Bên cạnh cơ hội thì cũng có không ít những
thách thức cho phát triển nông nghiệp bền vững
Thứ nhất, năng lực cạnh tranh ngành nông nghiệp
còn thấp, thị trường thiếu ổn định, còn phụ thuộc
nhiều vào các thị trường xuất khẩu truyền thống theo
con đường tiểu ngạch nên tiềm ẩn nhiều rủi ro. Mặc dù
đã có nhiều cố gắng nhưng nền nông nghiệp manh
mún, thiếu liên kết là một hạn chế lớn đối với nông
nghiệp Việt Nam. Điều này ảnh hưởng không nhỏ
đến chất lượng sản phẩm và gây khó khăn cho việc
đưa nông nghiệp phát triển gắn với thị trường hàng
hóa, làm giảm sức cạnh tranh của ngành nông nghiệp
trên cả thị trường nội địa lẫn thị trường xuất khẩu.
Thứ hai, việc tăng nhanh dân số tạo áp lực trong
việc giải quyết nhiều vấn đề xã hội như giải quyết việc
làm, cải thiện đời sống người dân; tạo ra gánh nặng
cho an ninh lương thực quốc gia. Dân số nước ta hiện
nay trên 90 triệu người, dự kiến đến năm 2020 sẽ
vào khoảng 100 triệu người. Vì vậy, nhu cầu về lương
thực, thực phẩm của nước ta sẽ tăng lên ít nhất 11%
- 12% so với hiện nay. Điều này đòi hỏi nông nghiệp
phải tăng nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng để đáp
ứng nhu cầu của người dân.
Thứ ba, biến đổi khí hậu đã và đang diễn ra ảnh
hưởng rất lớn đến nông nghiệp nước ta. Tình trạng
biến động về khí hậu trong thời gian qua là khá lớn,
nguy cơ về nước biển dâng đang đe dọa nghiêm
trọng đến các nước ven biển trong đó có Việt Nam.
Nếu nước biển dâng lên 1 m thì 9 tỉnh của Việt Nam,
bao gồm: Bến Tre, Long An, Trà Vinh, Sóc Trăng, Thành
phố Hồ Chí Minh, Vĩnh Long, Bạc Liêu, Tiền Giang và
Cần Thơ sẽ bị ngập từ 24,7% đến 50,1% diện tích trên
tổng số 11.475 km2; GDP của cả nước sẽ giảm ít nhất
10%, sản lượng lương thực giảm 12% (5 triệu tấn lúa).
Hơn nữa, thiên tai thường xuyên xảy ra như hạn hán,
bão lụt ở miền Trung, rét đậm rét hại ở miền Bắc đang
ngày càng diễn biến phức tạp, tăng cả về số lượng và
cường độ, điều này ảnh hưởng rất lớn đến sản lượng
và chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
Thứ tư, tăng trưởng nông nghiệp của Việt Nam
thời gian qua chủ yếu dựa trên thâm dụng tài nguyên
thiên nhiên. Điều này gây tác động xấu đến môi
trường, làm tăng mức độ ô nhiễm và suy yếu nguồn
tài nguyên thiên nhiên (rừng đước ven biển, tài
nguyên nước ngầm ở Tây Nguyên, nguồn lợi hải sản
ven bờ, đa dạng sinh học.). Môi trường ở nông thôn
chưa được quản lý tốt. Ô nhiễm nước thải, khí thải ở
các khu công nghiệp, làng nghề đang trực tiếp làm
suy thoái môi trường, gây nguy hiểm cho sinh kế bền
vững của người dân và cạn kiệt nguồn lợi thủy sản.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thách thức và cơ hội trong phát triển nông nghiệp bền vững, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
40 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
1. Đặt vấn đề
Nông nghiệp ngày càng khẳng định vị trí quan
trọng của mình trong tiến trình xây dựng, đổi mới
và phát triển đất nước. Phát triển nông nghiệp theo
hướng bền vững là vấn đề đang được đặt ra không
chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Một nền nông
nghiệp vững mạnh phải là nền nông nghiệp phát
triển đạt được những chỉ tiêu kinh tế quan trọng, tạo
nguồn thu nhập cao cho người nông dân, có cơ cấu
hợp lý và không nguy hại đến môi trường. Để vươn
tới một nền nông nghiệp vững mạnh thì vấn đề phát
triển bền vững đang là vấn đề bức thiết hiện nay đối
với nông nghiệp Việt Nam. Trong khuôn khổ bài viết
này, nhóm tác giả sẽ làm rõ những vấn đề lý luận về
phát triển nông nghiệp bền vững, rút ra một số kinh
nghiệm từ các nước trên thế giới, đồng thời, đưa ra
những đánh giá về cơ hội và thách thức cho phát
triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam.
