Thách thức và cơ hội trong phát triển nông nghiệp bền vững

Bên cạnh cơ hội thì cũng có không ít những thách thức cho phát triển nông nghiệp bền vững Thứ nhất, năng lực cạnh tranh ngành nông nghiệp còn thấp, thị trường thiếu ổn định, còn phụ thuộc nhiều vào các thị trường xuất khẩu truyền thống theo con đường tiểu ngạch nên tiềm ẩn nhiều rủi ro. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng nền nông nghiệp manh mún, thiếu liên kết là một hạn chế lớn đối với nông nghiệp Việt Nam. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng sản phẩm và gây khó khăn cho việc đưa nông nghiệp phát triển gắn với thị trường hàng hóa, làm giảm sức cạnh tranh của ngành nông nghiệp trên cả thị trường nội địa lẫn thị trường xuất khẩu. Thứ hai, việc tăng nhanh dân số tạo áp lực trong việc giải quyết nhiều vấn đề xã hội như giải quyết việc làm, cải thiện đời sống người dân; tạo ra gánh nặng cho an ninh lương thực quốc gia. Dân số nước ta hiện nay trên 90 triệu người, dự kiến đến năm 2020 sẽ vào khoảng 100 triệu người. Vì vậy, nhu cầu về lương thực, thực phẩm của nước ta sẽ tăng lên ít nhất 11% - 12% so với hiện nay. Điều này đòi hỏi nông nghiệp phải tăng nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng để đáp ứng nhu cầu của người dân. Thứ ba, biến đổi khí hậu đã và đang diễn ra ảnh hưởng rất lớn đến nông nghiệp nước ta. Tình trạng biến động về khí hậu trong thời gian qua là khá lớn, nguy cơ về nước biển dâng đang đe dọa nghiêm trọng đến các nước ven biển trong đó có Việt Nam. Nếu nước biển dâng lên 1 m thì 9 tỉnh của Việt Nam, bao gồm: Bến Tre, Long An, Trà Vinh, Sóc Trăng, Thành phố Hồ Chí Minh, Vĩnh Long, Bạc Liêu, Tiền Giang và Cần Thơ sẽ bị ngập từ 24,7% đến 50,1% diện tích trên tổng số 11.475 km2; GDP của cả nước sẽ giảm ít nhất 10%, sản lượng lương thực giảm 12% (5 triệu tấn lúa). Hơn nữa, thiên tai thường xuyên xảy ra như hạn hán, bão lụt ở miền Trung, rét đậm rét hại ở miền Bắc đang ngày càng diễn biến phức tạp, tăng cả về số lượng và cường độ, điều này ảnh hưởng rất lớn đến sản lượng và chất lượng sản phẩm nông nghiệp. Thứ tư, tăng trưởng nông nghiệp của Việt Nam thời gian qua chủ yếu dựa trên thâm dụng tài nguyên thiên nhiên. Điều này gây tác động xấu đến môi trường, làm tăng mức độ ô nhiễm và suy yếu nguồn tài nguyên thiên nhiên (rừng đước ven biển, tài nguyên nước ngầm ở Tây Nguyên, nguồn lợi hải sản ven bờ, đa dạng sinh học.). Môi trường ở nông thôn chưa được quản lý tốt. Ô nhiễm nước thải, khí thải ở các khu công nghiệp, làng nghề đang trực tiếp làm suy thoái môi trường, gây nguy hiểm cho sinh kế bền vững của người dân và cạn kiệt nguồn lợi thủy sản.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thách thức và cơ hội trong phát triển nông nghiệp bền vững, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
40 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Nghiên cứu - Trao đổi 1. Đặt vấn đề Nông nghiệp ngày càng khẳng định vị trí quan trọng của mình trong tiến trình xây dựng, đổi mới và phát triển đất nước. Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững là vấn đề đang được đặt ra không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Một nền nông nghiệp vững mạnh phải là nền nông nghiệp phát triển đạt được những chỉ tiêu kinh tế quan trọng, tạo nguồn thu nhập cao cho người nông dân, có cơ cấu hợp lý và không nguy hại đến môi trường. Để vươn tới một nền nông nghiệp vững mạnh thì vấn đề phát triển bền vững đang là vấn đề bức thiết hiện nay đối với nông nghiệp Việt Nam. Trong khuôn khổ bài viết này, nhóm tác giả sẽ làm rõ những vấn đề lý luận về phát triển nông nghiệp