễm trùng ống ghép, trong đó 01 trường hợp phải lấy bỏ ống ghép, trường hợp còn lại tắc ống ghép sau 02 tháng phải tạo dò mới. Một số nguyên nhân dẫn đến biến chứng hoặc thất bại sau mổ lâu dài không chỉ là vấn đề đánh giá trước và sau mổ. Việc sử dụng đúng cách, bảo quản cầu nối cũng rất quan trọng. Một số yêu cầu để tăng tuổi thọ cầu nối: chờ đủ thời gian để cầu nối (tĩnh mạch) trưởng thành (thường là sau 4-6 tuần). Vị trí châm kim cách xa miệng nối 3-5cm (đoạn hiệu dụng sau cầu nối). Châm kim một điểm hay di chuyển bậc thang. Băng ép vừa đủ khi chạy thận xong để cầm máu. Đồng thời, chúng tôi luôn hướng dẫn bệnh nhân cách nhận biết cầu nối hoạt động hay đã tắc theo cách đơn giản nhất. 02 trường hợp trong nghiên cứu này được chính bệnh nhân phát hiện tắc cầu nối và mổ kịp thời để lấy huyết khối. KẾT LUẬN Tạo dò động – tĩnh mạch có vai trò quan trọng trong điều trị bệnh thận giai đoạn cuối. Mổ lại nhiều lần, mạch máu không phù hợp và tổn thương hẹp mạch do xơ vữa là những khó khăn trong phẫu thuật tạo dò. Có 35 trường hợp vào nghiên cứu này, kết quả sau mổ tốt có 23 trường hợp (79,31%). Tỉ lệ biến chứng tương tự nghiên cứu khác. Ưu tiên chọn mạch tự thân làm cầu nối. Chuẩn bị bệnh nhân trước mổ có vai trò quyết định cho thành công của cuộc mổ, đặc biệt là vai trò của khám lâm sàng kỹ lưỡng và siêu âm mạch máu.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 29/01/2022 | Lượt xem: 142 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tạo mạch máu dùng chạy thận nhân tạo chu kỳ ở những trường hợp khó tại bệnh viện Thống Nhất từ tháng 01/2012 đến tháng 06/2014, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 3 * 2014 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 289 TẠO MẠCH MÁU DÙNG CHẠY THẬN NHÂN TẠO CHU KỲ Ở NHỮNG TRƯỜNG HỢP KHÓ TẠI BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT TỪ THÁNG 01/2012 ĐẾN THÁNG 06/2014 Nguyễn Đỗ Nhân*, Đỗ Kim Quế* TÓM TẮT Đặt vấn đề: phẫu thuật tạo cầu nối mạch máu dùng lọc máu chạy thận là một phẫu thuật đơn giản. Tuy nhiên tuổi thọ cầu nối hạn hữu, bệnh xơ vữa mạch, tiểu đường, bất thường mạch máu, tai biến trong quá trình sử dụng đặt ra nhiều tình huống phức tạp trong việc tạo thông và duy trì nó thích hợp. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu mô tả những trường hợp phẫu thuật lần 2, mạch không phù hợp, mạch ghép, chuyển vị và nông hóa tĩnh mạch. Mục tiêu nghiên cứu: tần suất nguyên nhân, hiệu quả phẫu thuật và cải thiện tiên lượng gần. Kết quả nghiên cứu: có 35 bệnh nhân, tỉ lệ nam/nữ là 19/16. Trước mổ: Tắt hoặc hẹp nặng động mạch quay (06), tĩnh mạch nền tắc hoặc hẹp (08), hẹp tắc nặng tại cầu nối(05), phình mạch, cầu nối lưu lượng cao(04), tắc ống ghép mạch(6)... Thời gian mổ trung bình 115 + 28,7 phút. Kết quả tốt có 23 trường hợp (65,71%). Biến chứng sau mổ: tắc cầu nối (02), hẹp miệng nối (02), nhiễm trùng vết mổ(02). Bàn luận: chuẩn bị bệnh nhân trước mổ là rất quan trọng. Siêu âm mạch máu, khám lâm sàng, trong đó cần đánh giá các yếu tố về tính chất mạch máu xơ vữa, hẹp, tắc do