CHỦ NGHĨA DUY VẬT KHOA HỌC
I.KHÁI LUẬN CHUNG VỀ TRIẾT HỌC
1Khái niệm triết học
- Theo nghĩa gốc Hán, triết là trí, bao gồm cả sự hiểu biết, nhận thức sâu rộng, đạo lý.
- Theo nghĩa gốc Hy Lạp, triết có nghĩa là yêu mến sự thông thái.
- Từ thế kỷ VI TCN cho đến thế kỷ XVIII loài người đã quan niệm triết học là khoa học của mọi khoa học, là khoa học đứng trên mọi khoa học. Bởi thế, bất cứ ai thông thạo bất cứ môn khoa học nào cũng được gọi là nhà hiền triết hoặc nhà thông thái. Người ta đã xem đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và đặc điểm của triết học là bao gồm mọi đối tượng, phương pháp và đặc điểm của mọi khoa học cụ thể.
- Thế kỷ XIX, người đầu tiên tách triết học ra khỏi các khoa học cụ thể khá thành công nhưng trên lập trường duy tâm khách quan là G.V.F. Hêghen. Người hoàn thành sự nghiệp đó là C.Mác và Ph.Ăng ghen.
- Theo quan điểm mác-xít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là khoa học về những biện pháp chung nhất, những nguyên tắc chung nhất, những con đường chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới.
- Khái niệm triết học dù ở phương Đông hay phương Tây, dù có biến đổi theo lịch sử nhưng bao giờ cũng bao gồm hai yếu tố: Một là yếu tố nhận thức, tức sự hiểu biết của con người về thế giới, sự giải thích thế giới hiện thực bằng hệ thống tư duy. Hai là yếu tố nhận định, tức sự đánh giá, nhận xét về mặt đạo lý và thái độ hành động đối xử của con người đối với thế giới.
- Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có những đặc điểm riêng:
+ Nó là một trong những hình thái ý thức cổ xưa nhất và quan trọng nhất. Vai trò của triết học ngày càng tăng lên cùng với quá trình phát triển của tri thức nhân loại. Cùng với đạo đức, nghệ thuật, triết học mãi mãi tồn tại với xã hội loài người.
+ Khác với các hình thái ý thức xã hội khác, triết học nghiên cứu thế giới trong một chỉnh thể, nhận thức bản chất của thế giới, vạch ra những nguyên nhân của sự phát triển. Triết học nghiên cứu những nguyên lý, những quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới. Tức không có lĩnh vực nào mà triết học không nghiên cứu. Nhưng ở tất cả mọi lĩnh vực, triết học chỉ nghiên cứu cái chung nhất, chỉ ra bản chất của nó chứ không nghiên cứu cụ thể như các khoa học cụ thể.
+ Là một trong những hình thái ý thức xã hội, nhưng triết học cố gắng đưa ra một quan niệm chỉnh thể về thế giới, về các quá trình vật chất và tinh thần, về những mối liên hệ tác động của các quá trình đó, về nhận thức và con đường cải biến thế giới.
Gồm 19 bài, chia lam 102 trang
103 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1850 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tập bài giảng chính trị 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủ nghĩa luôn quan tâm xây dựng ,thực hiện đường lối đối ngoại nhân đạo hoà bình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng mối quan hệ kiểu mới là phối hợp và gắn bó khăng khít giữa dân tộc thuộc địa và các nước chính quốc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ( 2/1930 ) đã khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới và thực hành liên kết với các dân tộc bị áp bức và vô sản thế giới nhất là vô sản Pháp.
+ Trong bản tuyên ngôn độc lập 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố Việt Nam muốn hoà bình và là bạn với tất cả các nước dân chủ.
+ Từ sau cách mạng tháng 8- 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã thực thi chính sách đối ngoại mở cửa, hợp tác với các nước dân chủ, giữ vững độc lập tự chủ, hoà bình xây dựng lực lượng, tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-19534)
+ Trong thời kỳ 1954-1975, truyền thống ngoại giao Việt Nam được Đảng, nhà nước ta kế thừa nâng lên một đỉnh cao mới, góp phần thắng lợi có ý nghĩa dân tộc thời đại sâu sắc, giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước.
+ Kể từ đại hội VI(1986 ) Đảng đã đề ra và thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, trong đó có việc mở rộng đa dạng hoá,đa phương hoá quan hệ đối ngoại đã đạt được những thành tự to lớn.
2.Mở rộng quan hệ đối ngoại là xu thế của thời đại và yêu cầu bức thiết của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước hiện nay.
Cách mạng nước ta là một bộ phận của cách mạng thế giới nên vận động theo bối cảnh chung của thời đại.Hiện nay hoà bình hợp tác, phát triển là xu thế lớn. Xu thế toàn cầu hoá đã tạo ra những thời cơ và thách thức. Cạnh tranh kinh tế - thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, vốn, công nghệ. . .giữa các nước ngày càng gay gắt.
Thế giới tồn tại nhiều xung đột, mâu thuẫn. Nhiều vấn đề bức xúc: chênh lệch giàu nghèo, gia tăng dân số, khan hiếm năng lượng, ô nhiểm môi trường, bệnh tật. . . đòi hỏi các quốc gia và các tổ chức quốc tế cần phối hợp giải quyết.
Thành tựu của công tác đối ngoại của chúng ta trong thời gian qua đã góp phần giữ vững hoà bình, phát triển kinh tế xã hội, nâng cao uy tín Việt nam trong khu vực và thế giới.
Đến nay Việt Nam đã có quan hệ với 167 nước/ 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Cam kết khu vực mậu dich ASEAN, gia nhập WTO. . . xuất nhập khẩu tăng nhanh.
Ví dụ: Xuất khẩu hàng hoá 5 năm đạt 111 tỷ USD, tăng 17,5 %
Tuy nhiên khó khăn của ta là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong môi trường cạnh tranh quốc tế quyết liệt. Đứng trước nguy cơ tụt hậu so với các nước, chậm đổi mới tư duy.
Bài học lớn của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng và trong công cuộc đổi mới là luôn luôn kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.Tranh thủ thời cơ vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ, phát triển nhanh và bền vững là yêu cầu khách quan của cách mạng nước ta.
II. NHIỆM VỤ VÀ NGUYÊN TẮC ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA
1. Mục tiêu và nhiệm vụ của công tác đối ngoai.
Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định nhiệm vụ đối ngoại là : “Thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi, tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các nước XHCN, các nước láng giềng, tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.”
Nhiệm vụ của công tác đối ngoại hiện nay là: “Tiếp tục giữ vững môi trường hoà bình và tạo các điều kiên quốc tế thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hôi, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo đảm độc lập chủ quyền quốc gia đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.”
