Vào đầu vụ rau 1, nhiệt độ không thuận lợi, trời
rét hạn chế tỉ lệ nở của trứng, đồng thời giai đoạn
này ruộng rau mới trồng, thức ăn hạn chế nên mật
độ sâu thấp. Sau 20 ngày, cây rau phát triển thân lá
hoàn chỉnh chuẩn bị thu hoạch, nguồn thức ăn dồi
dào nên mật độ sâu đạt cao nhất. Sau đó người dân
có sử dụng thuốc hóa học phun làm giảm mật độ. Vụ
thứ 2, điều kiện thời tiết rất thuận lợi, nắng ấm liên
tục vì vậy cây trồng phát triển tốt đồng thời sâu xanh
bướm trắng có cơ hội bành trướng về số lượng. Do
trồng tập trung với diện tích lớn nên sâu xanh bướm
trắng tích lũy từ vụ trước và các vùng lân cận di trú
sang làm mật độ tăng đột biến. Vụ thứ 3, người dân
chủ động hơn về biện pháp phòng trừ, đồng thời tập
đoàn thiên địch tăng đáng kể là những yếu tố kìm
hãm sự phát triển của sâu xanh bướm trắng trên đồng
ruộng với mật độ có xu hướng giảm.
Diện tích trồng rau tại Nghi Phong chủ yếu tại các
hộ gia đình với diện tích nhỏ. Rau trồng ở khu vực
này chủ yếu tự cấp và một phần nhỏ bán cho thị
trường. Vì vậy, các vườn rau nông hộ hoàn toàn
không sử dụng thuốc hóa học để phòng trừ. Mật độ
sâu xanh bướm trắng cao hơn tại Hưng Đông nhưng
thấp hơn đáng kể so với vùng Nghi Liên. Sâu xanh
bướm trắng xuất hiện với 0,2 con/m2 và đạt đỉnh sau
25 ngày với 2,8 con/m2 ở vụ rau 1. Đỉnh cao ở các
vụ rau 2 và 3 lần lượt đạt 5,2 con/m2 sau 15 ngày);
8,7 con/m2 sau 20 ngày. Mặc dù không sử dụng thuốc
hóa học nhưng mật độ sâu ở khu vực này đạt trung
bình. Người dân đã sử dụng biện pháp thủ công
bắt bằng tay, đồng thời quần thể thiên địch tại các
hệ sinh thái vườn phát huy vai trò hiệu quả là
những nguyên nhân làm giảm mật độ sâu tại Nghi
Phong. Trong đó bọ xít nâu viền trắng là một trong
những loài thiên địch chính đối với sâu xanh bướm
trắng (Nguyễn Thị Thanh, 2012) [3]. Ngoài ra,
việc trồng xen nhiều loại cây trong vườn, nhất là
cây gia vị như hành, tỏi cũng tác động đến mật độ
sâu xanh.
Như vậy, diễn biến mật độ sâu xanh bướm
trắng tại các điểm điều tra (Nghi Phong, Nghi Liên
và Hưng Đông) phụ thuộc vào điều kiện thời tiết,
giai đoạn sinh trưởng của cây trồng, thiên địch và
sự tác động của con người.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tập tính sinh học và diễn biến mật độ sâu xanh bướm trắng trên rau cải xanh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2015 [1]
HOẠT ĐỘNG KH-CN
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Rau xanh cung cấp những dinh dưỡng cần thiết
như protein, axit hữu cơ, vitamin và các chất
khoáng, là nhu cầu không thể thiếu trong cơ cấu bữa
ăn hàng ngày của con người. Đặc biệt, khi lương
thực và thức ăn giàu đạm được đảm bảo thì yêu cầu
về số lượng, chất lượng rau ngày càng tăng, như một
nhân tố tích cực trong cân bằng dinh dưỡng, kéo dài
tuổi thọ.
Ở nước ta, các loại rau họ thập tự (rau cải, su
hào, súp lơ) có giá trị dinh dưỡng, giá trị kinh tế
cao, nhiều người ưa thích và được trồng rộng rãi.
Ở Nghệ An, rau là cây trồng chính của nhiều vùng
như: Diễn Châu, Quỳnh Lưu, thành phố Vinh.