2. Quan điểm về phát triển nông nghiệp
bền vững
Douglass (thập niên 80 của thế kỷ XX) cho rằng:
tùy từng khía cạnh khác nhau mà nông nghiệp bền
vững được hiểu khác nhau: Trên khía cạnh kinh tế kỹ
thuật, ông cho rằng tăng trưởng nông nghiệp bền
vững nhấn mạnh đến việc duy trì tăng năng suất lao
động trong dài hạn; còn trên khía cạnh sinh thái thì
một hệ thống nông nghiệp làm suy yếu, ô nhiễm, phá
vỡ cân bằng sinh thái của hệ thống tự nhiên một cách
không cần thiết thì hệ thống nông nghiệp đó không
bền vững; Trên khía cạnh môi trường con người, quan
điểm của ông là một hệ thống nông nghiệp không
cải thiện được trình độ giáo dục, sức khỏe và dinh
THÁCH THỨC VÀ CƠ HỘI
TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG
? ĐÀo QUYẾT THắNG*
* NCS.ThS., Trường Đại học Quy Nhơn.
dưỡng của người dân nông thôn thì hệ thống đó
không được gọi là bền vững.
Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới (1987)
đưa ra định nghĩa: “Phát triển bền vững là phát triển
đáp ứng được những nhu cầu hiện tại nhưng không
làm tổn thương năng lực đáp ứng nhu cầu của thế hệ
tương lai”.
Pearce và Turner (1990) cho rằng: “Phát triển nông
nghiệp bền vững là tối đa hóa lợi ích của phát triển
kinh tế trên cơ sở ràng buộc về duy trì chất lượng của
nguồn lực tự nhiên theo thời gian”.
FAO (1989) đưa ra khái niệm được cho là hoàn
chỉnh nhất: “Phát triển bền vững là việc quản lý và bảo
tồn cơ sở tài nguyên thiên nhiên, định hướng thay đổi
công nghệ và thể chế theo hướng một phương thức
sao cho đạt đến sự thỏa mãn một cách liên tục những
nhu cầu của con người, của những thế hệ hôm nay
và mai sau. Sự phát triển như vậy trong lĩnh vực nông
nghiệp (nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản) chính
41Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
là sự bảo tồn đất, nước các nguồn gen và thực vật,
không bị suy thoái môi trường, kỹ thuật thích hợp,
sinh lợi kinh tế và chấp nhận về mặt xã hội”.
Dựa vào các quan điểm về phát triển nông nghiệp
bền vững có thể thấy rằng: Việc phát triển nông
nghiệp bền vững thể hiện mối quan hệ giữa tăng
trưởng nông nghiệp với môi trường tự nhiên, với
nghèo đói và với môi trường con người ở nông thôn.
Để hiểu được bản chất của nông nghiệp bền vững thì
cần hiểu rõ các mối quan hệ này.
Theo Haen (1991), tất cả các dạng, hình thức của
sản xuất nông nghiệp đều liên quan đến sự biến đổi
của một hệ sinh thái. Với quan điểm này thì rõ ràng
việc phát triển nông nghiệp không ảnh hưởng đến
môi trường tự nhiên chỉ là lý thuyết. Việc phát triển
nông nghiệp phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên như
độ màu mỡ của đất đai, thời tiết, khí hậu, chính vì
vậy, phát triển nông nghiệp bền vững chính là tăng
trưởng nông nghiệp gắn với bảo vệ môi trường tự
nhiên. Điều này đòi hỏi phải cân bằng giữa lợi ích của
sản xuất nông nghiệp với lợi ích của bảo vệ môi trường
tự nhiên, đảm bảo cân bằng sinh thái bền vững.
Theo Rao C.H.H. và Chopra K. (1991), đề cập đến
mối quan hệ giữa tăng trưởng nông nghiệp - suy
thoái môi trường - nghèo đói nông thôn. Quan điểm
này thể hiện mối quan hệ nhân quả giữa cách thức
tăng trưởng nông nghiệp với suy thoái môi trường.