huyết khối, tiêm chích, chấn thương, mổ lại nhiều lần, đoạn tĩnh mạch hiệu dụng ,tĩnh mạch cánh tay, dưới đòn. Có các yếu tố tác động vào hiệu quả tạo dò như: Chọn lựa vị trí tạo dò, mạch tạo dò và miệng nối, theo dõi và phát hiện tắc cầu nối sớm sau mổ. Kết luận: Mổ lại nhiều lần, mạch máu không phù hợp và tổn thương hẹp mạch do xơ vữa là những khó khăn trong phẫu thuật tạo dò. Dùng mạch máu tự thận giúp cải thiện tiên lượng. Có 35 trường hợp vào nghiên cứu này, kết quả sau mổ tốt có 23 trường hợp (65,71%). Tỉ lệ biến chứng tương tự nghiên cứu khác. Từ khoá: phẫu thuật tạo cầu nối mạch máu ABSTRACT ARTERIOVENOUS SHUNTING FOR HAEMODIALYSIS – COMPLICATED CASES IN THONG NHAT HOSPITAL FROM JAN, 2012 UNTIL JUNE, 2014 Nguyen Do Nhan, Do Kim Que * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 3- 2014: 289-294 Background: The efficacy of arteriovenous shunting is varied, depending on various factors, as vacular anatomy’s diversity, or combined atherosclerosis, or thromboembolism associated with long-term use. Methods: Retrospective, descriptive study. Results: 35 patients, male/female ratio is 19/16. Before surgery: occlusion or severely narrowed radial artery (06), occlusion or narrowed basilar vein (08), occlusion or severe stenosis at the bridge (05), aneurysm, overloaded bridge (04), occlusion angioplasty (6) ... After surgery: The average operation time was 115 + 28.7 minutes. Good results for 23 cases (65.71%). Complications after surgery: occlusion of the bridge (02), anastomotic stenosis (02), wound infection (02). Discussion: Preoperative patient preparation is very important. Vascular ultrasounding, clinical * Khoa Ngoại lồng ngực – mạch máu Bệnh viện Thống Nhất Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Đỗ Nhân ĐT:0982220994 Email: bsnguyendonhan@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 3 * 2014 Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 290 examination, including the need to assess the nature and elements of vascular atherosclerosis, stenosis , thrombotic categories, injections, injuries, repeated surgeries, effective vein segments, brachial vein, subclavian vein. There are factors impacting on the effectiveness of arteriovenous shunting such as: selection of intervention sites, selection of the vein and artery to be shunted, anastomosis, monitoring and early detection of any occlusion of the bridge after surgery. Conclusion: Repeated surgeries , inappropriate vascular selection, stenosis caused by atherosclerosis are the difficulties for arteriovenous shunting surgery. With 35 cases in this study, good postoperative results were achieved for 23 cases (65.71 %) . Complication rate was similar to other researches. Key words: arteriovenous shunting ĐẶT VẤN ĐỀ Cầu nối động - tĩnh mạch đến nay vẫn được xem là phương pháp chủ yếu dùng chạy thận chu kỳ trong điều trị bệnh suy thận mạn giai đoạn cuối có chỉ định lọc thận(3,4,5). Có nhiều kỹ thuật, vị trí tạo dò động - tĩnh mạch. Do sự đa dạng trong giải phẫu mạch máu, bệnh