* Tiếp tục giữ vững môi trường hoà bình và tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, xây dựng bảo vệ tổ quốc.
Bảo đảm độc lập chủ quyền quốc gia.
Độc lập dân tộc và chủ quỳền quốc gia là những giá trị cơ bản và thiêng liêng mà nhân dân ta đã đấu tranh lâu dài mới giành được. Những thắng lợi vĩ đại trong đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và thành tựu hơn 20 năm đổi mới đã tạo thế và lực mới của đất nước, cả bên trong lẫn bên ngoài, nâng cao uy tín nước ta trên trường quốc tế. Đây là thuận lợi rất cơ bản của ta trong việc bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia hiện nay.
* Góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, và tiến bộ xã hội.
Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội là nguyện vọng là mục tiêu đấu tranh chung của nhân dân thế giới. Trung thành với nguyên tắc chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn quan tâm xây dựng và phát triển quan hệ gắn bó giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới.
* Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là yêu cầu khách quan hiện nay. Xu thế toàn cầu hoá ngày càng tăng đã tác động mạnh mẽ trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực tới tất cả các nước. Muốn hội nhập quốc tế, tiếp thu những kinh nghiệm quý: vốn, khoa học, công nghệ phải có tinh thần chủ động và có thực lực kinh tế đủ mạnh để có ưu thế và lợi thế so sánh.
2. Các nguyên tắc trong quan hệ đối ngoại hiện nay.
a. Tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp sâu vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực.
Đây là nguyên tắc cơ bản, là quan điểm nhất quán trong quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta và phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế.
Chúng ta phản đối mọi âm mưu và hành động can thiệp của các lực lượng thù địch vào công việc nội bộ của các nước khác.
Thực hiện nguyên tắc này chúng ta phải phát huy cao độ tinh thần độc lập tự chủ, đề cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh và làm thất bại mọi âm mưu và hành động can thiệp của các thế lực thù địch.
b. Bình đẳng cùng có lợi.
Quyền bình đẳng giữa các quốc gia, dù lớn hay nhỏ đã được khẳng định trong hiến chương Liên Hợp Quốc. Thực hiện quyền bình đẳng chính là bảo đảm quyền sống, quyền tự do, mưu cầu hạnh phúc và phát triển của mọi dân tộc. Khẳng định tôn trọng quyền bình đẳng khẳng định tư thế và vị trí của Việt Nam trong quan hệ quốc tế.
Cùng có lợi là nguyên tắc khách quan, có ý nghĩa toàn diện lâu dài.
c. Giải quyết các bất đồng, tranh chấp bằng thương lượng hoà bình.
Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn ra phức tạp, sự bất đồng và tranh chấp giữa các nước , các khu vực về kinh tế, chính trị, dân tộc, tôn giáo.. .là khó tránh khỏi. Với tinh thần đổi mới, phương châm hoà bình, độc lập dân tộc chủ quyền của mỗi nước, phát huy những điểm tương đồng, kiên quyết phản đối dùng bạo lực, giải quyết tranh chấp bằng thương lượng hoà bình.
III. CHỦ TRƯƠNGVÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỤ THỂ
1. Cũng cố và tăng cường quan hệ với các Đảng Cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
Hiện nay Đảng ta có quan hệ với gần 200 đảng cộng sản và công nhân, đảng cánh tả và phong trào độc lập giải phóng dân tộc. Đây là lực lượng tiến bộ, đứng trên tuyến đầu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động hiếu chiến.
Chủ trương ta là luôn ủng hộ, hợp tác, không can thiệp công việc nội bộ của các Đảng trên.
2. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các Đảng cầm quyền.
Các đảng cầm quyền hiện nay đều có tiếng nói và thế mạnh nhất định về chính trị, kinh tế và kinh nghiệm quản lý đất nước. Việc thiết lập quan hệ với các Đảng cầm quyền thể hiện chính sách đối ngoại rộng mở của chúng ta.
Chủ trương chúng ta tôn trọng độc lập tự chủ, đường lối và quan điểm các Đảng đó, không can thiệp công việc nội bộ của nhau, tìm tiếng nói chung hướng tới hợp tác.
3.Mở rộng hơn nữa hợp tác đối ngoại nhân dân theo phương châm” chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả”
Ngoại giao nhân dân có vai trò quan trọng trong việc huy động nguồn lực, trí tuệ khoa học, vốn đầu tư xây dựng đất nước, thúc đẩy giao lưu, hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam và các nước.
Hiện nay có gần ba trăm triệu người Việt Nam định ở 80 nước và lãnh thổ trên thế giới. Chủ trương của ta là mở rộng nâng cao hiệu quả hợp tác hoạt động ngoại giao với người Việt ở nước ngoài nhưng phải luôn cảnh giác, ngăn ngừa những ý đồ lợi dụng các cứu trợ, viện trợ nhân đạo. . .vì mục đích chính trị, làm ảnh hưởng đến ổn định và phát triển đất nước.
4.Chủ động tham gia vào cuộc đấu tranh chung vì quyền con người.
Hiểu sâu sắc giá trị lớn lao và có ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, Đảng ta luôn xác định con người là vốn quý nhất, có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Để phát huy quyền con người, Đảng Nhà nước ta luôn chủ trương tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mở rộng dân chủ, thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. . .
Việt Nam sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan đến vấn đề nhân quyền.
5. Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại.
Rà soát lại thể chế, pháp luật, tạo môi trường thu hút vốn đầu tư FDI,ODA, đầu tư gián tiếp tín dung thương mại và các nguồn vốn khác.
Phát huy tính năng động các doanh nghiệp, mở rộng thị trường, liên doanh đẩy mạnh đầu tư vơi nước ngoài.
Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phấn đấu đạt trên 1/3 tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong 5 năm. Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình thức thu hút FDI, hướng vào thị trường giàu tiềm năng, tạo hiệu quả chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và chất lượng, hiệu quả nguồn FDI. Tranh thủ nguồn vốn ODA. Tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp nước ngoài mạnh dạn đầu tư vào Việt Nam
Đẩy mạnh xuất khẩu, chủ động nhập khẩu, kiềm chế và thu hẹp dần nhập siêu
Phát huy tính năng động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế.
IV- NHIỆM VỤ TRƯỚC MẮT CỦA CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI.
1.Đẩy mạnh công tác văn hoá thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường sự hợp tác , tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước
Hiện nay công nghệ thông tin đang phát triển như vũ bão, tình hình thay đổi mau lẹ, quan hệ quốc tế phức tạp. Bởi vậy công tác thông tin dự báo tình hình thế giới có ý nghĩa quan trọng. Chủ động khắc phục yếu kém của ta, nắm bắt chính xác,
Tăng cường văn hoá đối ngoại để thúc đẩy giao lưu văn hoá Việt Nam và văn hoá thế giới, cũng cố sự hiểu biết, phát triển quan hệ hữu nghị giữa nước ta với các nước.
2. Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại
Đội ngũ làm công tác đối ngoại, nhất là kinh tế đối ngoại là những người thay mặt cho đất nước trong hoạt động đối ngoại. Họ là những người đại diện cho văn hoá, trí tuệ, bản lĩnh và tình cảm của nhân dân Việt Nam, góp phần nâng cao uy tính, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế nên cần được đào tạo vững về chính trị, có trình độ ngoại ngữ, nghiệp vụ cao, phẩm chất tốt.
Quan tâm bồi dưỡng đội ngũ này về đường lối của Đảng và Nhà nước, giáo dục lòng tự tôn dân tộc, trung thành với quốc gia, với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
3. Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về đối ngoại với sự tham gia và phát huy trí tuệ của cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học.
Hiện nay thế giới biến đổi nhanh chóng, khoa học công nghệ diễn ra như vũ bão; các hoạt động hợp tác quốc tế của Việt Nam diễn ra trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học. . . ngày càng đẩy mạnh, đặt ra những nội dung, hình thức, phương pháp mới.
Để chủ động công tác đối ngoại phục vụ đất nước trong giai đoạn hiện nay cần tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về các lĩnh vực đối ngoại
4. Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với hoạt động đối ngoại.
Phối hợp chặt chẽ ngoại giao Nhà nước, hoạt động đối ngoại của Đảng và đối ngoại nhân dân, phát huy tối đa sức mạnh nội lực, tạo ra sự phong phú, đa dạng và sức mạnh tổng hợp của nhiều tổ chức trong công tác đối ngoại. Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, quan hệ ngoại giao với các cấp bộ Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ qua ngày càng phát triển sôi động.
Hoàn thiện cơ chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại. Cơ chế đó là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý thống nhất, các cấp, các ngành và mọi lực lượng đối ngoại cần phát huy dân chủ, tích cực, chủ động, sángtạo
Đường lối đối ngoại của Đảng xây dựng và phát triển trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa truyền thống Việt Nam, phù hợp thực tiễn Việt Nam và xu thế thời đại.
Bài 18
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM- ĐỘI TIÊN PHONG CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN, ĐỒNG THỜI LÀ ĐỘI TIÊN PHONG CỦA NHÂN DÂN LAO ĐỘNG VÀ CẢ DÂN TỘC VIỆT NAM; ĐẠI BIỂU TRUNG THÀNH LỢI ÍCH CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN CỦA NHÂN DÂN LAO ĐỘNG VÀ CẢ DÂN TỘC.
I. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÀ TẤT YẾU CỦA LỊCH SỬ, LÀ BƯỚC NGOẶT VĨ ĐẠI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM.
1. Sự khủng hoảng về đường lối cứu nước trước khi Đảng ra đời
Từ 1858 thực dân Pháp xâm lược Việt nam. Nhân dân ta rơi vào thân phận nô lệ , mất độc lập, tự do. Việt Nam từng bước chuyển từ xã hội phong kiến độc lập sang nước thuộc địa, nữa phong kiến. Xã hội có sự phân hoá giai cấp sâu sắc:
+ Giữa thế kỷ XIX chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng và suy yếu nghiêm trọng. Giai cấp địa chủ phong kiến từng bước đầu hàng và làm tay sai cho đế quốc xâm lược. Chúng cấu kết với bạn đế quốc thực dân để áp bức, bóc lột nhân dân, tước đoạt ruộng đất của nhân dân.
+ Giai cấp nông dân Việt Nam ra đời từ lâu đời, là lực lượng đa số trong dân cư, họ bị đế quốc phong kiến bóc lột nặng nề. Họ vừa là người dân mất nước, vừa bị chiếm đoạt ruộng đất nên rất kiên quyết chống đế quốc phong kiến. Nhưng họ không thể lãnh đạo cách mạng vì họ không đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến và không có hệ tư tưởng độc lập.
Tầng lớp tiểu tư sản bao gồm tiểu thương, tiểu chủ, công chức trí thức, học sinh. . . cũng bị bọn thực dân và phong kiến chèn ép, bóc lột. Họ có tinh thần yêu nước và dân chủ, giữ vai trò tích cực trong truyền bá tư tưởng tiến bộ vào các tầng lớp nhân dân. Đây là lực lượng nhạy bén về chính trị nhưng khi gặp khó khăn thường lay động.
Giai cấp tư sản Việt Nam sinh ra từ chính sách khai thác thuộc địa của thực dân pháp. Trên thực tế, giai cấp tư sản Việt Nam ít về số lượng, nhỏ bé về kinh tế và non yếu về chính trị lại bị thực dân pháp thâu tóm quyền lợi kinh tế nên họ không có những điều kiện khách quan để trở thành lực lượng độc lập cả về kinh tế lẫn chính trị. Họ có hai bộ phận tư bản mại bản gắn với đế quốc, tư bản dân tộc. Tư bản dân tộc bị tư bản mại bản, tư sản nước ngoài chèn ép. Mặt khác họ cũng làm giàu bằng cách bóc lột người lao động. Do vậy, giai cấp tư sản Việt Nam mang tính hai mặt. Một mặt vì mâu thuẫn với đế quốc nên có khuynh hướng dân tộc dân chủ; mặt khác họ cũng sợ cách mạng phát triển nên thường giao động về chính trị. Bản chất tư tưởng của họ là cải lương, sẵn sàng thảo hiệp với thực dân, phong kiến.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong quá trình khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp (1897 - 1914 ) . Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất( 1914 - 1918 ) , giai cấp công nhân Việt Nam phát triển với tốc độ nhanh. Trong xã hội thuộc địa nữa phong kiến, bị ba tầng áp bức, bóc lột nên họ rất nghèo khổ. Vốn giàu lòng yêu nước có tinh thần dân tộc cao nên họ có tinh thần cách mạng triệt để. Mặc dù ra đời muộn nhưng giai cấp công nhân Việt nam có đầy đủ những đặc điểm tiến bộ của giai cấp công nhân quốc tế: giai cấp tiên tiến, cách mạng triệt để nhất, có tổ chức kỷ luật cao nhất, có tinh thần quốc tế. Ngoài ra họ có liên minh tự nhiên với giai cấp nông dân, giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng chủ lực của cách mạng và là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
* Dưới chế độ thực dân nữa phong kiến, xã hội Việt Nam tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam, chủ yếu là nông dân với địa chủ phong kiến. Hai mâu thuẫn đó có liên quan chặt chẽ với nhau nên việc giải quyết chúng trong quan hệ khăng khít.. Giải quyết mâu thuẫn thứ nhất là đánh đổ thực dân Pháp, giải quyết mâu thuẫn thứ hai là đánh đổ địa chủ, phong kiến. Giải quyết đồng thời cả hai mâu thuẫn mới thực sự đem lại độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho nông dân.