Trong đó, xã Hưng Đông là vùng sản xuất rau
chuyên canh lớn nhất tại thành phố Vinh. Tuy
nhiên, rau họ thập tự có thời gian sinh trưởng
tương đối ngắn, được trồng gối vụ liên tục, thu
hoạch rải rác từng đợt không tập trung, cùng với
đặc điểm thân, lá mềm yếu, chứa nhiều chất dinh
dưỡng, kết hợp với điều kiện khí hậu nóng ẩm của
nước ta, nên bị nhiều loại sâu phá hoại như sâu tơ,
TẬP TÍNH SINH HỌC VÀ DIỄN BIẾN MẬT ĐỘ SÂU XANH BƯỚM TRẮNG
n Thái Thị Ngọc Lam
Khoa Nông Lâm Ngư, Trường Đại học Vinh
sâu xanh bướm trắng, bọ nhảy, gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến năng suất và phẩm chất rau (Lê
Văn Trịnh, 1999) [4]. Trong tập đoàn sâu hại rau
họ thập tự thì sâu xanh bướm trắng là loại dịch
hại nguy hiểm nhất cho các vùng trồng rau ở
Nghệ An. Hàng năm chúng phát sinh từ 14-15
lứa, với mật độ cao (Thái Thị Ngọc Lam và nnk.,
2008) [1].
Để phòng trừ sâu hại họ hoa thập tự nói chung
và sâu xanh bướm trắng nói riêng, cho đến nay,
người nông dân chủ yếu sử dụng biện pháp hóa
học. Tại các vùng chuyên canh rau, thuốc bảo vệ
thực vật được sử dụng nhiều và liên tục đã gây tác
hại nghiêm trọng như phá vỡ cân bằng hệ sinh
thái, tạo nên tính kháng thuốc của một số dịch hại
ngày càng tăng. Nhằm cung cấp các dẫn liệu khoa
học làm cơ sở cho công tác dự tính, dự báo để
kiểm soát sâu xanh bướm trắng trên đồng ruộng,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Tập tính sinh học
và diễn biến mật độ sâu xanh bướm trắng (Pieris
rapae L.) trên rau cải xanh tại thành phố Vinh và
vùng phụ cận”.
TRÊN RAU CẢI XANH
HOẠT ĐỘNG KH-CN
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2015 [2]
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu tập tính sinh học của sâu xanh
bướm trắng (Pieris rapae).
- Diễn biến mật độ sâu xanh bướm trắng
(Pieris rapae) hại rau cải xanh tại thành phố
Vinh và vùng phụ cận.
2. Đối tượng nghiên cứu
- Sâu xanh bướm trắng Pieris rapae Linnaeus.
- Họ bướm phấn (Pieridae).
- Bộ cánh vảy (Lepidoptera).
3. Địa điểm, thời gian nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: tháng 11/2013-
3/2014.
- Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu tập tính
được tiến hành tại Trung tâm thực hành, trường
Đại học Vinh. Điều tra diễn biến mật độ sâu xanh
bướm trắng (P. rapae) trong vụ đông 2013-2014
tại xã Hưng Đông, Nghi Liên (thành phố Vinh),
xã Nghi Phong (huyện Nghi Lộc).
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp nghiên cứu tập tính sinh
học của sâu xanh bướm trắng
Nuôi sâu xanh bướm trắng trong điều kiện
phòng thí nghiệm (nhiệt độ trung bình 25,180C,
ẩm độ trung bình 61,72%RH) theo nhóm cá thể
của tất cả các pha trừ trưởng thành. Số lượng cá
thể mỗi pha từ 50-100 cá thể. Nuôi trong lọ sạch
đường kính từ 15-20cm, cao 15-25cm; có bông
giữ ẩm; đậy vải màn để thông khí. Sử dụng thức
ăn là lá cải tươi. Mỗi lọ đều có ký hiệu (etyket)
riêng, với phiếu theo dõi tương ứng. Hàng ngày
quan sát tập tính gây hại, lột xác, lẩn trốn của sâu
xanh bướm trắng.
Đối với trưởng thành được thả vào khung
màn 1,6x1,4x2,0m trong điều kiện bán tự nhiên
để theo dõi tập tính giao phối và đẻ trứng.
4.2. Phương pháp điều tra trên đồng ruộng
Điều tra diễn biến mật độ sâu xanh bướm
trắng được tiến hành định kỳ 5 ngày/lần tại 3 địa
điểm: Hưng Đông, Nghi Liên và Nghi Phong.