lý nội khoa xơ vữa mạch máu kết hợp hoặc thời gian dùng lâu bị huyết khối, mổ lại v.v..nên hiệu quả phẫu thuật tạo dò động - tĩnh mạch phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Bệnh viện Thống Nhất từ lâu đã thực hiện phẫu thuật tạo dò động – tĩnh mạch để chạy thận, đặc biệt trên những trường hợp phức tạp, đã mổ nhiều lần ở tuyến trước, bệnh nhân cao tuổi có nhiều bệnh nội khoa. TỔNG QUAN Trên thế giới, số trường hợp cần chạy thận ngày càng tăng(3,4,5,6). Tại Việt Nam, riêng đối tượng bảo hiểm y tế, có khoảng 9200 trường hợp đang chạy thận chu kỳ. Lọc thận chu kỳ là phương pháp điều trị chính trong suy thận giai đoạn cuối(1). Có nhiều phương pháp chạy thận như chạy qua dò động – tĩnh mạch tự thân (AVF: arteriovenous fistula), bằng mạch ghép nhân tạo (AVG: arteriovenous graft) hoặc catheter ở cổ. Trong đó, tạo dò bằng động- tĩnh mạch đầu ở cổ tay (kỹ thuật nối bên-bên) của Brescia và cộng sự là một trong những phương pháp hiệu quả nhất để chạy thận vì ít biến chứng, dùng được lâu, ít ảnh hưởng đến chất lượng sống v.v. Hiện nay, đa số phẫu thuật viên chọn kỹ thuật này nhưng kiểu nối tận-bên. Hiện nay, bệnh nhân được chạy thận ngày càng sống lâu hơn trong khi cầu nối có tuổi thọ hạn hữu, các bệnh mạch máu trầm trọng hơn do suy thận, tổn thương cầu nối khi sử dụng v.v...đặt ra vấn đề cần sửa chữa cầu nối, mổ lại, tạo mới, và nhiều tình huống lâm sàng phức tạp khác trong việc tạo dò và duy trì một dò thích hợp dùng chạy thận. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu hồi cứu mô tả. Số liệu được thu thập từ những trường hợp phẫu thuật tạo dò động – tĩnh mạch từ lần 2, mạch máu tự thân không phù hợp (nhỏ xơ vữa, tổn thương hẹp, tắc), chuyển vị tĩnh mạch và nông hóa tĩnh mạch. Thời gian từ tháng 01 năm 2012 đến tháng 06 năm 2014 tại bệnh viện Thống Nhất - thành phố Hồ Chí Minh. Các yếu tố liên quan được thu thập gồm: tuổi, giới, bệnh lý đi kèm, tình trạng trước mổ, mô tả mạch máu trên siêu âm doppler, vị trí mổ, số lần mổ, kỹ thuật, kết quả mổ (sau mổ đến ngày ra viện), biến chứng, mổ lại. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Tổng số Có 35 bệnh nhân, tỉ lệ nam/nữ là 19/16 (54,28% và 45,72%). Biểu đồ 1: Phân bố giới tính của mẫu. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 3 * 2014 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 291 Tuổi Trung bình là 65+ 11 tuổi (nhỏ nhất là 18 tuổi, cao nhất là 86 tuổi). Biểu đồ 2: Phân bố độ tuổi-tần suất Một số bệnh lý nội khoa Ghi nhận như tăng huyết áp, tiểu đường, suy tim, tắc tĩnh mạch chi v.v Bảng 1: Bệnh nội khoa kết hợp Trường hợp Tỉ lệ% Tăng huyết áp 32 91,43 Tiểu đường 13 37,14 Suy tim 4 11,43 Tắc tĩnh mạch chi 1 02,86 Kết quả siêu âm Doppler mạch máu 2 tay Trước mổ ghi nhận các yếu tố: đường kính động mạch, tĩnh mạch 2 tay, đặc biệt tại những vị trí có thể tạo dò, tính chất thành mạch, huyết khối. 1 trường hợp vết thương cũ khuỷu tay trái gây hẹp nặng động mạch. Bảng 2: Kết quả siêu âm mạch trước mổ Trường hợp Tỉ lệ% Tắt hoặc hẹp nặng động mạch quay 6 17,14 Tắc hoặc hẹp