bền vững, rút ra một số kinh nghiệm từ các nước trên thế giới, đồng thời, đưa ra những đánh giá về cơ hội và thách thức cho phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam. 2. Quan điểm về phát triển nông nghiệp bền vững Douglass (thập niên 80 của thế kỷ XX) cho rằng: tùy từng khía cạnh khác nhau mà nông nghiệp bền vững được hiểu khác nhau: Trên khía cạnh kinh tế kỹ thuật, ông cho rằng tăng trưởng nông nghiệp bền vững nhấn mạnh đến việc duy trì tăng năng suất lao động trong dài hạn; còn trên khía cạnh sinh thái thì một hệ thống nông nghiệp làm suy yếu, ô nhiễm, phá vỡ cân bằng sinh thái của hệ thống tự nhiên một cách không cần thiết thì hệ thống nông nghiệp đó không bền vững; Trên khía cạnh môi trường con người, quan điểm của ông là một hệ thống nông nghiệp không cải thiện được trình độ giáo dục, sức khỏe và dinh THÁCH THỨC VÀ CƠ HỘI TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG ? ĐÀo QUYẾT THắNG* * NCS.ThS., Trường Đại học Quy Nhơn. dưỡng của người dân nông thôn thì hệ thống đó không được gọi là bền vững. Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới (1987) đưa ra định nghĩa: “Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được những nhu cầu hiện tại nhưng không làm tổn thương năng lực đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai”. Pearce và Turner (1990) cho rằng: “Phát triển nông nghiệp bền vững là tối đa hóa lợi ích của phát triển kinh tế trên cơ sở ràng buộc về duy trì chất lượng của nguồn lực tự nhiên theo thời gian”. FAO (1989) đưa ra khái niệm được cho là hoàn chỉnh nhất: “Phát triển bền vững là việc quản lý và bảo tồn cơ sở tài nguyên thiên nhiên, định hướng thay đổi công nghệ và thể chế theo hướng một phương thức sao cho đạt đến sự thỏa mãn một cách liên tục những nhu cầu của con người, của những thế hệ hôm nay và mai sau. Sự phát triển như vậy trong lĩnh vực nông nghiệp (nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản) chính 41Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Nghiên cứu - Trao đổi là sự bảo tồn đất, nước các nguồn gen và thực vật, không bị suy thoái môi trường, kỹ thuật thích hợp, sinh lợi kinh tế và chấp nhận về mặt xã hội”. Dựa vào các quan điểm về phát triển nông nghiệp bền vững có thể thấy rằng: Việc phát triển nông nghiệp bền vững thể hiện mối quan hệ giữa tăng trưởng nông nghiệp với môi trường tự nhiên, với nghèo đói và với môi trường con người ở nông thôn. Để hiểu được bản chất của nông nghiệp bền vững thì cần hiểu rõ các mối quan hệ này. Theo Haen (1991), tất cả các dạng, hình thức của sản xuất nông nghiệp đều liên quan đến sự biến đổi của một hệ sinh thái. Với quan điểm này thì rõ ràng việc phát triển nông nghiệp không ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên chỉ là lý thuyết. Việc phát triển nông nghiệp phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên như độ màu mỡ của đất đai, thời tiết, khí hậu, chính vì vậy, phát triển nông nghiệp bền vững chính là tăng trưởng nông nghiệp gắn với bảo vệ môi trường tự nhiên. Điều này đòi hỏi phải cân bằng giữa lợi ích của sản xuất nông nghiệp với lợi ích của bảo vệ môi trường tự nhiên, đảm bảo cân bằng sinh thái bền vững. Theo Rao C.H.H. và Chopra K. (1991), đề cập đến mối quan hệ giữa tăng trưởng nông nghiệp - suy thoái môi trường - nghèo đói nông thôn. Quan điểm này thể hiện mối quan hệ nhân quả giữa cách thức tăng trưởng nông nghiệp với suy thoái môi trường. Nếu tăng trưởng nông nghiệp theo hình thức quảng canh, việc tăng trưởng chủ yếu dựa vào bóc lột chất dinh dưỡng tự nhiên trong đất, mở rộng diện tích chủ yếu từ lấn diện tích rừng, điều