Điều tra được tiến hành bắt đầu từ khi cây rau
mới được trồng cho tới khi thu hoạch. Điều tra
theo nguyên tắc 5 điểm chéo góc, mỗi 1 điểm có
diện tích 1m2, các điểm điều tra lần sau không
trùng với các điểm điều tra lần trước và điều tra
vào thời điểm nhất định trong ngày (theo QCVN
01-38: 2010/BNNPTNT).
Kết quả được xử lý bằng Excel 2010.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1. Tập tính sinh học của sâu xanh bướm trắng
1.1. Cây ký chủ
Sâu xanh bướm trắng phá hoại mạnh trên họ rau
hoa thập tự, phổ biến nhất là cải xanh, bắp cải, su hào
và súp lơ, rất ít bắt gặp trên xà lách, rau diếp. Sâu non
thích ăn lá non, đỉnh sinh trưởng.
1.2. Tập tính gây hại
Sâu xanh bướm trắng phá hại ở pha sâu non với 5
tuổi, khả năng gây hại ở các tuổi sâu khác nhau, sức
gây hại thể hiện qua những vết cắn để lại trên lá. Dựa
vào vết cắn của sâu có thể nhận biết được mức độ gây
hại và tuổi sâu đang có mặt trên đồng ruộng.
Tuổi 1: Sâu non sau khi mới nở có tập tính ăn
vỏ trứng. Sau khi khô lớp da bên ngoài cơ thể, sâu
non bắt đầu tiến hành ăn lá. Lúc này, sâu non
chuyển dần từ màu vàng sang màu xanh nhạt. Ban
đầu, sâu non chỉ gặm phần thịt lá (phần biểu bì của
lá) trừ lại lớp màng mỏng và tạo ra những lỗ nhỏ
li ti ở bề mặt lá.
Tuổi 2: Các vết cắn để lại có kích thước rộng hơn.
Sâu non chủ yếu ăn phần diệp lục của lá hoặc tạo ra
lỗ thủng nhỏ trên bề mặt lá. Nếu mật độ sâu nhiều,
khả năng cạnh tranh thức ăn cao, sâu non tuổi 2 vẫn
có thể gặm thủng lá rau với diện tích phá hoại lớn.
Tuổi 3: Sâu non hoạt động nhanh nhẹn, sức ăn lớn
hơn so với tuổi 2. Sâu gặm thủng lá, di chuyển nhanh
và ăn khuyết mép lá. Sâu gặm từ ngoài mép lá vào
trong, khi đói có thể gặm cả cùi non của lá.
Tuổi 4: Hoạt động gây hại diễn ra mạnh. Sâu non
có thể gặm hết lá chỉ chừa lại gân lá. Sâu ăn rất nhanh,
ăn tới đâu, di chuyển và thải phân tới đó.
Tuổi 5: Đây là giai đoạn sâu phá hại mạnh nhất.
Với kích thước cơ thể lớn, hoạt động nhanh nhẹn nên
chúng phàm ăn. Lá bị phá hoại hoàn toàn, mật độ sâu
cao, rau không còn lá chỉ trơ lại cùi. Cuối tuổi 5, sâu
ngừng ăn, tìm vị trí an toàn, nhả tơ và nằm im trước
khi hóa nhộng 1 ngày (thời kỳ tiền hóa nhộng). Cơ
thể sâu có màu xanh đậm, ở giữa sống lưng có 1
đường vạch vàng chạy suốt thân. Sâu tuổi 5 có màu
đậm hơn và da dày hơn. Trên các đốt thân có 1 điểm
màu vàng và 1 lỗ thở màu nâu mỗi bên. Sâu non tuổi
4, tuổi 5 phá hại nghiêm trọng nhất trong pha sâu non.
1.3. Thời gian gây hại
Sâu gây hại ở tất cả các tuổi và thời kỳ của cây
rau họ hoa thập tự. Sâu thường ăn gặm vào lúc nắng
ấm vào buổi sáng lúc 7-11giờ và lúc chiều mát từ 15-
17giờ. Nếu thời tiết thuận lợi, sâu có thể ăn gặm cả
ngày. Nhiệt độ thuận lợi cho sâu phát triển và ăn gặm
là từ 24-300C, ẩm độ là 70-90%. Nếu xuất hiện điều
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2015 [3]
HOẠT ĐỘNG KH-CN
kiện thuận lợi có ánh sáng và ấm là sâu non
bắt đầu gặm lá bất kể thời gian nào (ngay cả
dưới ánh sáng đèn điện 75w) quan sát trong
môi trường thí nghiệm. Sâu non thường gây
hại từ tháng 10 năm trước đến tháng 5 năm
sau. Mật độ cao thường vào tháng 12-1 và từ
tháng 3-4 là các vụ rau trong năm.