Nếu tăng trưởng nông nghiệp theo hình thức quảng
canh, việc tăng trưởng chủ yếu dựa vào bóc lột
chất dinh dưỡng tự nhiên trong đất, mở rộng diện
tích chủ yếu từ lấn diện tích rừng, điều này chỉ giúp
tăng trưởng trong ngắn hạn, còn dài hạn thì khi môi
trường tự nhiên bị suy thoái sẽ dẫn đến năng suất
thấp, thu nhập thấp, thất nghiệp và nghèo đói ở khu
vực nông thôn lại càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Còn nếu tăng trưởng nông nghiệp theo hình thức
thâm canh, việc tăng trưởng chủ yếu dựa vào khoa
học kỹ thuật, điều này rất dễ dẫn đến tình trạng lạm
dụng hóa chất để tăng trưởng gây tổn hại nghiêm
trọng đến tài nguyên đất và nước, khi môi trường bị
suy thoái thì năng suất sẽ thấp. Thất nghiệp và nghèo
đói ở khu vực nông thôn là khó tránh khỏi.
Shepherd A (1998) cho rằng: ngay cả khi áp dụng
khoa học kỹ thuật sản xuất mà đảm bảo được cân
bằng sinh thái vẫn dẫn đến tình trạng đói nghèo.
Quan điểm này thể hiện sự khác biệt giữa trình độ
áp dụng khoa học kỹ thuật và hiệu quả của nó ở các
địa phương có điều kiện tự nhiên khác nhau. Việc áp
dụng khoa học kỹ thuật đòi hỏi vốn đầu tư lớn, mặt
khác hiệu quả của sản xuất nông nghiệp chịu ảnh
hưởng rất lớn từ yếu tố tự nhiên. Điều này dẫn đến rủi
ro tăng cao trong đầu tư sản xuất nông nghiệp.
Khi thu nhập từ sản xuất nông nghiệp không đủ
nuôi sống, người dân nông thôn sẽ bất chấp tất cả
khai thác trái phép nguồn lợi tự nhiên như phá rừng
lấy gỗ, săn bắt thú quý hiếm gây tổn hại nghiêm
trọng đến môi trường tự nhiên, điều này dẫn đến
biến đổi khí hậu theo chiều hướng xấu, ảnh hưởng
trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp. Do đó, một hệ
thống nông nghiệp không đảm bảo được mức sống
trên mức nghèo đói của người dân nông thôn thì
không thể là một hệ thống nông nghiệp bền vững.
Strauss (1986), Haddad và Bouis (1991) cho rằng,
tăng trưởng nông nghiệp và cải thiện môi trường sức
khỏe - dinh dưỡng thường có ảnh hưởng tương hỗ.
Khi nông nghiệp phát triển tạo thu nhập cho người
dân, góp phần cải thiện đời sống vật chất tinh thần
cho người dân, sản phẩm từ nông nghiệp sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dân. Nếu sản
xuất nông nghiệp quá lạm dụng thuốc hóa học sẽ
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người dân, là
nguồn cơ của các căn bệnh nguy hiểm. Một khi đời
sống của người dân làm nông nghiệp không được
đảm bảo, họ sẽ từ bỏ nông nghiệp, điều này sẽ ảnh
hưởng đến tăng trưởng nông nghiệp, đe dọa nghiêm
trọng đến an ninh lương thực quốc gia.
Như vậy, nông nghiệp bền vững là một nền nông
nghiệp trong đó các hoạt động của các tổ chức kinh
tế từ việc lập kế hoạch, thực hiện và quản lý các quá
trình sản xuất, kinh doanh nông nghiệp đều hướng
đến bảo vệ và phát huy lợi ích của con người và xã
hội trên cơ sở duy trì và phát huy nguồn lực, tối thiểu
hóa chi phí để sản xuất hiệu quả các sản phẩm nông
nghiệp và hạn chế tác hại của môi trường, trong khi
duy trì và không ngừng nâng cao thu nhập cho người
nông dân. Nông nghiệp bền vững đề cập một cách
toàn diện và tổng hợp đến cả 3 khía cạnh là kinh tế -
xã hội, môi trường và con người:
Bền vững về kinh tế - xã hội trong nông nghiệp:
là quá trình giảm chi phí đầu vào, nâng cao thu nhập
cho người nông dân trên cơ sở thỏa mãn tốt nhất nhu
cầu xã hội về nông sản.
Bền vững về môi trường trong nông nghiệp: là quá
trình tác động hợp lý của con người đối với các yếu
42 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
tố tự nhiên nhằm giảm thiểu tác hại của môi trường,
bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên và đa dạng sinh học.
Bền vững về con người trong nông nghiệp: là quá
trình xây dựng và phát triển các giá trị như: mối quan
hệ xã hội, vấn đề sức khỏe, văn hóa, tinh thần của con
người.
3. Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp bền
vững của các nước trên thế giới
3.1. Kinh nghiệm của Indonesia
Indonesia có truyền thống phát triển nông nghiệp
theo mô hình trang trại với tên gọi “aqua-terra” (Phạm
Văn Khôi, 2004). Trong mô hình này, cây trồng vật nuôi
được phát triển theo công nghệ sản xuất kết hợp giữa
phương pháp tăng vụ truyền thống và phương pháp
thâm canh theo chiều sâu. Tác giả Masdjidin Siregar
và Muhammad Suryadi (2006) cũng khẳng định về
mô hình “aqua-terra” - đó là phát triển sản xuất gắn với
tăng cường hệ thống chế biến và mở rộng thị trường
tiêu thụ nông - lâm - thủy sản; đẩy mạnh quá trình
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi và cơ cấu kinh
tế nông thôn; chú trọng nâng cao năng suất, chất
lượng sản phẩm và tăng khả năng cạnh tranh trên thị
trường. Để thực hiện được mô hình này, Indonesia đã
tăng cường hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn như hệ
thống giao thông nông thôn, hệ thống thông tin và
các dịch vụ xã hội khác để tăng cường đào tạo nguồn
nhân lực ở nông thôn. Bên cạnh việc thực hiện tốt về
mặt kinh tế và xã hội, Indonesia cũng quan tâm đến
biện pháp chống suy thoái đất có hiệu quả và bền
vững tài nguyên sinh vật trên cơ sở áp dụng các mô
hình canh tác hợp lý trên từng loại địa hình.
Thực tế cho thấy, sự phát triển nông nghiệp bền
vững của Indonesia đã giúp nước này đạt được sản
lượng lúa 10 triệu tấn/năm. Để đạt được thành tựu
kể trên, chính phủ Indonesia đã thực hiện trợ cấp
chuyển giao công nghệ kỹ thuật phù hợp, phát triển
cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất, tăng vốn đầu tư
và nâng cao kiến thức chuyên môn và thông tin thị
trường cho người nông dân. Trong đó, việc sử dụng
máy móc trong sản xuất nông nghiệp vừa đạt được
năng suất cao vừa hạn chế tình trạng thất thoát lãng
phí, làm giảm nguy cơ ô nhiễm và cạn kiệt nguồn
nước (Ministry of Agriculture, 2012).
3.2. Kinh nghiệm của Hà Lan
Hà Lan là một nước nhỏ ở Tây Âu, vùng đồng bằng
cửa sông Rhine, nhiều nơi thấp hơn mực nước biển.
Hà Lan là nước phát triển ở trình độ cao, đạt nhiều
thành tựu kinh tế - xã hội nổi tiếng thế giới, trong đó
có sự phát triển hạ tầng thủy lợi với những công trình
vĩ đại đê biển và cửa sông. Lao động nông nghiệp
chiếm 3,6% số lao động xã hội, tỷ trọng nông nghiệp
chiếm 3% GDP. Những thành tựu nông nghiệp của
Hà Lan được thế giới hâm mộ, có liên quan đến cơ
cấu sản xuất nông nghiệp Hà Lan. Nếu không tính đồ
uống, thuốc lá, thủy sản thì hàng nông sản xuất khẩu
quan trọng nhất của Hà Lan gồm 3 lĩnh vực: sản phẩm
hoa - rau - cây cảnh; thịt; sữa và trứng.
Ở Hà Lan, nền nông nghiệp được đầu tư kết cấu
hạ tầng rất lớn. Vì thiếu đất canh tác, Hà Lan thực thi
chiến lược “đầu tư cao - sản xuất nhiều”, là một đặc
trưng nổi bật của nền nông nghiệp nước này. Hệ
thống thủy lợi và phòng chống lũ có tiêu chuẩn an
toàn cao như đập ngăn mặn ở cửa biển Zuiderzee
tạo nên hồ nước ngọt lớn Ijsselmeer... Công trình
“tam giác châu” hoàn thành, đã làm cho đê chống lũ,
đê sông nội đồng có chiều dài tới 2.800 km, đạt tiêu
chuẩn an toàn cao nhất thế giới. Mạng lưới kênh rạch
chằng chịt bảo vệ đồng ruộng, đảm bảo đồng ruộng
dù thấp hơn mực nước biển tới 4 - 6 m vẫn được sản
xuất theo công nghệ cao, được coi là kỳ quan của thế
giới. Diện tích nhà kính lớn, nhà kính tập trung liền
vùng, thiết bị hiện đại, như một thế giới của “thành
phố nhà kính”, đã sản xuất ra những loại hoa, rau, củ,
giống hoa tulip cung cấp cho loài người.