Không chịu khuất phục ngay từ đầu bị xâm lược nhân dân Việt Nam từ Nam ra Bắc liên tục đứng lên khởi nghĩa chống thực dân Pháp dưới ngọn cờ của các sỹ phu yêu nước. Sự thất bại của phong trào Cần vương ( 1897 ) đã chấm dứt vai trò cứu nước theo đường lối phong kiến.
Nhưng năm đầu thế kỷ XX phong trào đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ tư sản phát triển tiêu biểu là:
+. Phong trào Đông du (1906-1908) do Phan Bội Châu lãnh đạo, đưa thanh niên Việt Nam du học, dựa vào Nhật để chống Pháp cách tân đất nước.
+ Phong trào Đông kinh nghĩa thục (1907) do Lương Văn Can lãnh đạo tuyên truyền, đã phá thực dân, cải cách văn hoá.. .,
+ Phong trào Duy tân (1906-1908) do Phan Châu Trinh và Trần Quý Cáp khởi xướng, phê phán xã hội phong kiến đề xướng cải cách cách mạng văn hoá, trong khuôn khổ thống trị của thực dân Pháp với khẩu hiệu : “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” cổ vũ lập hội,, dùng nôị hoá, mở trường học
+Việt Nam Quốc dân đảng 12-1927 do Tấn tài, Nguyễn Thái Học lãnh đạo nhưng cuối cùng tất cả đều thất bại.
Tóm lại, các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở Viêt Nam tuy thất bại nhưng đã để lại một ý nghĩa to lớn. Những thất bại đó đã chứng tỏ sự khủng hoảng và bế tắc đường lối cứu nước ở nước ta. Cách mạng việt Nam bức thiết đòi hỏi lực lượng lãnh đạo tiên tiến, với con đường đúng đắn để đưa cách mạng tới thành công.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời, phát triển và trưởng thành đã mang đầy đủ các đặc điểm của giai cấp công nhân hiện đại, là lực lượng chính trị độc lập nên có đầy đủ khả năng lãnh đạo toàn dân hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.
2. Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng Sản Việt Nam.
a. Nguyễn Ai Quốc tìm đường cứu nước- và sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngày 05- 6-1911, Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước. Người đã qua nhiều nơi vừa kiếm sống, vừa hoạt động trong phong trào nhân dân lao động các nước Châu phi, Châu Âu, Châu Mỹ.. .Người sớm kết luận; bất kỳ ở đâu dù màu da, tiếng nói khác nhau nhưng đều chỉ có hai hạng người kẻ bóc lột và người bị bóc lột. Người đi tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn như cách mạng Mỹ, Pháp Người rút ra kết luận các cuộc cách mạng đó đều không triệt để. Giữa năm 1917 cách mạng tháng 10 Nga thắng lợi và Người hướng theo cuộc cách mạng đó.
Năm 1919 Người gửi đến các nước đế quốc thắng trận sau chiến tranh thế giới họp ở Vecxay (Pháp) bản “yêu sách của nhân dân An nam”, yêu cầu thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của nhân dân Đông Dương nhưng không được thực dân pháp thừa nhận.
Tháng 7- 1920, Người đọc “ Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của LêNin. Tại Đại hội Tua Pháp 12-1920, Nguyễn Ai Quốc tán thành đi theo quốc tế cộng sản tham gia sán lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Trong những năm 1921-1923 Người đã tham gia các Đại hội II, III của Đảng Cộng sản Pháp, cùng những người cách mạng lập ra hiệp hội thuộc địa, ra báó “ người cùng khổ “, Nhân đạo, đời sống công nhân. . .Tố cáo tội ác thực dân Pháp.Tác phẩm quan trọng nhất “ bản án chế độ thực dân Pháp” ( 1925) , Người đã tập trung phân tích bản chất bóc lột và phản động của thực dân Pháp.
Tháng 6- 1923, Nguyễn Ai Quốc sang Liên Xô làm việc ở ban Phương Đông của quốc tế cộng sản. Cuối 1924 Người về Quảng Châu, Trung Quốc hoạt động phối hợp với các nhà tiến bộ lập ra “Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông” .
Giữa 1925 Người sáng lập ra “ Hội Việt Nam thanh niên cách mạng”, cơ quan tuyên truyền của hội là tờ báoThanh niên làm cơ quan ngôn luận truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam.
Từ năm 1925 trở đi, đặc biệt từ 1928- 1929, phong trào công nhân Việt Nam phát triển và đã mang tính chất thống nhất trong cả nước. Các tổ chức công hội xuất hiện, lôi cuốn công nhân tham gia ngày càng đông. Trình độ giác ngộ của giai cấp công nhân ngày càng cao.Họ đã trở thành lực lượng chính trị độc lập và đòi hỏi sớm có bộ tham mưu lãnh đạo.
Sự phát triển rộng khắp của Hội Việt Nam thanh niên dẫn tới sự ra đời của ba tổ chức cộng sản đầu tiên. Ngày 17-6-1929 Đông dương cộng sản Đảng thành lập.Tháng 8-1929, An Nam cộng sản Đảng ra đời,Tháng 9-1929, Đông Dương cộng sản liên đoàn ra đời. Trong một năm ra đời liên tục ba tổ chức, hoạt động riêng dẫn đến nguy cơ chia rẽ. Yêu cầu khách quan bức thiết của cách mạng Việt Nam lúc này là sớm phải có một Đảng Cộng sản thống nhất. Điều kiện thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam đã chín muồi.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, là kết quả chuẩn bị chu đáo của Nguyễn Ai Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng kéo dài về đường lối cứu nước của dân tộc ta, đưa cách mạng Việt nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, mở đường cho sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
b. Chủ tịch Hồ Chí Minh- người rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam
Dù qua nhiều tên gọi khác nhau ( 3-2-1930 là Đảng Cộng sản Việt Nam, 10-1930 là đảng Cộng sản Đông Dương, Đại hội II 2-1951 là Đảng Lao động Việt Nam, Đại hội IV 1976 đến nay là Đảng Cộng sản Việt nam nhưng bản chất của Đảng không hề thay đổi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường giáo dục đảng viên phải thực sự gắn bó máu thịt với giai cấp, với nhân dân. Để được nhân dân coi Đảng như “ Đảng của chúng ta”, đảng “ lấy dân làm gốc” , phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân. Đối với đảng cầm quyền như Đảng ta, người thường nhấn mạnh Đảng cầm quyền nhưng thực sự dân chủ. Mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
Người thường nói để Đảng thường xuyên trong sạch, vững mạnh, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, Đảng phải luôn luôn tự chỉnh đốn, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những phần tử thoái hoá, biến chất, quan liêu, thiếu trách nhiệm. . . Người rất chú trọng quan tâm đến rèn luyện tư cách cán bộ, xem đạo đức là gốc của cách mạng.