1.4. Hoạt động lột xác
Vào cuối mỗi tuổi, sâu xanh bướm trắng
thường co mình lột xác để bước sang tuổi
mới. Quá trình lột xác thường biểu hiện trước
1 ngày. Sâu non ăn nhiều hơn bình thường,
da căng, sau đó tìm vị trí an toàn, nhả tơ và
đính thân mình vào đó. Sau đó, da co lại,
nhăn rúm và bắt đầu bong ra từ đỉnh đầu. Sâu
non co mình trườn qua lớp vỏ cũ. Khi mới lột
xác, có màu xanh nhạt, sau khoảng 30 phút
đạt đến mầu đặc trưng của cơ thể.
Thời gian lột xác kéo dài từ 10-12 giờ bắt
đầu từ lúc sâu nhả tơ và nằm im. Sâu thường
lột xác vào lúc 3-6 giờ sáng hàng ngày.
Ở pha nhộng, sắp đến ngày vũ hóa, nhộng
cựa mình và xuất hiện một vết rãnh chạy dọc
sống lưng, từ khi xuất hiện vết nứt đến khi
nhộng vũ hóa hoàn toàn từ 2-3 giờ. Ánh sáng,
nhiệt độ và độ ẩm là cơ sở để hoàn thiện khả
năng hóa vũ của nhộng. Quan sát trong điều
kiện thí nghiệm trưởng thành sau khi hoá vũ
yếu hơn hẳn so với môi trường tự nhiên. Khi
nhộng thường xuyên được đưa ra ánh sáng,
trưởng thành khỏe mạnh và tốc độ hoàn thiện
nhanh như: cứng cánh, khả năng bay tốt hơn
và ít bị dị tật hơn.
1.5. Tập tính lẩn trốn
Khả năng lẩn trốn khi xuất hiện mối nguy
hiểm của sâu xanh bướm trắng rất hạn chế do
sâu non hoạt động chậm chạp. Màu xanh đặc
trưng của cơ thể là hình thức ngụy trang hiệu quả
giúp sâu xanh bướm trắng tránh được kẻ thù.
Tiến hành các thí nghiệm phản xạ trên sâu
non cho thấy, sâu non chỉ co lại khi xuất hiện
mối nguy hiểm; bám chắc vào bẹ lá; bò chậm
chạp để di chuyển hoặc một số ít sâu thả mình
theo bẹ lá.
Khi thời tiết không thuận lợi như quá nóng
hoặc quá rét sâu chui vào các kẽ lá hoặc bẹ lá
rau để trốn. Nhiệt độ thích hợp cho sự phát
triển của sâu từ 25-300C.
1.6. Tập tính giao phối
Nhộng sau khi vũ hóa thành trưởng thành
có thể bay ngay. Sau 30-40 giờ thì trưởng thành bắt đầu
hoạt động giao phối. Quá trình ve vãn kéo dài, con đực
và con cái bay chập chờn, vườn nhau rồi bay cuốn vào
nhau. Sau khi con cái tìm được vị trí đậu, tiếp theo con
đực sà xuống và bắt đầu quá trình giao phối. Quá trình
giao phối diễn ra từ 5-15 phút (trong điều kiện bán tự
nhiên) và khoảng 3 phút ngoài đồng ruộng.
Giao phối của sâu xanh bướm trắng là giao phối tĩnh,
khi thực hiện giao phối 2 con ngoảnh bụng vào nhau,
đầu hướng ra 2 phía, cánh khép lại che sát vùng bụng.
Quan sát cho thấy, chúng bay với nhau theo cặp trong
quá trình ve vãn. Trưởng thành thường giao phối khi thời
tiết ấm áp và khô sương: mùa đông từ 12-15 giờ; mùa
hè từ 8-9 giờ sáng và 15-17 giờ chiều.