này chỉ giúp tăng trưởng trong ngắn hạn, còn dài hạn thì khi môi trường tự nhiên bị suy thoái sẽ dẫn đến năng suất thấp, thu nhập thấp, thất nghiệp và nghèo đói ở khu vực nông thôn lại càng trở nên nghiêm trọng hơn. Còn nếu tăng trưởng nông nghiệp theo hình thức thâm canh, việc tăng trưởng chủ yếu dựa vào khoa học kỹ thuật, điều này rất dễ dẫn đến tình trạng lạm dụng hóa chất để tăng trưởng gây tổn hại nghiêm trọng đến tài nguyên đất và nước, khi môi trường bị suy thoái thì năng suất sẽ thấp. Thất nghiệp và nghèo đói ở khu vực nông thôn là khó tránh khỏi. Shepherd A (1998) cho rằng: ngay cả khi áp dụng khoa học kỹ thuật sản xuất mà đảm bảo được cân bằng sinh thái vẫn dẫn đến tình trạng đói nghèo. Quan điểm này thể hiện sự khác biệt giữa trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật và hiệu quả của nó ở các địa phương có điều kiện tự nhiên khác nhau. Việc áp dụng khoa học kỹ thuật đòi hỏi vốn đầu tư lớn, mặt khác hiệu quả của sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng rất lớn từ yếu tố tự nhiên. Điều này dẫn đến rủi ro tăng cao trong đầu tư sản xuất nông nghiệp. Khi thu nhập từ sản xuất nông nghiệp không đủ nuôi sống, người dân nông thôn sẽ bất chấp tất cả khai thác trái phép nguồn lợi tự nhiên như phá rừng lấy gỗ, săn bắt thú quý hiếm gây tổn hại nghiêm trọng đến môi trường tự nhiên, điều này dẫn đến biến đổi khí hậu theo chiều hướng xấu, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp. Do đó, một hệ thống nông nghiệp không đảm bảo được mức sống trên mức nghèo đói của người dân nông thôn thì không thể là một hệ thống nông nghiệp bền vững. Strauss (1986), Haddad và Bouis (1991) cho rằng, tăng trưởng nông nghiệp và cải thiện môi trường sức khỏe - dinh dưỡng thường có ảnh hưởng tương hỗ. Khi nông nghiệp phát triển tạo thu nhập cho người dân, góp phần cải thiện đời sống vật chất tinh thần cho người dân, sản phẩm từ nông nghiệp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dân. Nếu sản xuất nông nghiệp quá lạm dụng thuốc hóa học sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người dân, là nguồn cơ của các căn bệnh nguy hiểm. Một khi đời sống của người dân làm nông nghiệp không được đảm bảo, họ sẽ từ bỏ nông nghiệp, điều này sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng nông nghiệp, đe dọa nghiêm trọng đến an ninh lương thực quốc gia. Như vậy, nông nghiệp bền vững là một nền nông nghiệp trong đó các hoạt động của các tổ chức kinh tế từ việc lập kế hoạch, thực hiện và quản lý các quá trình sản xuất, kinh doanh nông nghiệp đều hướng đến bảo vệ và phát huy lợi ích của con người và xã hội trên cơ sở duy trì và phát huy nguồn lực, tối thiểu hóa chi phí để sản xuất hiệu quả các sản phẩm nông nghiệp và hạn chế tác hại của môi trường, trong khi duy trì và không ngừng nâng cao thu nhập cho người nông dân. Nông nghiệp bền vững đề cập một cách toàn diện và tổng hợp đến cả 3 khía cạnh là kinh tế - xã hội, môi trường và con người: Bền vững về kinh tế - xã hội trong nông nghiệp: là quá trình giảm chi phí đầu vào, nâng cao thu nhập cho người nông dân trên cơ sở thỏa mãn tốt nhất nhu cầu xã hội về nông sản. Bền vững về môi trường trong nông nghiệp: là quá trình tác động hợp lý của con người đối với các yếu 42 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Nghiên cứu - Trao đổi tố tự nhiên nhằm giảm thiểu tác hại của môi trường, bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên và đa dạng sinh học. Bền vững về con người trong nông nghiệp: là quá trình xây dựng và phát triển các giá trị như: mối quan hệ xã hội, vấn đề sức khỏe, văn hóa, tinh thần của con người. 3. Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp bền vững của các nước trên thế giới 3.1. Kinh nghiệm của Indonesia Indonesia có truyền thống phát triển nông nghiệp theo mô hình trang trại với tên gọi “aqua-terra” (Phạm Văn Khôi, 2004). Trong mô hình này, cây trồng vật nuôi được phát triển theo công nghệ sản xuất kết hợp giữa phương pháp tăng vụ truyền thống và phương pháp thâm canh theo chiều sâu. Tác giả Masdjidin Siregar và Muhammad Suryadi (2006) cũng khẳng định về mô hình “aqua-terra” - đó là phát triển sản xuất gắn với tăng cường hệ thống chế biến và mở rộng thị trường tiêu thụ nông - lâm - thủy sản; đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi và cơ cấu kinh tế nông thôn; chú trọng nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Để thực hiện được mô hình này, Indonesia đã tăng cường hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn như hệ thống giao thông nông thôn, hệ thống thông tin và các dịch vụ xã hội khác để tăng cường đào tạo nguồn nhân lực ở nông thôn. Bên cạnh việc thực hiện tốt về mặt kinh tế và xã hội, Indonesia cũng quan tâm đến biện pháp chống suy thoái đất có hiệu quả và bền vững tài nguyên sinh vật trên cơ sở áp dụng các mô hình canh tác hợp lý trên từng loại địa hình. Thực tế cho thấy, sự phát triển nông nghiệp bền vững của Indonesia đã giúp nước này đạt được sản lượng lúa 10 triệu tấn/năm. Để đạt được thành tựu kể trên, chính phủ Indonesia đã thực hiện trợ cấp chuyển giao công nghệ kỹ thuật phù hợp, phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất, tăng vốn đầu tư và nâng cao kiến thức chuyên môn và thông tin thị trường cho người nông dân. Trong đó, việc sử dụng máy móc trong sản xuất nông nghiệp vừa đạt được năng suất cao vừa hạn chế tình trạng thất thoát lãng phí, làm giảm nguy cơ ô nhiễm và cạn kiệt nguồn nước (Ministry of Agriculture, 2012). 3.2. Kinh nghiệm của Hà Lan Hà Lan là một nước nhỏ ở Tây Âu, vùng đồng bằng cửa sông Rhine, nhiều nơi thấp hơn mực nước biển. Hà Lan là nước phát triển ở trình độ cao, đạt nhiều thành tựu kinh tế - xã hội nổi tiếng thế giới, trong đó có sự phát triển hạ tầng thủy lợi với những công trình vĩ đại đê biển và cửa sông. Lao động nông nghiệp chiếm 3,6% số lao động xã hội, tỷ trọng nông nghiệp chiếm 3% GDP. Những thành tựu nông nghiệp của Hà Lan được thế giới hâm mộ, có liên quan đến cơ cấu sản xuất nông nghiệp Hà Lan. Nếu không tính đồ uống, thuốc lá, thủy sản thì hàng nông sản xuất khẩu quan trọng nhất của Hà Lan gồm 3 lĩnh vực: sản phẩm hoa - rau - cây cảnh; thịt; sữa và trứng. Ở Hà Lan, nền nông nghiệp được đầu tư kết cấu hạ tầng rất lớn. Vì thiếu đất canh tác, Hà Lan thực thi chiến lược “đầu tư cao - sản xuất nhiều”, là một đặc trưng nổi bật của nền nông nghiệp nước này. Hệ thống thủy lợi và phòng chống lũ có tiêu chuẩn an toàn cao như đập ngăn mặn ở cửa biển Zuiderzee tạo nên hồ nước ngọt lớn Ijsselmeer... Công trình “tam giác châu” hoàn thành, đã làm cho đê chống lũ, đê sông nội đồng có chiều dài tới 2.800 km, đạt tiêu chuẩn an toàn cao nhất thế giới. Mạng lưới kênh rạch chằng chịt bảo vệ đồng ruộng, đảm bảo đồng ruộng dù thấp hơn mực nước biển tới 4 - 6 m vẫn được sản xuất theo công nghệ cao, được coi là kỳ quan của thế giới. Diện tích nhà kính lớn, nhà kính tập trung liền vùng, thiết bị hiện đại, như một thế giới của “thành phố nhà kính”, đã sản xuất ra những loại hoa, rau, củ, giống hoa tulip cung cấp cho loài người. Đạt được những thành tựu lớn như vậy trong nông nghiệp là nhờ Hà Lan biết: Thứ nhất, phát huy lợi thế so sánh của đất nước, biết khai thác nguồn lực về tài nguyên thế