Đạt được những thành tựu lớn như vậy trong nông
nghiệp là nhờ Hà Lan biết: Thứ nhất, phát huy lợi thế
so sánh của đất nước, biết khai thác nguồn lực về tài
nguyên thế giới, xây dựng và kịp thời điều chỉnh cơ
cấu sản xuất hướng tới tối ưu hóa, đảm bảo ngành
nông nghiệp đạt hiệu quả cao. Tài nguyên thiên
nhiên về nông nghiệp của Hà Lan thiếu hụt. Đất ít lại
trũng, thường xuyên bị uy hiếp bởi ngập lụt, nhưng
Hà Lan đã tìm tòi, tự khẳng định những lợi thế so
sánh của chính mình để phát triển nền nông nghiệp
theo chiến lược của một nền nông nghiệp hướng ra
xuất khẩu.
Thứ hai, phát triển kết cấu hạ tầng và áp dụng
thành tựu cao và mới về khoa học - công nghệ. Kết cấu
hạ tầng là cơ sở vật chất của kỳ tích nông nghiệp Hà
Lan, đảm bảo nền nông nghiệp phát triển bền vững.
Thứ ba, sức sống mãnh liệt của trang trại nông
nghiệp gắn với các tổ chức mạnh của nông dân, được
vận hành trong một cơ chế thông thoáng, hiệu quả.
43Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
Sức sống của kinh tế trang trại nông nghiệp Hà Lan
bắt nguồn từ những đặc trưng như phần lớn kinh
tế trang trại của nông dân là trang trại gia đình; các
trang trại được tích tụ ruộng đất để có quy mô đủ lớn,
gắn liền với quá trình tạo việc làm phi nông nghiệp,
đủ sức thu hút nông dân “ly nông”, giảm thiểu nhanh
số lượng nông dân và giải thể các trang trại nhỏ, làm
ăn kém hiệu quả; Sản xuất kinh doanh của trang trại
có trình độ chuyên môn hóa cao.
Thứ tư, việc phát huy được vai trò quan trọng của
tổ chức Hợp tác xã và các Hiệp hội ngành nghề của
nông dân đã góp phần quan trọng vào phát triển
bền vững nông nghiệp nước này. Các loại Hiệp hội
ngành nghề và Hiệp hội thương mại, trong đó Hiệp
hội ngành hàng là tổ chức ngang của trang trại nhằm
liên kết các bộ môn của trang trại, còn Hiệp hội hàng
hóa coi như tổ chức ngành dọc, liên kết khâu cung
ứng nguyên liệu đến tiêu thụ sản phẩm của trang trại.
Thứ năm, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao
tố chất nông dân mang bản sắc Hà Lan: căn cơ, giỏi
buôn bán, năng động và sáng tạo. Lịch sử phát triển
đất nước đã tạo cho người Hà Lan nói chung, và nông
dân Hà Lan nói riêng những bản lĩnh rất đặc thù với
những tố chất rất đáng quý, đó là “tài nguyên” quan
trọng nhất để nâng cao sức cạnh tranh, đảm bảo nền
nông nghiệp hàng hóa Hà Lan phát triển bền vững.
Thứ sáu, nâng cao hiệu lực của quản lý Nhà nước
về cơ chế, chính sách. “Kỳ tích” nền nông nghiệp Hà
Lan có quan hệ trực tiếp đến vai trò của Nhà nước.
Một cơ chế, chính sách có hiệu quả là cơ chế, chính
sách khuyến khích các nhà sản xuất kinh doanh, cải
thiện và tối ưu hóa sử dụng các nguồn lực để nâng
cao sức cạnh tranh, làm tốt các dịch vụ công, có nghĩa
là đảm bảo cung ứng tốt các dịch vụ công và các sản
phẩm công cộng mà cơ chế thị trường không đáp
ứng được (chẳng hạn một môi trường an ninh, trật tự
trong nước, môi trường hòa bình thế giới), từ đó gia
tăng khả năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
3.3. Kinh nghiệm của Thái Lan
Thái Lan là một nước nông nghiệp. Nông nghiệp
Thái Lan trong hàng thập kỷ qua đóng vai trò quan
trọng trong phát triển kinh tế. Không những góp
phần tăng trưởng kinh tế, đảm bảo chất lượng cuộc
sống cho người dân mà còn bảo vệ môi trường sinh
thái hiệu quả. Cũng như Việt Nam, Thái Lan đã và
đang triển khai, thực hiện tốt chiến lược quy hoạch
phát triển nông nghiệp nông thôn đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững nông nghiệp. Đồng thời,
Thái Lan cũng áp dụng những tiến bộ kỹ thuật vào
sản xuất và thu được kết quả khả quan như: năng
suất cao, chất lượng sản phẩm tốt, giải quyết được
việc làm và tăng thu nhập cho nông dân, góp phần
xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường hiệu quả
(Viboon Thepent và Anucit Chamsing, 2009). Tác giả
Sachika Hirokawa (2010) đề cập đến sự thành công
của nông nghiệp Thái Lan - đó là phát triển bền vững
về khía cạnh môi trường. Nông dân đã đề ra phương
án sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ. Nghĩa
là cây trồng được chăm sóc bằng phân bón hữu cơ
là chủ yếu, giảm phân bón hóa học và thuốc bảo vệ
thực vật. Nông dân ở các vùng đã thành lập nhóm
sản xuất phân hữu cơ nhằm tạo ra sản phẩm phân
bón chất lượng cao, có hiệu quả kinh tế, thúc đẩy sản
xuất nông nghiệp phát triển, tăng thu nhập và bảo vệ
môi trường.