1.7. Tập tính đẻ trứng
Trưởng thành sâu xanh bướm trắng đẻ trứng rải rác,
không theo ổ trên bề mặt lá rau họ hoa thập tự. Trưởng
thành cái chỉ đẻ trứng trong điều kiện khô sương: mùa
đông vào khoảng 12-15 giờ; mùa hè từ 8-9 giờ sáng và
15-17 giờ chiều.
Trưởng thành bay và sà xuống mặt lá đẻ mỗi lần 1
quả. Khi vừa đậu vào, phần bụng co mạnh và đẩy 1 quả
trứng dính ngay vào mặt lá. Trưởng thành cái có thể đẻ
từ 50-200 trứng.
2. Diễn biến mật độ sâu xanh bướm trắng trên rau
cải xanh vụ đông năm 2013- 2014 tại thành phố Vinh
và vùng phụ cận
Sâu xanh bướm trắng, sâu tơ và bọ nhảy là 3 loài sâu
gây hại rất nghiêm trọng trên rau họ hoa thập tự ở Nghệ
An. Sâu xanh bướm trắng có phổ thức ăn hẹp (chỉ gây
hại trên họ hoa thập tự), vòng đời ngắn, khi nhiệt độ cao
và khả năng sinh sản lớn thì nguy cơ bùng phát dịch trên
đồng ruộng rất lớn (Trương Xuân Lam và nnk., 2009)
Rau cải xanh bị sâu hại
HOẠT ĐỘNG KH-CN
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2015 [4]
[2]. Tuy nhiên, tùy thuộc vào chủng loại rau, giai đoạn
sinh trưởng, thời tiết, điều kiện chăm sóc và các biện
pháp phòng chống sâu hại thì tần suất xuất hiện sâu xanh
bướm trắng khác nhau. Nghiên cứu được tiến hành nhằm
đánh giá diễn biến số lượng quần thể của sâu xanh bướm
trắng ở các trình độ thâm canh (chuyên canh (Hưng
Đông), bán chuyên canh (Nghi Liên), không chuyên canh
(Nghi Phong)), từ đó cung cấp các dẫn liệu về dự tính dự
báo của dịch hại trên đồng ruộng.
Kết quả hình 1 cho thấy, mỗi vụ rau, sâu xanh bướm
trắng đều đạt một đỉnh cao mật độ tại 3 địa điểm nghiên
cứu. Mật độ sâu xanh bướm trắng xuất hiện tại Hưng
Đông thấp nhất (0,1-3,7 con/m2), tiếp theo là Nghi Phong
(0,2-8,7 con/m2) và cao nhất tại Nghi Kim (2,1-13,6
con/m2). Mật độ sâu xanh bướm trắng biến động theo
thời gian, đều có xu hướng tăng dần từ đầu vụ, sau đó
đạt đỉnh cao và giảm dần. Mật độ sâu có liên quan đến
điều kiện thời tiết, thức ăn, thiên địch và sự tác động của
con người.
Tại Hưng Đông và Nghi Liên, biến động mật độ có
sự tương đồng, các đỉnh cao có xu hướng tăng dần qua
các vụ trồng và đạt cao nhất ở vụ rau thứ 3. Mật độ sâu
có khuynh hướng tích lũy số lượng qua các vụ. Tuy
nhiên, tại Nghi Liên, các đỉnh cao mật độ có xu hướng
giảm dần theo các vụ trồng. Đỉnh cao tại vụ rau 1 là lớn
nhất, các vụ sau mật độ tại các đỉnh cao giảm không
đáng kể.
Tại Hưng Đông là vùng chuyên canh, rau được trồng
gần như quanh năm, nguồn cung cấp rau chủ yếu cho
thành phố Vinh. Do thời gian canh tác dài, diện tích trồng
rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho sâu xanh phá hại. Tuy
nhiên, để bảo vệ cây trồng, người trồng rau đã sử dụng
nhiều loại thuốc hóa học phun với tần suất rất
lớn. Theo kết quả điều tra của Trần Văn
Quyền, Thái Thị Phương Thảo (2008), người
dân đã phun từ 4-20 lần/vụ rau, thậm chí sử
dụng những thuốc ngoài danh mục [5]. Đây
là nguyên nhân chính tác động đến mật độ sâu
xanh bướm trắng tại Hưng Đông.