giới, xây dựng và kịp thời điều chỉnh cơ cấu sản xuất hướng tới tối ưu hóa, đảm bảo ngành nông nghiệp đạt hiệu quả cao. Tài nguyên thiên nhiên về nông nghiệp của Hà Lan thiếu hụt. Đất ít lại trũng, thường xuyên bị uy hiếp bởi ngập lụt, nhưng Hà Lan đã tìm tòi, tự khẳng định những lợi thế so sánh của chính mình để phát triển nền nông nghiệp theo chiến lược của một nền nông nghiệp hướng ra xuất khẩu. Thứ hai, phát triển kết cấu hạ tầng và áp dụng thành tựu cao và mới về khoa học - công nghệ. Kết cấu hạ tầng là cơ sở vật chất của kỳ tích nông nghiệp Hà Lan, đảm bảo nền nông nghiệp phát triển bền vững. Thứ ba, sức sống mãnh liệt của trang trại nông nghiệp gắn với các tổ chức mạnh của nông dân, được vận hành trong một cơ chế thông thoáng, hiệu quả. 43Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Nghiên cứu - Trao đổi Sức sống của kinh tế trang trại nông nghiệp Hà Lan bắt nguồn từ những đặc trưng như phần lớn kinh tế trang trại của nông dân là trang trại gia đình; các trang trại được tích tụ ruộng đất để có quy mô đủ lớn, gắn liền với quá trình tạo việc làm phi nông nghiệp, đủ sức thu hút nông dân “ly nông”, giảm thiểu nhanh số lượng nông dân và giải thể các trang trại nhỏ, làm ăn kém hiệu quả; Sản xuất kinh doanh của trang trại có trình độ chuyên môn hóa cao. Thứ tư, việc phát huy được vai trò quan trọng của tổ chức Hợp tác xã và các Hiệp hội ngành nghề của nông dân đã góp phần quan trọng vào phát triển bền vững nông nghiệp nước này. Các loại Hiệp hội ngành nghề và Hiệp hội thương mại, trong đó Hiệp hội ngành hàng là tổ chức ngang của trang trại nhằm liên kết các bộ môn của trang trại, còn Hiệp hội hàng hóa coi như tổ chức ngành dọc, liên kết khâu cung ứng nguyên liệu đến tiêu thụ sản phẩm của trang trại. Thứ năm, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao tố chất nông dân mang bản sắc Hà Lan: căn cơ, giỏi buôn bán, năng động và sáng tạo. Lịch sử phát triển đất nước đã tạo cho người Hà Lan nói chung, và nông dân Hà Lan nói riêng những bản lĩnh rất đặc thù với những tố chất rất đáng quý, đó là “tài nguyên” quan trọng nhất để nâng cao sức cạnh tranh, đảm bảo nền nông nghiệp hàng hóa Hà Lan phát triển bền vững. Thứ sáu, nâng cao hiệu lực của quản lý Nhà nước về cơ chế, chính sách. “Kỳ tích” nền nông nghiệp Hà Lan có quan hệ trực tiếp đến vai trò của Nhà nước. Một cơ chế, chính sách có hiệu quả là cơ chế, chính sách khuyến khích các nhà sản xuất kinh doanh, cải thiện và tối ưu hóa sử dụng các nguồn lực để nâng cao sức cạnh tranh, làm tốt các dịch vụ công, có nghĩa là đảm bảo cung ứng tốt các dịch vụ công và các sản phẩm công cộng mà cơ chế thị trường không đáp ứng được (chẳng hạn một môi trường an ninh, trật tự trong nước, môi trường hòa bình thế giới), từ đó gia tăng khả năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. 3.3. Kinh nghiệm của Thái Lan Thái Lan là một nước nông nghiệp. Nông nghiệp Thái Lan trong hàng thập kỷ qua đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế. Không những góp phần tăng trưởng kinh tế, đảm bảo chất lượng cuộc sống cho người dân mà còn bảo vệ môi trường sinh thái hiệu quả. Cũng như Việt Nam, Thái Lan đã và đang triển khai, thực hiện tốt chiến lược quy hoạch phát triển nông nghiệp nông thôn đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững nông nghiệp. Đồng thời, Thái Lan cũng áp dụng những tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và thu được kết quả khả quan như: năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt, giải quyết được việc làm và tăng thu nhập cho nông dân, góp phần xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường hiệu quả (Viboon Thepent và Anucit Chamsing, 2009). Tác giả Sachika Hirokawa (2010) đề cập đến sự thành công của nông nghiệp Thái Lan - đó là phát triển bền vững về khía cạnh môi trường. Nông dân đã đề ra phương án sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ. Nghĩa là cây trồng được chăm sóc bằng phân bón hữu cơ là chủ yếu, giảm phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật. Nông dân ở các vùng đã thành lập nhóm sản xuất phân hữu cơ nhằm tạo ra sản phẩm phân bón chất lượng cao, có hiệu quả kinh tế, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, tăng thu nhập và bảo vệ môi trường. 4. Thách thức và cơ hội trong phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam 4.1. Thành tựu trong phát triển nông nghiệp Trong gần 30 năm đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đạt được mức tăng trưởng nhanh và ổn định trong một thời gian dài, cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực. Nông nghiệp cung cấp sinh kế cho 9,53 triệu hộ dân nông thôn và 68,2% số dân (60 triệu người), đóng góp 18% - 22% GDP cho nền kinh tế và 23% - 35% giá trị xuất khẩu. Nền nông nghiệp Việt Nam phát triển dựa trên các quy hoạch cụ thể cho từng vùng theo hướng linh 44 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Nghiên cứu - Trao đổi hoạt góp phần phát huy lợi thế so sánh của từng vùng đồng thời cũng khắc phục những hạn chế của điều kiện tự nhiên. Công tác đầu tư công cho nông nghiệp cũng đã được chú trọng và đạt được những thành tựu, chính sách ưu đãi đầu tư góp phần thu hút các doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất nông nghiệp, tạo điều kiện hỗ trợ sản xuất nông nghiệp phát triển bền vững (Đỗ Kim Chung, 2009; Hoàng Thị Chỉnh, 2010). Mặt khác, để phát triển công nghiệp chế biến, mở rộng quy mô khắc phục tình trạng sản xuất nhỏ lẻ manh mún thì Chính phủ đã chú trọng đầu tư công, hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, áp dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất, thực hiện liên kết 4 nhà - Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nông. Về mặt xã hội, nông dân được khuyến khích tham gia vào các hợp tác xã và các hội nông dân, luôn giúp đỡ nhau trong quá trình sản xuất, trình độ kỹ thuật và kiến thức thị trường cũng được nâng cao thông qua chương trình đào tạo nghề, tập huấn do trung tâm khuyến nông và các tổ chức hội thực hiện. Chính sách phát triển các làng nghề cũng được chú trọng nhằm nâng cao thu nhập cho người dân. Những điều này đã góp phần không nhỏ vào phát triển bền vững ngành nông nghiệp. Về môi trường, những năm gần đây, nhận thức của người nông dân về tác hại của ô nhiễm môi trường ngày càng được nâng cao, ý thức bảo vệ môi trường và các hoạt động góp phần cải thiện môi trường được áp dụng rộng rãi. Thói quen, tập quán sản xuất gây ô nhiễm môi trường đã dần dần được bãi bỏ (Phạm Văn Án, 2010; Hoàng Thị Chỉnh, 2010; Phạm Văn Lái, 2011). Quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) và vận động lắp đặt hệ thống biogas được tuyên truyền rộng rãi qua nhiều kênh. Điều này đã giúp nông dân tiếp cận được những phương pháp canh tác mới ít nguy hại đến môi trường nhưng đạt được hiệu quả sản xuất cao. 4.2. Cơ hội cho phát triển nông nghiệp bền vững Việt Nam là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số hoạt động trong ngành. Lực lượng lao động dồi dào đã đảm bảo cho ngành nông nghiệp luôn giữ được mức tăng trưởng ổn định trong những năm qua. Hơn nữa, người lao động luôn năng động sáng tạo tìm tòi nghiên cứu ra các phương thức, cách thức làm tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, góp phần phát triển ngành nông nghiệp. Nhận thức của người lao động không ngừng được nâng cao, họ đã biết chú trọng đến phát triển nông nghiệp theo chiều sâu, nhận thức được vai trò quan trọng của tính bền vững trong phát triển nông nghiệp, từ đó, cải tạo và thay đổi cách thức sản xuất đảm bảo cho nông nghiệp phát triển bền vững. Trong những năm gần đây, nhà nước ta luôn chú trọng quan tâm đến sự phát triển của ngành nông nghiệp. Quan điểm nhà nước là coi nông nghiệp là ngành chủ đạo cho sự phát triển đất nước. Coi trọng và đưa ra nhiều giải pháp để phát triển bền vững ngành nông nghiệp. Điều này được thể hiện qua rất nhiều văn bản và chính sách như trong chính sách đất đai, đã hình thành quy hoạch đất đai nông nghiệp ổn định, đồng bộ với quy hoạch dịch vụ, tổ chức khoa học và công nghệ, thương mại, công nghiệp chế biến... thành những cụm công - nông nghiệp. Giao đất lâu dài cho nông dân, từ 50 - 70 năm. Thúc đẩy mạnh mẽ tích tụ và tập trung ruộng đất để phát triển mô hình nông nghiệp hiện đại, tập trung quy mô lớn ở những vùng công nghiệp hóa và đô thị hóa mạnh, lao động đã rút đáng kể ra khỏi nông nghiệp. Chính sách đầu tư trong nông nghiệp cũng được chú trọng triển khai. Đầu tư của doanh nghiệp trong nước cần được khuyến khích trên cơ sở phát triển chuỗi nông nghiệp hiện đại, gắn với nông dân, hình thành liên kết chuỗi giữa nông dân và doanh nghiệp, xây dựng quản trị bền vững toàn chuỗi về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, logistics, thương hiệu Chính sách phát triển chuỗi ngành hàng nông sản cũng được quan tâm chú trọng. Khuyến khích doanh nghiệp Việt phân phối trực tiếp ở các chuỗi siêu thị quốc tế, đa dạng sản phẩm, đa dạng thị trường, thúc đẩy đầu tư ở phân khúc giá trị cao, chất lượng tốt, hạn chế xuất khẩu thô Thị trường xuất khẩu và thị trường nước ngoài ngày càng đòi hỏi các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm từ nông nghiệp đặc biệt là sản phẩm sạch, nhất là đối với tầng lớp trung lưu. Nhận thức của người dân về bảo vệ môi trường ngày càng tăng, điều này đã buộc các cơ sở sản xuất và kinh doanh phải chú trọng hơn đến các sản phẩm “xanh” thân thiện với môi trường. Đây là cơ hội lớn cho việc phát triển nông nghiệp bền vững. Khi có thị trường, người tiêu dùng chấp nhận bỏ chi phí cao hơn để có được sản phẩm sạch thì thu nhập từ sản phẩm nông nghiệp thân thiện với môi trường sẽ tăng cao, khích lệ người dân phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, sản phẩm sạch thân thiện môi trường. Thời gian qua, 45Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Nghiên cứu - Trao đổi Việt Nam cũng đã có được những bước tiến trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ, đã khẳng định được vị thế của mình ở những mặt hàng nông sản hữu cơ có tỷ trọng lớn trên thị trường thế giới như cà phê, chè, rau quả Điều này đòi hỏi nông nghiệp phải chuyển đổi theo hướng bền vững thì mới tồn tại được. 4.3. Bên cạnh cơ hội thì cũng có không ít những thách thức cho phát triển nông nghiệp bền vững Thứ nhất, năng lực cạnh tranh ngành nông nghiệp còn thấp, thị trường thiếu ổn định, còn phụ thuộc nhiều vào các thị trường xuất khẩu truyền thống theo con đường tiểu ngạch nên tiềm ẩn nhiều rủi ro. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng nền nông nghiệp manh mún, thiếu liên kết là một hạn chế lớn đối với nông nghiệp Việt Nam. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng sản phẩm và gây khó khăn cho việc đưa nông nghiệp phát triển gắn với thị trường hàng hóa, làm giảm sức cạnh tranh của ngành nông nghiệp trên cả thị trường nội địa lẫn thị trường xuất khẩu. Thứ hai, việc tăng nhanh dân số tạo áp lực trong việc giải quyết nhiều vấn đề xã hội như giải quyết việc làm, cải thiện đời sống người dân; tạo ra gánh nặng cho an ninh lương thực quốc gia. Dân số nước ta hiện nay trên 90 triệu người, dự kiến đến năm 2020 sẽ vào khoảng 100 triệu người. Vì vậy, nhu cầu về lương thực, thực phẩm của nước ta sẽ tăng lên ít nhất 11% - 12% so với hiện nay. Điều này đòi hỏi nông nghiệp phải tăng nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng để đáp ứng nhu cầu của người dân. Thứ ba, biến đổi khí hậu đã và đang diễn ra ảnh hưởng rất lớn đến nông nghiệp nước ta. Tình trạng biến động về khí hậu trong thời gian qua là khá lớn, nguy cơ về nước biển dâng đang đe dọa nghiêm trọng đến các nước ven biển trong đó có Việt Nam. Nếu nước biển dâng lên 1 m thì 9 tỉnh của Việt Nam, bao gồm: Bến Tre, Long An, Trà Vinh, Sóc Trăng, Thành phố Hồ Chí Minh, Vĩnh Long, Bạc Liêu, Tiền Giang và Cần Thơ sẽ bị ngập từ 24,7% đến 50,1% diện tích trên tổng số 11.475 km2; GDP của cả nước sẽ giảm ít nhất 10%, sản lượng lương thực giảm 12% (5 triệu tấn lúa). Hơn nữa, thiên tai thường xuyên xảy ra như hạn hán, bão lụt ở miền Trung, rét đậm rét hại ở miền Bắc đang ngày càng diễn biến phức tạp, tăng cả về số lượng và cường độ, điều này ảnh hưởng rất lớn đến sản lượng và chất lượng sản phẩm nông nghiệp. Thứ tư, tăng trưởng nông nghiệp của Việt Nam thời gian qua chủ yếu dựa trên thâm dụng tài nguyên thiên nhiên. Điều này gây tác động xấu đến môi trường, làm tăng mức độ ô nhiễm và suy yếu nguồn tài nguyên thiên nhiên (rừng đước ven biển, tài nguyên nước ngầm ở Tây Nguyên, nguồn lợi hải sản ven bờ, đa dạng sinh học...). Môi trường ở nông thôn chưa được quản lý tốt. Ô nhiễm nước thải, khí thải ở các khu công nghiệp, làng nghề đang trực tiếp làm suy thoái môi trường, gây nguy hiểm cho sinh kế bền vững của người dân và cạn kiệt nguồn lợi thủy sản. Đ.Q.T. TÀI LIỆU THaM KHẢo 1. Suren G. Dutia. 2014. Challenges and opportunities for sustainable growth. Ewing Marion Kauffman Foundation. 2. Hồ Đức Hùng. 2005. “Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở tỉnh Vĩnh Long - Vấn đề và giải pháp”. Chuyên đề nghiên cứu khoa học phục vụ Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ 8, tháng 10.2005, 13-14 3. Ministry of Agriculture. 2012. Country report Indonesia agricultural machinery testing development. Indonesia: Ministry of Agriculture. 4. Nguyễn Công Tạn. “Nghiên cứu Hà Lan: một nước nhỏ, nghèo tài nguyên thiên nhiên đã xây dựng được một nền nông nghiệp có sức cạnh tranh cao, phát triển bền vững, có hiệu quả cao nhất thế giới”. vn/Web/Content.aspx?distid=344 5. Đỗ Kim Chung, Kim Thị Dung. “Nông nghiệp Việt Nam: những thách thức và một số định hướng cho phát triển bền vững”. Kinh tế và Phát triển. Số 196/ 2013, 28 - 36. 6. Đinh Phi Hổ và Lê Thị Thanh Tùng. “Phát triển nông nghiệp bền vững: nền tảng lý thuyết và gợi ý chính sách”. Phát triển Kinh tế. Tháng 01.2002, 20. 7. Achim Dobermann, Rebecca Nelson. 2013. “Solutions for Sustainable Agriculture and Food Systems”. Technical report for the post-2015 development agenda. 8. Piyawan Suksri et al. 2008. Sustainable Agriculture in Thailand - An Evaluation on the Sustainability in Ethanol Production, Digital Asia Discussion Series. Academic Frontier Project: Graduate school of Business and Commerce, Keio University, Japan. 9. “Thế giới với vấn đề sa mạc và hoang mạc hóa”.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthach_thuc_va_co_hoi_trong_phat_trien_nong_nghiep_ben_vung.pdf
Tài liệu liên quan