4. Thách thức và cơ hội trong phát triển nông
nghiệp bền vững ở Việt Nam
4.1. Thành tựu trong phát triển nông nghiệp
Trong gần 30 năm đổi mới, nông nghiệp Việt Nam
đạt được mức tăng trưởng nhanh và ổn định trong
một thời gian dài, cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch
theo hướng tích cực. Nông nghiệp cung cấp sinh kế
cho 9,53 triệu hộ dân nông thôn và 68,2% số dân (60
triệu người), đóng góp 18% - 22% GDP cho nền kinh
tế và 23% - 35% giá trị xuất khẩu.
Nền nông nghiệp Việt Nam phát triển dựa trên
các quy hoạch cụ thể cho từng vùng theo hướng linh
44 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
hoạt góp phần phát huy lợi thế so sánh của từng vùng
đồng thời cũng khắc phục những hạn chế của điều
kiện tự nhiên. Công tác đầu tư công cho nông nghiệp
cũng đã được chú trọng và đạt được những thành
tựu, chính sách ưu đãi đầu tư góp phần thu hút các
doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất nông
nghiệp, tạo điều kiện hỗ trợ sản xuất nông nghiệp
phát triển bền vững (Đỗ Kim Chung, 2009; Hoàng Thị
Chỉnh, 2010). Mặt khác, để phát triển công nghiệp
chế biến, mở rộng quy mô khắc phục tình trạng sản
xuất nhỏ lẻ manh mún thì Chính phủ đã chú trọng
đầu tư công, hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, áp dụng
tiến bộ khoa học vào sản xuất, thực hiện liên kết 4
nhà - Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và
nhà nông.
Về mặt xã hội, nông dân được khuyến khích tham
gia vào các hợp tác xã và các hội nông dân, luôn
giúp đỡ nhau trong quá trình sản xuất, trình độ kỹ
thuật và kiến thức thị trường cũng được nâng cao
thông qua chương trình đào tạo nghề, tập huấn
do trung tâm khuyến nông và các tổ chức hội thực
hiện. Chính sách phát triển các làng nghề cũng được
chú trọng nhằm nâng cao thu nhập cho người dân.
Những điều này đã góp phần không nhỏ vào phát
triển bền vững ngành nông nghiệp.
Về môi trường, những năm gần đây, nhận thức của
người nông dân về tác hại của ô nhiễm môi trường
ngày càng được nâng cao, ý thức bảo vệ môi trường
và các hoạt động góp phần cải thiện môi trường được
áp dụng rộng rãi. Thói quen, tập quán sản xuất gây ô
nhiễm môi trường đã dần dần được bãi bỏ (Phạm Văn
Án, 2010; Hoàng Thị Chỉnh, 2010; Phạm Văn Lái, 2011).
Quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) và vận động lắp đặt
hệ thống biogas được tuyên truyền rộng rãi qua
nhiều kênh. Điều này đã giúp nông dân tiếp cận được
những phương pháp canh tác mới ít nguy hại đến
môi trường nhưng đạt được hiệu quả sản xuất cao.
4.2. Cơ hội cho phát triển nông nghiệp bền vững
Việt Nam là một nước nông nghiệp với hơn 70%
dân số hoạt động trong ngành. Lực lượng lao động
dồi dào đã đảm bảo cho ngành nông nghiệp luôn
giữ được mức tăng trưởng ổn định trong những năm
qua. Hơn nữa, người lao động luôn năng động sáng
tạo tìm tòi nghiên cứu ra các phương thức, cách thức
làm tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, góp
phần phát triển ngành nông nghiệp. Nhận thức của
người lao động không ngừng được nâng cao, họ đã
biết chú trọng đến phát triển nông nghiệp theo chiều
sâu, nhận thức được vai trò quan trọng của tính bền
vững trong phát triển nông nghiệp, từ đó, cải tạo
và thay đổi cách thức sản xuất đảm bảo cho nông
nghiệp phát triển bền vững.