nặng động mạch trụ 3 08,57 Tĩnh mạch nền tắc hoặc quá nhỏ 8 22,85 Hẹp động mạch cánh tay 1 02,85 Tắc hoặc hẹp nặng tại cầu nối 5 14,28 Phình mạch cầu nối lưu lượng cao 4 11,43 Tắc ống ghép mạch 6 17,14 Vị trí mổ và kỹ thuật Về bên mổ thì ưu tiên phẫu thuật tạo dò bên tay không thuận, nếu không thuận lợi thì chọn tay thuận. Về vị trí trên tay thì ưu tiên theo thứ tự từ cổ tay, cẳng tay, khuỷu đến cánh tay. Chọn tạo dò bằng mạch tự thân trước, đến dùng mạch ghép nhân tạo. Dùng kỹ thuật khâu mạch tận- bên, bên-bên, thu nhỏ miệng nối. Bảng 3: Vị trí tạo dò Trường hợp Tỉ lệ% Cổ tay Trái 4 11,43 Phải 3 02,86 Cẳng tay Trái 2 05,71 Phải 0 00,00 Khủy tay Trái 18 48,57 Phải 9 22,86 Cánh tay Trái 2 05,71 Phải 1 02,86 Bảng 4: Loại mạch máu dùng tạo dò Trường hợp Tỉ lệ% Mạch tự thân 12 34,28 Mạch chuyển vị 5 14,28 Mạch nông hóa 8 22,85 Mạch nhân tạo 10 28,57 Thời gian mổ Trung bình là 115 + 28,7 phút. Nhanh nhất là 45 phút, dài nhất là 420 phút. Kết quả sau mổ Được đánh giá ban đầu dựa vào những yếu tố : không biến chứng, cầu nối hoạt động, có rù, sự dãn nở của tĩnh mạch sau cầu nối, dùng được ngay sau hậu phẫu ngày 01 trong trường hợp sửa chữa hoặc sau 1-2 tháng với trường hợp tạo mới. Kết quả tốt có 23 trường hợp (65,71%), mổ lại có 04 trường hợp (11,42%) Biến chứng sau mổ gồm Tắc cầu nối (tự thân, ống ghép): 02 trường hợp (05,71%), hẹp miệng nối: 02 trường hợp (05,71%) nhiễm trùng vết mổ: 02 trường hợp (05,71%), trong đó có 01 trường hợp phải lấy bỏ ống ghép. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 3 * 2014 Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 292 BÀN LUẬN Thời điểm mổ Hiện nay, có nhiều quan điểm về thời điểm mổ tạo dò động – tĩnh mạch. Tuy nhiên, đa số các tác giả đồng ý là nên mổ vào giai đoạn suy thận mạn độ IV(GFR 4mg% hoặc trước thời điểm dự tính chạy thận khoảng 6 tháng)(5). Trong nghiên cứu này, có 12 trường hợp mổ mới được chọn thời điểm như trên. Những trường hợp mổ lại, vấn đề thời điểm mổ không quan trọng bằng việc chuẩn bị tốt bệnh nhân trước mổ. Chuẩn bị bệnh nhân trước mổ Có thể nói đây là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành công của tạo dò động – tĩnh mạch. Đặt biệt trong nghiên cứu này, là những trường hợp phức tạp, chúng tôi đều chuẩn bị từng bước, đánh giá lâm sàng, siêu âm mạch, thời gian sử dụng cầu nối trước đó, bệnh sử những tai biến trong quá trình sử dụng v.v... kể cả tâm lý, trải nghiệm của người bệnh. Siêu âm mạch máu trước mổ cũng như việc khám lâm sàng là rất cần thiết(1,2,8). Kỹ thuật tạo dò ở những lần mổ trước, diễn tiến bệnh nội khoa (tiểu đường, xơ vữa mạch) quá trình sử dụng cầu cũng như biến đổi động học dòng chảy đã làm thay đổi giải phẫu và tính chất mạch máu ở nhiều mức độ. Lâm sàng và siêu âm giúp chúng tôi rất nhiều trong việc đánh giá sự thay đổi này đặc biệt là các yếu tố về tính chất mạch máu xơ vữa, hẹp, tắc do huyết khối, tiêm chích, chấn thương, tính chất đoạn tĩnh mạch hiệu dụng sau cầu nối cũng như tĩnh mạch cánh tay, dưới đòn. Vai trò siêu âm trước mổ thể hiện rõ ưu điểm