Mật độ sâu xanh bướm trắng tại Hưng
Đông ở vụ trồng thứ nhất, xuất hiện sau trồng
5 ngày với mật độ đạt 0,1 con/m2, sau đó tăng
dần và đạt đỉnh cao lần 1 là 2 con/m2 vào cuối
vụ (35 ngày sau trồng). Vụ rau 2, đỉnh cao
mật độ đạt 2,1 con/m2 vào 25 ngày và giảm
dần về cuối vụ. Mật độ sâu xanh bướm trắng
rất thấp ở vụ tiếp theo, với đỉnh cao đạt 3,7
con/m2 vào 20 ngày sau trồng (Hình 1).
Tại Nghi Liên là vùng bán chuyên canh,
rau chỉ được trồng vào vụ đông, tập trung và
được canh tác trên đất trồng lúa hoặc lạc. Đây
là khu vực áp dụng mô hình GAP (Thực hành
nông nghiệp tốt). Mật độ sâu xanh bướm
trắng ở đây cao nhất trong các điểm nghiên
cứu. Mật độ sâu tăng dần từ đầu vụ đạt đỉnh
cao giữa vụ sau đó giảm dần. Sâu xanh bướm
trắng bắt đầu xuất hiện với mật độ 2,1con/m2
tăng dần và đạt đỉnh với 13,6 con/m2 (25
ngày) sau đó giảm dần về cuối vụ rau 1. Ở vụ
rau thứ 2, mật độ ban đầu là 5,4 con/m2, sau
20 ngày đạt đỉnh cao (12,5 con/m2) và giảm
dần đạt mật độ tương đối cao, vượt qua
ngưỡng phòng trừ ở cuối vụ (11,2 con/m2).
Mật độ sâu ở vụ rau thứ 3 có xu hướng giảm
Hình 1. Mật độ sâu xanh bướm trắng trên rau cải xanh tại thành phố Vinh và vùng phụ cận
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2015 [5]
HOẠT ĐỘNG KH-CN
hơn vụ rau 2, với đỉnh cao đạt 11,2 con/m2 sau 15
ngày trồng.
Vào đầu vụ rau 1, nhiệt độ không thuận lợi, trời
rét hạn chế tỉ lệ nở của trứng, đồng thời giai đoạn
này ruộng rau mới trồng, thức ăn hạn chế nên mật
độ sâu thấp. Sau 20 ngày, cây rau phát triển thân lá
hoàn chỉnh chuẩn bị thu hoạch, nguồn thức ăn dồi
dào nên mật độ sâu đạt cao nhất. Sau đó người dân
có sử dụng thuốc hóa học phun làm giảm mật độ. Vụ
thứ 2, điều kiện thời tiết rất thuận lợi, nắng ấm liên
tục vì vậy cây trồng phát triển tốt đồng thời sâu xanh
bướm trắng có cơ hội bành trướng về số lượng. Do
trồng tập trung với diện tích lớn nên sâu xanh bướm
trắng tích lũy từ vụ trước và các vùng lân cận di trú
sang làm mật độ tăng đột biến. Vụ thứ 3, người dân
chủ động hơn về biện pháp phòng trừ, đồng thời tập
đoàn thiên địch tăng đáng kể là những yếu tố kìm
hãm sự phát triển của sâu xanh bướm trắng trên đồng
ruộng với mật độ có xu hướng giảm.
Diện tích trồng rau tại Nghi Phong chủ yếu tại các
hộ gia đình với diện tích nhỏ. Rau trồng ở khu vực
này chủ yếu tự cấp và một phần nhỏ bán cho thị
trường. Vì vậy, các vườn rau nông hộ hoàn toàn
không sử dụng thuốc hóa học để phòng trừ. Mật độ
sâu xanh bướm trắng cao hơn tại Hưng Đông nhưng
thấp hơn đáng kể so với vùng Nghi Liên. Sâu xanh
bướm trắng xuất hiện với 0,2 con/m2 và đạt đỉnh sau
25 ngày với 2,8 con/m2 ở vụ rau 1. Đỉnh cao ở các
vụ rau 2 và 3 lần lượt đạt 5,2 con/m2 sau 15 ngày);
8,7 con/m2 sau 20 ngày. Mặc dù không sử dụng thuốc
hóa học nhưng mật độ sâu ở khu vực này đạt trung
bình. Người dân đã sử dụng biện pháp thủ công
bắt bằng tay, đồng thời quần thể thiên địch tại các
hệ sinh thái vườn phát huy vai trò hiệu quả là
những nguyên nhân làm giảm mật độ sâu tại Nghi
Phong. Trong đó bọ xít nâu viền trắng là một trong
những loài thiên địch chính đối với sâu xanh bướm
trắng (Nguyễn Thị Thanh, 2012) [3]. Ngoài ra,
việc trồng xen nhiều loại cây trong vườn, nhất là
cây gia vị như hành, tỏi cũng tác động đến mật độ
sâu xanh.