Trong di chúc Người dặn: “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy nhất định cũng sẽ thắng lợi.
Với tầm nhìn chiến lược, Người căn dặn Đảng luôn chú ý đến việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên ,đào tạo họ thành người kế thừa chủ nghĩa xã hội vừa “ Hồng” vừa “ Chuyên”.
II. VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.Đảng cộng sản việt nam đội tiên phong của giai cấp công nhân việt nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc
Ngay từ khí mới ra đời, giai cấp công nhân đã đấu tranh chống lại sự áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản. Sự kết hợp của chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân đã dẫn đến sự ra đời chính đảng của giai cấp công nhân.
Đảng cộng sản Việt nam ra đời là một tất yếu của lịch sử, phản ánh xu thế khách quan của thời đại và điều kiện chín muồi của cách mạng Việt nam. Đảng là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác- Lênin, phong trào công nhân, phong trào yêu nước.
Đảng Công sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập đã phát huy truyền thống dân tộc, tinh hoa nhân loại, nắm vững quy luật phát triển xã hội, phân tích thực tiễn đất nước, đề ra đường lối đúng đắn, phù hợp nguyện vọng nhân dân.
Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước vơi chủ nghĩac quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đảng cộng sản Việt Nam được xây dựng mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng.
Trong khó khan gian khổ, Đảng vẫn vững vàng, kiên định, không xa rời mục tiêu lý tưởng, giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, không run sợ trước kẻ thù, tự khắc phục hoàn thiện mình.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam là người đại diện trung thành lợi ích của giai cấp công nhân , của nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Trong cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng ta chỉ rõ mục tiêu và con đường của cách mạng Việt nam là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiên lên chên chủ nghĩa xã hội. Mục đích đó biểu hiện tâp trung cao nhất nguỵên vọng của giai cấp công nhân,nhân dân lao động và cả dân tộc, là nguồn gốc động lực dẫn đến sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt nam là đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng.
Đảng lãnh đạo, xây dựng và phát huy vai trò của Nhà nước để Nhà nước thực sự là công cụ chủ yếu thực hiện quyền làm chủ nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là: đề ra đường lối, chủ trương, chính sách lớn đề phát triển đất nước; Lãnh đạo Nhà nước thể chế hoá đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và hiến pháp, pháp luật. . .
3. Đảng Cộng sản Việt nam đã lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giành những thắng lợi vĩ đại, tạo ra những bước phát triển mới cho lịch sử dân tộc.
Đảng lãnh đạo cách mạng vượt qua nhiều thử thách đi đến thắng lợi:
Kể từ khi ra đời, qua 15 năm, Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành thắng lợi vẻ vang trong cách mạng tháng 8 –1945 , lập nên nước VNDCCH, mở ra một kỷ nguyên mới, độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của cuộc cách mạng chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945-1954), xoá bỏ chế độ thực dân, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đưa nước ta bước vào kỷ nguyên hoà bình, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới(1986) làm thay đổi bộ mặt đất nước, nâng cao vị thế nước ta, cũng cố vững chắc chủ nghĩa xã hội.
Những thành tựu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt nam. Ngày nay Đảng tiếp tục giữ vững vai trò lãnh đạo, phát huy bản lĩnh chính trị, năng lực kinh nghiệm để lãnh đạo đất nước trong thời kỳ mới.
III. ĐỔI MỚI, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG, NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG.
1. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là yêu cầu khách quan, bực thiết hiện nay.
Xây dựng Đảng là toàn bộ các hạot động chính trị, tư tưởng và tổ chức để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Chỉnh đốn Đảng là phê bình, tự phê bình, sửa chữa những sai lầm khuyết điểm, làm cho Đảng trong sạch vững mạnh.
Trong thời kỳ vừa qua công tác xây dựng Đảng đạt được một số thành tựu tích cực trên một số mặt. Tuy nhiên công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống. . . trong một số bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng; nhiều tổ chức cơ sở thiếu sức chiến đấu; công tác tư tưởng còn thiếu thuyết phục; công tác lý luận chưa sáng tỏ. . .
Hiện nay các thế lực thù địch đang tìm cách chống phá cách mạng, hòng xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, các phần tử thoái hoá, biến chất công khai hoặc bí mật chống đối. Nạn tham những hoành hành. . .
Cách mạng nước ta đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn.
Để làm tròn nhiệm vụ dội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam và thực hiện di chúc Hồ Chí Minh, Đảng cần tiếp tục vận động đổi mới chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ cách mạng.
2. Phương hướng chủ yếu của đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
Nghị quyết Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: “ Trong những năm tới, phải giành nhiều công sức tạo được sự chuyển biến rõ rệt về xây dựng Đảng, phát huy truyền thống cách mạng, bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đầy đủ đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực”.
Phương hướng đổi mới chỉnh đốn Đảng:
a. Nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng.
Kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vận dung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào trong hoạt động của Đảng.
Nâng cao trình độ trí tuệ, chất lượng nghiên cứu lý luận của Đảng; tiếp tục làm rõ những vấn đề chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; làm rõ lý luận và thực tiễn đường lối chính sách của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
Cũng cố nâng cao chất lượng các cơ quan chuyên ngành về công tác tư tưởng, lý luận, nhất là cán bộ chủ chốt.
b. Kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
Kiện toàn hệ thống tổ chức cơ sở Đảng. Xác định vị thế pháp lý, thể chế hoá về mặt nhà nước vai trò chức năng nhiệm vụ của các loại hình cơ sở. Chú trọng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong các doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. . .
Xây dựng đội ngũ đảng viên thực sự tiên phong, gương mẫu, có phẩm chất đạo đực cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ; kiên định lập trường giai cấp công nhân, phấn đấu mục tiêu lý tưởng của Đảng
Đảng chủ trương cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân nhưng phải gương mẫu chấp hành pháp luật,chính sách nhà nước.
Phân công đảng viên đúng người đứng việc, tạo điều kiện để đảng viên hoàn thành nhiệm vụ. Thường xuyên phê và tự phê trong Đảng.
Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên gắn với việc nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng. Đẩy mạnh và bảo đảm chất lượng công tác phát triển Đảng. Trẻ hoá nâng cao trình độ đảng viên.
c. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; tăng cường quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.
Phát huy dân chủ đo đôi vơi giữ gìn kỷ luật trong Đảng.
Lãnh đạo phải biết lắng nghe ý kiến của cấp dưới, của đảng viên và nhân dân.