trên 11 trường hợp trong nghiên cứu này. Những bệnh nhân này khám lâm sàng nghi ngờ có tổn thương mạch máu như mạch quay yếu, tĩnh mạch vùng cẳng tay bất thường và sẹo nhỏ vùng khuỷu tay. Siêu âm mô tả được rõ những tổn thương này, hội chẩn trước mổ đã quyết định đổi vị trí tạo dò. Cầu nối của các trường hợp này sau mổ đều hoạt động tốt, tránh được việc tắc cầu nối hoặc đổi vị trí trong lúc mổ. Trong nghiên cứu này có 02 trường hợp, siêu âm mạch phát hiện cầu nối lưu lượng kém do hẹp ngay tại miệng nối. Kết hợp với chụp mạch máu xóa nền (DSA) và can thiệp mạch, chúng tôi đã khảo sát chi tiết và nong thành công 01 trường hợp. Trường hợp còn lại chuyển mổ vì nong thất bại do tái hẹp trên đoạn dài. Ở những trường hợp khó, chúng tôi thấy rằng có vai trò của chụp mạch xóa nền và can thiệp. Tuy nhiên phương pháp này thay thế được phẫu thuật sửa chữa hoặc tạo dò không thì cần thời gian để đánh giá. Đa số trường hợp hẹp cầu nối phức tạp thường xảy ra trên đoạn dài, nhiều vị trí, mạch xơ vữa hệ thống. Thêm nữa, chi phí cho một lần can thiệp mạch không nhỏ. Chọn lựa vị trí tạo dò Theo R. Allen(3), có nhiều vị trí để tạo dò động – tĩnh mạch theo thứ tự ưu tiên dựa vào các mốc giải phẫu học: đầu tiên là chọn tay không thuận, sau đó là lần lượt theo thứ tự: 1. Tĩnh mạch đầu-động mạch quay ở cổ tay 2. Tĩnh mạch nền-động mạch cánh tay ở khuỷu 3. Tĩnh mạch nền-động mạch trụ ở cổ tay 4. Tĩnh mạch nền-động mạch cánh tay ở khuỷu 5. Ghép mạch tự thân(tĩnh mạch hiển) 6. Mạch ghép nhân tạo. Theo Gagne và cộng sự(7), tuổi thọ trung bình của mạch tự thân dài hơn mạch ghép nhân tạo( mạch nhân tạo là 4,6 tháng). Trong nghiên cứu này, chúng tôi cũng chọn lựa vị trí theo gợi ý trên. Tuy nhiên, chúng tôi chưa có trường hợp nào dùng tĩnh mạch hiển để làm mạch ghép. Tương tự, có 1 trường hợp bệnh nhân được mổ 6 lần : 2 lần đầu là AVF cổ tay trái và AVG khủy tay trái thất bại do tĩnh mạch không phù hợp(nhỏ, tắc). chuyển mổ 2 lần AVF cổ tay phải(tĩnh mạch nhỏ, tắc), 1 lần AVG khủy tay phải dùng được 05 tháng thì hẹp tắc và mổ lần 6 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 3 * 2014 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 293 sửa miệng nối (sau 1 tháng thì tắc lại). Trường hợp này được chúng tôi hội chẩn và siêu âm mạch trước mổ. Kết quả thấy rằng tĩnh mạch tự thân sau ống ghép còn hoạt động tốt. Trường hợp này được chuyển mổ quay về lại AVF tự thân tại khuỷu tay phải. Kết quả sau mổ tốt và dùng được ngay sau 1 ngày (đến hiện tại đang dùng 14 tháng). Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi trường hợp này lâu dài để có những đánh giá chi tiết hơn. Trước mắt, việc này cũng nói lên tính ưu việc của mạch tự thân, thứ tự ưu tiên nên chọn khi mổ tạo dò. Mặc dù là lựa chọn sau cùng, mạch ghép nhân tạo cũng có vai trò nhất định. Trong nghiên cứu này, những trường hợp phải dùng mạch ghép nhân tạo chúng tôi đều không tìm thấy tĩnh mạch tự thân phù hợp qua siêu âm và thăm khám lâm sàng kỹ lưỡng. Mạch tạo dò và miệng nối Là một yếu tố luôn được các phẫu thuật viên quan