Trong những năm gần đây, nhà nước ta luôn chú
trọng quan tâm đến sự phát triển của ngành nông
nghiệp. Quan điểm nhà nước là coi nông nghiệp là
ngành chủ đạo cho sự phát triển đất nước. Coi trọng
và đưa ra nhiều giải pháp để phát triển bền vững
ngành nông nghiệp. Điều này được thể hiện qua rất
nhiều văn bản và chính sách như trong chính sách đất
đai, đã hình thành quy hoạch đất đai nông nghiệp ổn
định, đồng bộ với quy hoạch dịch vụ, tổ chức khoa
học và công nghệ, thương mại, công nghiệp chế
biến... thành những cụm công - nông nghiệp. Giao
đất lâu dài cho nông dân, từ 50 - 70 năm. Thúc đẩy
mạnh mẽ tích tụ và tập trung ruộng đất để phát triển
mô hình nông nghiệp hiện đại, tập trung quy mô lớn
ở những vùng công nghiệp hóa và đô thị hóa mạnh,
lao động đã rút đáng kể ra khỏi nông nghiệp. Chính
sách đầu tư trong nông nghiệp cũng được chú trọng
triển khai. Đầu tư của doanh nghiệp trong nước cần
được khuyến khích trên cơ sở phát triển chuỗi nông
nghiệp hiện đại, gắn với nông dân, hình thành liên
kết chuỗi giữa nông dân và doanh nghiệp, xây dựng
quản trị bền vững toàn chuỗi về chất lượng, vệ sinh
an toàn thực phẩm, logistics, thương hiệu Chính
sách phát triển chuỗi ngành hàng nông sản cũng
được quan tâm chú trọng. Khuyến khích doanh
nghiệp Việt phân phối trực tiếp ở các chuỗi siêu thị
quốc tế, đa dạng sản phẩm, đa dạng thị trường, thúc
đẩy đầu tư ở phân khúc giá trị cao, chất lượng tốt, hạn
chế xuất khẩu thô
Thị trường xuất khẩu và thị trường nước ngoài
ngày càng đòi hỏi các tiêu chuẩn về chất lượng sản
phẩm từ nông nghiệp đặc biệt là sản phẩm sạch,
nhất là đối với tầng lớp trung lưu. Nhận thức của
người dân về bảo vệ môi trường ngày càng tăng, điều
này đã buộc các cơ sở sản xuất và kinh doanh phải
chú trọng hơn đến các sản phẩm “xanh” thân thiện
với môi trường. Đây là cơ hội lớn cho việc phát triển
nông nghiệp bền vững. Khi có thị trường, người tiêu
dùng chấp nhận bỏ chi phí cao hơn để có được sản
phẩm sạch thì thu nhập từ sản phẩm nông nghiệp
thân thiện với môi trường sẽ tăng cao, khích lệ người
dân phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững,
sản phẩm sạch thân thiện môi trường. Thời gian qua,
45Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
Việt Nam cũng đã có được những bước tiến trong sản
xuất nông nghiệp hữu cơ, đã khẳng định được vị thế
của mình ở những mặt hàng nông sản hữu cơ có tỷ
trọng lớn trên thị trường thế giới như cà phê, chè, rau
quả Điều này đòi hỏi nông nghiệp phải chuyển đổi
theo hướng bền vững thì mới tồn tại được.
4.3. Bên cạnh cơ hội thì cũng có không ít những
thách thức cho phát triển nông nghiệp bền vững
Thứ nhất, năng lực cạnh tranh ngành nông nghiệp
còn thấp, thị trường thiếu ổn định, còn phụ thuộc
nhiều vào các thị trường xuất khẩu truyền thống theo
con đường tiểu ngạch nên tiềm ẩn nhiều rủi ro. Mặc dù
đã có nhiều cố gắng nhưng nền nông nghiệp manh
mún, thiếu liên kết là một hạn chế lớn đối với nông
nghiệp Việt Nam. Điều này ảnh hưởng không nhỏ
đến chất lượng sản phẩm và gây khó khăn cho việc
đưa nông nghiệp phát triển gắn với thị trường hàng
hóa, làm giảm sức cạnh tranh của ngành nông nghiệp
trên cả thị trường nội địa lẫn thị trường xuất khẩu.