Hoàn thiện quy chế bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của tập thể đối với cá nhân, của tổ chức đối với tổ chức, của cá nhân đối với cá nhân, kể cả đơi với người lãnh đạo chủ chốt và tổ chức cấp trên.
Xây dựng quy chế giám sát phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc, các tổ chức chính trị- xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đuờng lối , chủ trương, chính sách của Đảng
d./ Đổi mới tổ chức bộ máy và công tác cán bộ.
Đảng chủ trương sắp xếp đổi mới tổ chức bảo đảm tinh gọn, hoạt động thiết thực, hiệu quả của các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng uỷ khối ở trung ương và các địa phương gắn với kiện toàn tổ chức, bộ máy của cơ quan nhà nước, mặt trận và các đoàn thể nhân dân
Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có cơ cấu hợp lý, chất lượng tốt, xây dựng đội ngũ lãnh đạo kế cận vững vàng.
Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, bảo đảm thực sự dân chủ, khoa học, công minh.
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý công tác cán bộ trong hệ thống chính trị thực hiện luân chuyển cán bộ, khắc phục tình trạng khép kín, cục bộ về cán bộ.
e. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết; lãnh đạo thể chế hoá, cụ thể hoá thành hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình công tác lớn của Nhà nước
Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải đồng bộ với đổi mới tổ chức và hạot động của hệ thống chính trị, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
Bài 19
NHỮNG THẮNG LỢI TO LỚN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM DO ĐẢNG CỘNG SẢN LÃNH ĐẠO
I NHỮNG THẮNG LỢI TO LỚN CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Cách mạng tháng tám đã dành chính quyền về tay nhân dân trên cả nước.
Sự ra đời của đảng ( 3-2-1930) là một bước ngoặt vĩ đại của lịch sử dân tộc ta trên con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.Khi Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng theo con đường của chủ nghĩa Mác – Lênin, lúc này cách mạng mới có con đường đúng đắn. Từ đó nhân dân ta một lòng theo Đảng, không chấp nhận một tổ chức chính trị nào khác.
Đảng mới ra đời đã phát động ngay cao trào cách mạng trong cả nước mà lực lượng nổi dậy chủ yếu là công nhân, nông dân. Trong những năm 1930-1931 đã nổ ra nhiều cuộc bãi công, biểu tình mà đỉnh cao là ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tỉnh. Nhưng một thời gian không lâu giành được chính quyền, thực dân Pháp đã ném bom vào cuộc biểu tình của nông dân huyện Hưng Nguyên đang trên đường kéo về Vinh, làm chết 217 người, phong trào nông dân Nghệ tĩnh ngày càng lên cao làm tê liệt chính quyền ở một số huyện và tan rã chính quyền ở nhiều xã thôn.
Từ tháng 9/1930 đến đầu 1931, dưới sự lãnh đạo của đảng bộ địa phương, nhiều ban chấp hành nông hội được thành lập và quản lý công việc của thôn, xã như bộ máy chính quyền. Thực dân Pháp tập trung lực lượng điên cuồng khủng bố dìm tronmg biển máu.
Tuy bị thất bại nặng nề, nhưng cao trào cách mạng 30- 31 là cuộc tổng diễn tập đầu tiên cho cách mạng tháng tám sau này.
Những năm 1932-1935, cuộc đấu tranh diễn ra dưới hình thức ác liệt mới để khắc phục phong trào. Cuộc khủng bố trắng của kẻ thù đã làm cho tổ chức Đảng từ trung ương đến cơ sở bị tổn thất nghiêm trọng, nhiều nơi bị tan rã, nhiều cán bộ lãnh đạo, đảng viên bị giết hoặc tù đày. Nhân dân sống trong không khí ngột ngạt dưới sự đàn áp tàn bạo của thực dân Pháp. Những người cộng sản dù ở trong tù hay những người hoạt động bí mật, dù mất liên lạc với tổ chức đều phát huy tinh thần chiến đấu, đương đầu với mọi hình thức tra tấn, mua chuộc hoặc truy lùng của kẻ thù để khôi phục lại tổ chức Đảng.Mặt khác, những đảng viên còn biết sử dung những hình thức đấu tranh phù hợp hơn,đòi quyền lợi hàng ngày để khôi phục lại phong trào của quần chúng.
Chỉ trong một thời gian ngắn, Đảng đã khôi phục được hệ thống tổ chức và tiến hành Đại hội lần thứ nhất tại Ma cao tháng 5/ 1935. Phong trào quần chúng được hồi phục dưới nhiều hình thức đấu tranh, chủ yếu là đấu tranh bí mật với đấu tranh công khai, hợp pháp. Vượt qua khủng bố trắng ác liệt của kẻ thù để khôi phục phong trào là một chiến công to lain của cách mạng Việt Nam.
Khôi phục phong trào là sự chuẩn bị tất yếu cho cao trào dân chủ thời kỳ 1936-1939. Khi có nghị quyết Đại hội VII của quốc tế cộng sản và chính phủ của Mặt Trận Bình dân Pháp ban bố chính sách mở rộng tự do dân chủ ở thuộc địa, Đảng Cộng sản Đông dương liền đưa ra khẩu hiệu hoà bình, dân sinh, dân chủ để đòi lợi ích trước mắt của quần chúng. Đây là thời kỳ Đảng tập hợp và giáo dục đông đảo quần chúng theo con đường cách mạng, đồng thời ảnh hưởng của Đảng càng sâu rộng nhanh chóng trong nhân dân, kẻ thù không thể nào xoá bỏ được. Cao trào cách mạng năm 1936-1939 là cuộc tổng diễn tập thứ 2 cho cách mạng tháng tám sau này.
Từ 1939- 1945, việc nêu cao khẩu hiệu độc lập dân tộc, coi giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu ruộng đất, việc thành lập Mặt trận phản đế Đông dương sau đó thay thế bằng Mặt trận Việt Minh, việc xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, sử dụng hình thức đấu tranh chính trị và từng bước đấu tranh vũ trang, kết hợp chúng với nhau là điều kiện cơ bản để Đảng động viên rộng rãi nhất các lực lượng, các cá nhân yêu nước, đồng thời thúc đẩy thời cơ và chớp thời cơ giành thắng lợi quyết định.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp gần một thế kỷ, lật nhào chế độ quân chủ chuyên chế mấy nghìn năm, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Thắng lợi của cách mạng tháng tám mở đầu kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng thế giới, một Đảng Cộng sản mới 15 tuổi đã lãnh đạo nhân dân giành chính quyền thắng lợi từ tay một đế quốc hung hãn.