tâm. Miệng nối nhỏ thì có nguy cơ không đủ lưu lượng, có thể tắc cầu nối. Miệng rộng thì tăng lưu lượng quá mức, tăng tiền tải, suy tim. Một số nghiên cứu nước ngoài gợi ý kích thước miệng nối từ 10-15mm, số khác thì 5-7mm. Theo Robin-2003, kích thước mạch máu phù hợp: - Động mạch: lớn hơn 1,6 mm - Miệng nối: lớn hơn 4mm - Tĩnh mạch: lớn hơn 2,2 mm, nằm nông (<1cm), thẳng trên 1 đoạn dài(10cm), nằm vùng trước hoặc bên để dễ châm kim. Theo Nguyễn Sanh Tùng nghiên cứu trên 115 bệnh nhân tại Hà Nội, kích thước miệng nối nên từ 6-8mm để đạt lưu lượng đủ. Trong nghiên cứu của chúng tôi, kích thước miệng nối trung bình 4-8mm, tùy theo trường hợp. Có 2 trường hợp quá lưu lượng, miệng nối dãn 12mm. Chúng tôi thu nhỏ lại còn 4-6mm. cầu nối sau đó đủ lưu lượng. Chuyển vị tĩnh mạch Chuyển vị có thể thực hiện nhờ tĩnh mạch nền ở nhiều vị trí như: đoạn cánh tay theo Dagler(4), Đỗ Kim Quế(1), đoạn cẳng tay theo Thái Minh Sâm(2). Việc chuyển vị này giúp ích rất nhiều cho việc chọn lựa tĩnh mạch vì vẫn tạo được dò tại vị trí mong muốn trong khi tĩnh mạch đầu không phù hợp. Tuy nhiên, do đặc điểm nằm phía sau, thành mỏng(1), chuyển vị đi xa, nên đòi hỏi kinh nghiệm, sự khéo léo và kỹ thuật phẫu tích để không tổn thương thành mạch, xoắn mạch. Trong nghiên cứu này, 05 trường hợp chuyển vị đều sử dụng được cầu nối sau 40 ngày. Theo (1) là 35 ngày và Ryan(9) là 74 ngày. Chúng tôi có 01 trường hợp bị xoắn mạch khi nối, được phát hiện ngay trong mổ và gỡ xoắn, tạo hình lại miệng nối. Sau mổ, cầu nối hoạt động tốt. Theo Đỗ Kim Quế(1) cũng có trường hợp này. Có 01 trường hợp chúng tôi mổ lại tạo dò tại khuỷu tay trái bên-bên do AVF chuyển vị ở cổ tay trái lưu lượng kém. Chúng tôi nhận thấy vị trí tĩnh mạch chuyển vị khá phù hợp. Tuy nhiên tính chất co dãn kém và khá nhỏ. Trường này, bệnh nhân được mổ tại cổ tay 03 lần ở nơi khác, trong đó 2 lần đầu AVF thất bại, lần 3 mổ chuyển vị. Chúng tôi chưa tìm được mô tả chi tiết mổ nên chưa thể đánh giá nhiều hơn. Xơ hóa tĩnh mạch Có 03 trường hợp bệnh nhân vào trong bệnh cảnh nặng, phải hồi sức nội khoa một thời gian, cần tiêm chích nhiều. Quá trình này làm xơ hóa tĩnh mạch cẳng tay không thể làm cầu nối dù rằng trước đó nó khá thuận lợi. Việc này được chúng tôi trao đổi và rút kinh nghiệm trong kíp điều trị, khi cần tiêm chích cố gắng tránh phải dùng đoạn tĩnh mạch mà chúng tôi đánh giá là có thể dùng làm cầu nối, đặc biệt là tĩnh mạch đầu, tĩnh mạch nền cẳng tay. Sau 03 trường hợp này, chúng tôi chưa ghi nhận trường hợp nào tĩnh mạch vùng cẳng tay bị xơ hóa. Biến chứng Nhiễm trùng vết mổ là biến chứng chung trong các cuộc phẫu thuật, đặc biệt trên bệnh nhân suy thận, bệnh nội khoa đi kèm, suy giảm sức đề kháng. Trong nghiên cứu này có Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 3 * 2014 Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 294 02 trường hợp nhiễm trùng ống ghép, trong đó 01 trường hợp phải lấy bỏ ống ghép, trường hợp còn lại tắc ống ghép sau 02 tháng phải tạo dò mới. Một số nguyên nhân dẫn đến biến chứng hoặc thất bại