Thứ hai, việc tăng nhanh dân số tạo áp lực trong
việc giải quyết nhiều vấn đề xã hội như giải quyết việc
làm, cải thiện đời sống người dân; tạo ra gánh nặng
cho an ninh lương thực quốc gia. Dân số nước ta hiện
nay trên 90 triệu người, dự kiến đến năm 2020 sẽ
vào khoảng 100 triệu người. Vì vậy, nhu cầu về lương
thực, thực phẩm của nước ta sẽ tăng lên ít nhất 11%
- 12% so với hiện nay. Điều này đòi hỏi nông nghiệp
phải tăng nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng để đáp
ứng nhu cầu của người dân.
Thứ ba, biến đổi khí hậu đã và đang diễn ra ảnh
hưởng rất lớn đến nông nghiệp nước ta. Tình trạng
biến động về khí hậu trong thời gian qua là khá lớn,
nguy cơ về nước biển dâng đang đe dọa nghiêm
trọng đến các nước ven biển trong đó có Việt Nam.
Nếu nước biển dâng lên 1 m thì 9 tỉnh của Việt Nam,
bao gồm: Bến Tre, Long An, Trà Vinh, Sóc Trăng, Thành
phố Hồ Chí Minh, Vĩnh Long, Bạc Liêu, Tiền Giang và
Cần Thơ sẽ bị ngập từ 24,7% đến 50,1% diện tích trên
tổng số 11.475 km2; GDP của cả nước sẽ giảm ít nhất
10%, sản lượng lương thực giảm 12% (5 triệu tấn lúa).
Hơn nữa, thiên tai thường xuyên xảy ra như hạn hán,
bão lụt ở miền Trung, rét đậm rét hại ở miền Bắc đang
ngày càng diễn biến phức tạp, tăng cả về số lượng và
cường độ, điều này ảnh hưởng rất lớn đến sản lượng
và chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
Thứ tư, tăng trưởng nông nghiệp của Việt Nam
thời gian qua chủ yếu dựa trên thâm dụng tài nguyên
thiên nhiên. Điều này gây tác động xấu đến môi
trường, làm tăng mức độ ô nhiễm và suy yếu nguồn
tài nguyên thiên nhiên (rừng đước ven biển, tài
nguyên nước ngầm ở Tây Nguyên, nguồn lợi hải sản
ven bờ, đa dạng sinh học...). Môi trường ở nông thôn
chưa được quản lý tốt. Ô nhiễm nước thải, khí thải ở
các khu công nghiệp, làng nghề đang trực tiếp làm
suy thoái môi trường, gây nguy hiểm cho sinh kế bền
vững của người dân và cạn kiệt nguồn lợi thủy sản.
Đ.Q.T.
TÀI LIỆU THaM KHẢo
1. Suren G. Dutia. 2014. Challenges and opportunities for
sustainable growth. Ewing Marion Kauffman Foundation.
2. Hồ Đức Hùng. 2005. “Chuyển dịch cơ cấu sản xuất
nông nghiệp ở trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
ở tỉnh Vĩnh Long - Vấn đề và giải pháp”. Chuyên đề nghiên
cứu khoa học phục vụ Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần
thứ 8, tháng 10.2005, 13-14
3. Ministry of Agriculture. 2012. Country report Indonesia
agricultural machinery testing development. Indonesia:
Ministry of Agriculture.
4. Nguyễn Công Tạn. “Nghiên cứu Hà Lan: một nước
nhỏ, nghèo tài nguyên thiên nhiên đã xây dựng được một
nền nông nghiệp có sức cạnh tranh cao, phát triển bền
vững, có hiệu quả cao nhất thế giới”.
vn/Web/Content.aspx?distid=344
5. Đỗ Kim Chung, Kim Thị Dung. “Nông nghiệp Việt
Nam: những thách thức và một số định hướng cho phát
triển bền vững”. Kinh tế và Phát triển. Số 196/ 2013, 28 - 36.
6. Đinh Phi Hổ và Lê Thị Thanh Tùng. “Phát triển nông
nghiệp bền vững: nền tảng lý thuyết và gợi ý chính sách”.
Phát triển Kinh tế. Tháng 01.2002, 20.
7. Achim Dobermann, Rebecca Nelson. 2013. “Solutions
for Sustainable Agriculture and Food Systems”. Technical
report for the post-2015 development agenda.
8. Piyawan Suksri et al. 2008. Sustainable Agriculture
in Thailand - An Evaluation on the Sustainability in Ethanol
Production, Digital Asia Discussion Series. Academic Frontier
Project: Graduate school of Business and Commerce, Keio
University, Japan.
9. “Thế giới với vấn đề sa mạc và hoang mạc hóa”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
thach_thuc_va_co_hoi_trong_phat_trien_nong_nghiep_ben_vung.pdf