2. Giữu vững chính quyền cách mạng, đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp (1945- 1954)
Giành được chính quyền hơn một tuần lễ, đất nước rơi vào hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”. Ngoại xâm và nội phản đang trực tiếp uy hiếp nghiêm trọng nền độc lập non trẻ trên khắp đất nước ta, trong lúc đó chính quyền cách mạng chưa được cũng cố, nhân dân chưa thoát nạn đói khủng khiếp, nền kinh tế- tài chính coin tiêu điều, đa số nhân dân mù chữ. Trước nguy cơ sống còn đó, chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rõ ba nhiệm vụ lớn lúc này là chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm.
Thường vụ trung ương Đảng ra chỉ thị “ kháng chiến kiến quốc” Đảng ta đề ra giải pháp trước mắt: Tăng gia sản xuất, “ hủ gạo tiết kiệm” để cứu đói, mở các lớp bình dân học vụ khắp nơi để xoá nạn mù chữ, phát động tuần lễ vàng khắc phục khó khăn tài chính, tổ chức tổng tuyển cử để bầu Quốc hội, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, lập chính phủ liên hợp, xây dựng lực lượng vũ trang . . . Nhờ đó, chính quyền được cuing cố, tinh thần đoàn kết xây dựng và đấu tranh của nhân dân sôi nổi khắp nơi. Đồng thời Đảng chủ trương hoà hoãn với quân Tưởng ở Miền Bắc để chống quân Pháp ở Miến Nam. Nhưng khi biết chúng cấu kết với nhau để chuyển giao Miền Bắc cho quân Pháp, Đảng ta liền chủ trương hoà hoãn với Pháp để đuổi Tưởng về nước. Do đó, tạm ước 6.3 được ký kết giữa ta và Pháp.
19/12/1946, thực dân Pháp đưa tối hậu thư buộc chúng ta phải đầu hàng, đồng thời nổ súng khiêu khích ở Hà Nội và nhiều nơi khác. Tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải chọn con đường chiến đấu: Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Làm thế nào để kháng chiến là câu hỏi găy gắt nhất đối với toàn Đảng toàn dân ta. Đường lối chiến đấu của ta là: “ toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh. Đây là yếu tố quan trọng nhất hướng nhân dân tập trung sức mạnh vào cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược. Đó là đường lối kháng chiến vừa xây dựng lực lượng vừa kiến quốc. Nhờ đó, quân và dân ta đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa quyết định. Chiến thắng Việt Bắc (1947), đập tan chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của địch. Chiến thắng biên giới (1950) làm cho kẻ thù không thể dễ thắng được nhân dân Việt nam. Mặc dù đế quốc Mỹ can thiệp nhiều hơn, nhưng nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã anh dũng chiến đấu, đánh tan các chiến lược quân sự của đế quốc Pháp, đưa tới chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) buộc chúng phải ký hiệp định Giơnevơ, rút quân không điều kiện khỏi Miền Bắc.
Như vậy, chín năm kháng chiến, chúng ta đã giải phóng được một nữa tổ quốc. Miền Bắc được độc lập tự do, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cơ bản hàon thành chuyển sang thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi đó mở đầu sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa kiểu cũ trên phạm vi thế giới , thắng lợi đó chứng tỏ một chân lý: trong thời đại ngày nay, một dân tộc dù nhỏ, nhưng biết đoàn kết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của đảng Mác – Lênin chân chính thì có thể chiến thằng mọi kẻ thù xâm lược. Thắng lợi đã đạt được là to lớn, có tầm vóc thời đại, đưa cách mạng Việt Nam chuyển sang bước ngoặt lớn của thời đại.
3. Kết hợp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Niền Nam, tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành thắng lợi hoàn toàn.
Đảng ta sau mấy năm tìm tòi, nghiên cứu đã từng bước đi đến khẳng định đường lối chung cách mạng cả nước ở đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng ( 9- 1960) : phải tiến hành hai cuộc cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam. Hai cuộc cách mạng này có quan hệ khăng khít với nhau và phải tiến hành đồng thời nhằm giải quyết một mục tiêu chung là giải phóng Miền Nam hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Khí đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ ở Miền Nam gây chiến tranh phá hoại Miền Bắc, đường lối đó được Đảng bổ sung thêm: chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu của nhân dân Việt nam.
Dưới ánh sáng của đường lối chung cách mạng cả nước, nhân dân Miền Bắc tiến hành khôi phục kinh tế và phát triển văn háo sau chiến tranh. Nhưng đến năm 1965 vừa phải chiến đấu vừa phải xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa dốc sức chi viện cho Miền Nam và thực hiện nghĩa vụ đối với Lào, Căm pu chia.
Xã hội Miền Bắc thực chất chỉ xây dựng trong 10 năm (1954- 1965). Nhưng Miền Bắc đã thay đổi toàn diện về chất so với trước giải phóng. Các thành tựu: kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục, an ninh quốc phòng. . . đã làm cho Miền Băc tiến lên một bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc, đất nước, xã hội, con người đều đổi mới./
Ở Miền Nam, cách mạng cũng từng bước phát triển, liên tục tấn công địch, quân và dân Miền Nam kiên cường, bất khuất, tiến hành Đồng khởi thắng lợi và lần lượt đánh thắng chiến lược chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ,việt nam hoá chiến tranh của đế quốc mỹ và tay sau. Cuộc tổng tiến công nổi dậy mùa xuân năm 1975 toàn thắng, kết thúc chiến tranh dài ngày nhất, ác liệt nhất trong lịch sử dân tộc.
Thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã quét sạch bọn xâm lược ra khỏi đất nước, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tổ quốc ta hoàn toàn độc lập, thống nhất và bắt đầu kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi này còn mở đầu sự sụp đổ không thể tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân mới, góp phần bảo vệ hoà bình thế giới, tăng cường lực lượng của chủ nghĩa xã hội, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và tiến bộ xã hội.
4 Cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã ho9ọi. Hao mươi năm đổi mới đạt được thành tự to lớn.
Chiến tranh kết thúc nươc ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh những thuận lợi nước ta chồng chất những khó khăn: nghèo nàn, bị chiến tranh tàn phá, kẻ thù tìm cách phá hoại . . .
Mặc dù đường lối cơ bản được xác định đúng đắn nhưng Đảng vẫn vấp phải những sai lầm trong xác định chủ trương chính sách lớn, chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.Nguyên nhân là chủ quan, duy ý chí,giáo điều, lạc hậu về nhận thưc lý luận, chậm đổi mới công tác cán bộ. . .
Hậu quả là cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội kéo dài 10 năm. Nền kinh tế mất cân đối, đời sống cán bộ nhân dân thiếu thốn, tiêu cực phát triển.. . đất nước rơi vào tình trạng đáng lo ngại.
Điều có ý nghĩa quyết định là Đảng ta đã nhận thức được sai lầm, khuyết điểm của mình, tự phê bình và quyết tâm sữa chữa, trước hết là đổi mới tư duy.