sau mổ lâu dài không chỉ là vấn đề đánh giá trước và sau mổ. Việc sử dụng đúng cách, bảo quản cầu nối cũng rất quan trọng. Một số yêu cầu để tăng tuổi thọ cầu nối: chờ đủ thời gian để cầu nối (tĩnh mạch) trưởng thành (thường là sau 4-6 tuần). Vị trí châm kim cách xa miệng nối 3-5cm (đoạn hiệu dụng sau cầu nối). Châm kim một điểm hay di chuyển bậc thang. Băng ép vừa đủ khi chạy thận xong để cầm máu. Đồng thời, chúng tôi luôn hướng dẫn bệnh nhân cách nhận biết cầu nối hoạt động hay đã tắc theo cách đơn giản nhất. 02 trường hợp trong nghiên cứu này được chính bệnh nhân phát hiện tắc cầu nối và mổ kịp thời để lấy huyết khối. KẾT LUẬN Tạo dò động – tĩnh mạch có vai trò quan trọng trong điều trị bệnh thận giai đoạn cuối. Mổ lại nhiều lần, mạch máu không phù hợp và tổn thương hẹp mạch do xơ vữa là những khó khăn trong phẫu thuật tạo dò. Có 35 trường hợp vào nghiên cứu này, kết quả sau mổ tốt có 23 trường hợp (79,31%). Tỉ lệ biến chứng tương tự nghiên cứu khác. Ưu tiên chọn mạch tự thân làm cầu nối. Chuẩn bị bệnh nhân trước mổ có vai trò quyết định cho thành công của cuộc mổ, đặc biệt là vai trò của khám lâm sàng kỹ lưỡng và siêu âm mạch máu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đỗ Kim Quế (2005), Kết quả phẫu thuật chuyển tĩnh mạch nền tạo dò động tĩnh mạch cánh tay, Y học Tp.Hồ Chí Minh,Tập 9, phụ san của số 1, 2. Thái Minh Sâm(2010), phẫu thuật tạo dò động tĩnh mạch để chạy thận nhân tạo tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 1/1008 đến 5/2010, Y Học TP. HồChí Minh, Tập 15, Phụ bản của Số4/2011 3. Allen R (2009): Vascular Access Surgery for Haemodilysis. The transplantation society. 4. Beathard G (2003): A practioner resoure guid to Hemodialisis, Artoriovenous Fistulas. 5. Cull JD, Cull DL, Taylor SM, Carsten III CG, Snyder BA, Youkey JR, Langan EM 3rd, Blackhurst DW. Prothetic thigh arterivenous access: Outcome with SVS/AAVS reporting standards. J Vasc Surg 2004; 39:381 -86. 6. Dagher FJ, Gelber R, Ramos E, Sadler J (1976). The use basilic vein and branchial artery as an AV fistula for long-term hemodialysis. J Surg Res; 20: 373-376. 7. Gagne PJ, Martinez J, DeMassi R, Gregory R, Parent FN, Gayle R, Meier GH 3rd, Philput C (2000). The effect of venous anastomosis Tyrell vein collar on the primary patency of arteriovenous grafts in patients undergoing hemodialysis. J Vasc Surg ; 32:1149-54. 8. National Kidney and Urologic Diseases Information Clearinghouse (NKUDIC), 9. Rao AK, Azin GD, Hood DB, Rowe DL, Kohl RD, Katz SG, Weaver FA (2004). Basilic vein transposition fistula: A good for maitaining hemodialysis access site options? J Vasc Surg; 39:1043-47. 10. Ryan SV, Calligaro KD, Scharff J, Dougherty (2004). Management of the infectedprothetic grafts. J Vasc Surg; 39:73-78. Ngày nhận bài báo: 11-04-2014 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20-04-2014 Ngày bài báo được đăng: 20-05-2014

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftao_mach_mau_dung_chay_than_nhan_tao_chu_ky_o_nhung_truong_h.pdf
Tài liệu liên quan