Như vậy, diễn biến mật độ sâu xanh bướm
trắng tại các điểm điều tra (Nghi Phong, Nghi Liên
và Hưng Đông) phụ thuộc vào điều kiện thời tiết,
giai đoạn sinh trưởng của cây trồng, thiên địch và
sự tác động của con người.
III. KẾT LUẬN
1. Sâu xanh bướm trắng gây hại nặng ở pha sâu
non, nhất là tuổi 4 và 5. Gây hại nặng nhất từ tháng
12-1 và tháng 3-4. Thời gian lột xác kéo dài 10-
12 giờ. Sâu xanh bướm trắng giao phối tĩnh
khoảng 5-15 phút, quá trình ve vãn kéo dài bằng
cách bay cuốn vào nhau. Mỗi trưởng thành cái đẻ
từ 50-200 quả, trứng đẻ rải rác trên bề mặt lá.
2. Diễn biến mật độ sâu xanh bướm trắng tại
Nghi Liên, Nghi Phong và Hưng Đông không
giống nhau. Tại các điểm nghiên cứu, mỗi vụ rau
đều đạt 1 đỉnh cao. Mật độ sâu ở Nghi Liên cao
nhất, tiếp theo là Nghi Phong và thấp nhất ở Hưng
Đông. Mật độ sâu phụ thuộc vào điều kiện thời
tiết, giai đoạn sinh trưởng của cây trồng, thiên địch
và sự tác động của con người./.
Tài liệu tham khảo
1. Thái Thị Ngọc Lam, Hồ Đình Thắng, Trần Thị Như Quỳnh, Nguyễn Thị Thanh (2008), Đặc điểm sinh học, sinh thái
và một số biện pháp phòng trừ sâu xanh bướm trắng (Pieris rapae L.) hại rau họ thập tự, Tuyển tập các công trình nghiên
cứu khoa học công nghệ NLN 2002-2008, Nxb Nông nghiệp, tr 239-245.
2. Trương Xuân Lam, Nguyễn Thị Thanh, Trần Ngọc Lân, Thái Thị Ngọc Lam (2009), Ảnh hưởng nhiệt độ và ẩm độ
tới sâu xanh bướm trắng Pieris rapae L. nguồn thức ăn của loài bọ xít nâu viền trắng Andrallus spinidens và thử nghiệm
phòng trừ sâu xanh bướm trắng của loài bọ xít bắt mồi này trên cánh đồng, Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ 3 về sinh
thái và tài nguyên sinh vật, Nxb Nông nghiệp, tr 1403-1407.
3. Nguyễn Thị Thanh (2012), Nghiên cứu các loài côn trùng bắt mồi, sinh học, sinh thái học của bọ xít nâu viền
trắng Andrallus spinidens (Fabricius), bọ rùa chữ nhân Coccinella transversalis Fabricius và thử nghiệm phòng trừ
sâu hại rau họ hoa thập tự ở Nghệ An, Luận án tiến sĩ Sinh học, Viện Sinh thái và tài nguyên sinh vật - Viện Hàn lâm
khoa học Việt Nam.
4. Lê Văn Trịnh (1999), Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái học của một số loài sâu hại rau họ hoa thập tự vùng
đồng bằng sông Hồng và biện pháp phòng trừ, Luận án tiến sĩ Nông nghiệp, Học viện Nông Nghiệp Việt Nam.
5. Trần Văn Quyền, Thái Thị Phương Thảo (2008), Thực trạng áp dụng các biện pháp bảo vệ thực vật trong sản xuất
rau và giải pháp sản xuất rau an toàn tại thành phố Vinh, Tuyển tập các công trình nghiên cứu khoa học công nghệ Nông
lâm ngư 2002-2008, Nxb Nông nghiệp, tr 339-342.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tap_tinh_sinh_hoc_va_dien_bien_mat_do_sau_xanh_buom_trang_tr.pdf