Đại hội VI của Đảng với đường lối đổi mới đúng đắn được coi là cột móc đánh dấu bước ngoặt xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đường lối đổi mới nhấn mạnh: nhiệm vụ trung tâm là đổi mới về kinh tế, từ nền kinh tế bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ then chốt là xây dựng chỉnh đốn Đảng.
Sau 20 năm đổi mới (1986-2006), đại hội X đã đánh giá những thành tựu sau:
Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện.
Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh
Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt
Hệ thống chính trị và khối đoàn kết toàn dân được cũng cố và tăng cường
Chính trị- xã hội ổn định
Quốc phòng an ninh được giữ vững
Vị thế nước ta trên trường quốc tế được nâng cao
Sức mạnh tổng hợp cảu quốc gia tăng rất nhiều so với trước
Thành tự đó có ý nghĩa lịch sử:
Thứ nhất, Chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn.
Thứ hai, Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn
Thứ ba,từ thực tiễn đổi mới, Đảng và nhà nước ta tích luỹ thêm nhiều kinh nghiệm về lãnh đạo và quản lý, rút ra những bài học lớn.
II. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM LỊCH SỬ
1. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chủ đạo để xác định đúng đắn một loạt vấn đề chiến lược và phương pháp cách mạng. Nó vừa là động lực vừa là mục tiêu của cách mạng.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội chính là sự kết hợp vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp của giai cấp công nhân để tạo nên nguồn sức mạnh chiến thắng kẻ thù.
Kết hợp độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội là tồn tại khách quan
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật tổng hợp và phổ biến. Nó thể hiện trên tất cả vấn đề chiến lược và phương pháp cách mạng, trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị, tổ chưc, đạo đức lối sống
Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, ngay khi mới tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ tư tưởng chủ đạo của cách mạng Việt Nam là kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
NHững thành tự 20 năm đổi mới cho thấy rằng độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội là đúng đắn phù hợp với quy luật khách quan.
2. Cách mạng là sự ngiệp của quần chúng nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Không ai có thể tạo ra cách mạng khi nhân dân không yêu cầu, không ai có thể ép buộc nhân dân làm cách mạng. Do không chịu được nỗi nhục mất nước , nên cả dân tộc đứng lên chống xâm lược. Do không chịu nổi nghèo nàn bất công nên toàn dân thấy phải làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, phải đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng là sự nghiệp do dân làm lấy. Sức mạnh quyết định của cách mạng là ở dân.Khi toàn dân đứng dậy thì không có lực lượng phản động nào ngăn cản được.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa đều do dân làm. Nhân dân quyết định tất cả. Nhân dân không tham gia thì không thể thành công.
- Cách mạng còn là sự nghiệp vì dân. Mục tiêu trước mắt và lâu dài của cách mạng đều vì lợi ích của dân.Không vì lợi ích nhân dân cách mạng sẽ mất tính chất chính nghĩa và nhân văn. Ngoài lợi ích nhân dân cách mạng không vì lợi ích nào khác.
- Cách mạng từ nhân dân mà ra, do nhân dân làm lấy vì lợi ích của nhân dân là ba vấn đề thống nhất với nhau tác động tạo nên sức mạnh tổng hợp.
- Đường lối đổi mới bắt nguồn từ nhân dân. Nhân dân không những đòi hỏi đổi mới mà còn tạo tiền đề cho đường lối đổi mới ra đời, phương châm hạot động của Đảng đều “ lấy dân làm gốc” , khẩi hiệu “ dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
- Đảng ta luôn đứng vững trên lập trường công nhân để xem xét và giải quyết quan điểm quần chúng trong cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, cần khắc phục tư tưởng theo đuôi quần chúng, hoặc coi thường quần chúng.
3. Không ngừng cũng cố và tăng cường khối đại đoàn kết; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Đoàn kết là bài học kinh nghiệm của lịch sử dân tộc và lịch sử cách mạng Việt Nam , chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết:
“ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
Đoàn kết có nhiều cấp độ khác nhau: Đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết nào cũng xây dựng theo nguyên tắc nhất định.
Nhờ giải quyết tốt một loạt vấn đề đó nên Đảng ta đã giữ vững đoàn kết nội bộ lành mạnh, trong sáng. Để thực hiện đoàn kết dân tộc, trước hết Đảng phải chứng minh đường lối đúng đắn của mình, nêu rõ nhiệm vụ cách mạng đều đáp ứng nguyện vọng cơ bản của nhân dân, phù hợp với quy luật khách quan
Đoàn kết dân tộc còn là cơ sở để đoàn kết quốc tê, đối với quốc tế trước hết cần đoàn kết với các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với các lực lượng cách mạng tiến bộ trên thế giới.
Đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế tác động tích cực lẫn nhau để thực hiện kết hợp sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại tạo nên một sức mạnh tổng hợp của cách mạng Việt Nam.
4. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam do nhiều nhân tố tạo nên. Nhưng nhân tố hàng đầu là có sự lãnh đạo của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam là bộ tham mưu, là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Vai trò lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở việc Đảng đề ra đường lối chính sách đúng, biết tập hợp, tổ chức, động viên lực lượng cách mạng, biết sử dụng những hình thức và phương pháp đấu tranh phong phú, linh hoạt để thực hiện đường lối thành công.
Sau khi giành được chính quyền, Đảng có thêm sức mạnh của chính quyền để tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cáhc mạng xã hội chủ nghĩa.
Muốn trở thành nhân tố quyết định của thắng lợi, trước hết Đảng phải luôn vững mạnh, trưởng thành và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cách mạng. Đảng ta luôn giáo dục và rèn luyện đảng viên về đạo đức và lối sống, thường xuyên nhấn mạnh tự phê bình và phê bình, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, kỷ luật nghiêm minh trong Đảng nên luôn luôn vững mạnh.
Xây dựng đảng trong sạch vững mạnh là quá trình khó khăn gian khổ nhưng kiên trì thực hiện những nguyên tắc xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng sẽ trưởng thành theo yêu cầu của lịch sử.
Ngày nay, Đảng vẫn là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, đảm bảo thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt hiện nay của công tác xây dựng Đảng cũng nhằm mục đích nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ngang tầm nhiệm vụ mới.
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng là một cuộc đấu tranh khắc phục những quan điểm sai lầm hay đối lập, nhất là khắc phục những biểu hiện suy thoái về đạo đức và lối sống của đảng viên để cũng cố và nâng cao lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
Yêu cầu mới của cách mạng, đòi hỏi Đảng phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu mới, thực hiện được sứ mệnh lích sử của mình, xứng đáng là nhân tố quyết định bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng Việt nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ct_90_t_ph_1_5462.doc