Sau ghép thận, tâm lý và sức khỏe người
bệnh phục hồi khá tốt. Nếu chức năng thận
phục hồi tốt, huyết áp, đường huyết, nồng độ
thuốc ức chế miễn dịch (UCMD) ổn định, người
bệnh kể cả nam lẫn nữ đều có thể có con. Tuy
nhiên ở người nữ sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến
thai nhi, và chức năng thận ghép nhiều hơn nam
giới, nên cần phải có chế độ theo dõi riêng. Có
thai sau ghép tối thiểu 2 năm, chức năng thận
trước khi mang thai dưới 1,5mg%, không chế tốt
huyết áp, đạm niệu âm tính, thì có thể đạt được
kết quả tốt “mẹ tròn, con vuông”.
5 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 493 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thai kỳ sau ghép thận tại bệnh viện Chợ Rẫy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 233
THAI KỲ SAU GHÉP THẬN TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Dư Thị Ngọc Thu*, Thái Minh Sâm*, Hoàng Khắc Chuẩn*, Nguyễn Thị Thái Hà*, Nguyễn Trọng Hiền*,
Phạm Đình Thy Phong*, Bùi Đức Cẩm Hồng*, Trần Thị Bích Hương*, Phạm Duy Tài**, Nguyễn Thị
Hồng Vân***, Trương Quốc Việt***, Phạm Việt Thanh***, Huỳnh Thanh Hùng****,
Bùi Thị Thủy Tiên****, Cam Thị Ngọc Phượng*****, Trần Ngọc Sinh*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Sự thành công của việc ghép thận đã có những thay đổi rất lớn làm cải thiện khả năng sinh sản
của cả người nam và nữ bị suy thận mạn giai đoạn cuối (STMGĐC). Tuy nhiên, thai kỳ cũng là một trong
những nguy cơ ảnh hưởng đến chức năng và đời sống của thận ghép. Do đó, người bệnh sau ghép có ý định sinh
con cần có ý kiến của bác sĩ điều trị sau ghép, để hạn chế những biến chứng có thể xảy ra.
Bệnh nhân và phương pháp: Nghiên cứu trường hợp lâm sàng đối với tất cả các trường hợp (TH) sau
ghép thận đang được theo dõi sau ghép tại Bệnh viện Chợ Rẫy (BVCR), thời gian từ 1992-2010.
Kết quả: 19 TH nam có 1 con, 5 TH nam có 2 con, 1 TH nam sinh đôi sau ghép thận. Có 3 TH nữ có thai
sau ghép (1TH sau ghép 21 tháng, 2TH sau ghép 3 năm)
Kết luận: Sau ghép thận, tâm lý và sức khỏe người bệnh phục hồi khá tốt. Nếu chức năng thận phục hồi tốt,
huyết áp, đường huyết, nồng độ thuốc ức chế miễn dịch ở chế độ duy trì, người bệnh kể cả nam lẫn nữ đều có thể
có con.
Từ khóa: Có con sau ghép thận, Thai kỳ sau ghép thận
SUMMARY
PREGNANCY AFTER KIDNEY TRANSPLANTATION: SURVEILLANCE POST RENAL TRANSPLANT
AT CHO RAY HOSPITAL
Du Thi Ngoc Thu, Thai Minh Sam, Hoang Khac Chuan, Nguyen Thi Thai Ha, Chau Thi Hoa,
Pham Đinh Thy Phong, Bui Đuc Cam Hong, Pham Duy Tai, Nguyen Thi Hong Van, Truong Quoc Viet,
Pham Viet Thanh, Huynh Thanh Hung, Bui Thi Thuy Tien, Cam Thi Ngoc Phương,Tran Ngoc Sinh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 233 - 237
Background: Kidney transplantation significantly improves the quality of life of the end stage renal disease
(ESRD) patients. The reproductive possibility of the post transplant patients is an important result. We report
some results on these topics.
Patients and Methods: case studies on post transplant patients (pts) from 1992 to 2010 in Cho Ray
Hospital.
Results: 19 male’s patients have babies, 5 pts have 2 babies, 1pt has twin birth. All infants were healthy
when the birth. Three women’s patients were pregnant after kidney transplantation (1pts after the
transplantation 21 momths, 2 pts after 36 months
Conclusions: With kidney transplantation, the health of the pts recovered and could have baby. But the
female pts have to respect more the advice of physician if she want to be pregnant; the recommendadion is 2 year
* Bệnh viện Chợ Rẫy; ** Bệnh viện Hùng Vương; *** Bệnh Viện Phụ Sản Từ Dũ, **** Khoa Sơ Sinh Bệnh viện
Hùng Vương, ***** Khoa Sơ Sinh Bệnh Viện Nhi Đồng I
Tác giả liên lạc: BSCKII Dư Thị Ngọc Thu ĐT: 0913 677 016 Email: duthingocthubvcr@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 234
post transplantation and an instable status was dangerous for both baby and mother.
Key words: Pregnancy and renal transplantation, reproductive possibility of the post transplant patients.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ghép thận đã giúp cho bệnh nhân suy thận
mạn giai đoạn cuối trở lại cuộc sống sinh hoạt
gần như bình thường. Giải tỏa được tâm lý bệnh
tật, năng động trong cuộc sống, những thay đổi
này làm cải thiện khả năng sinh sản của cả
người nam và nữ sau khi ghép thận. Nghiên cứu
sau đây trình bày về kết quả các trường hợp sinh
con sau ghép.
TƯ LIỆU - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tiền cứu đối với tất cả các
trường hợp (TH) bệnh nhân sau ghép thận
được theo dõi sau ghép tại Bệnh viện Chợ Rẫy
(BVCR) thời gian từ 1992-2010. Bệnh nhân
được điều chỉnh thuốc ức chế miễn dịch
(ƯCMD) theo diễn tiến riêng từng người. Ba
loại thuốc ƯCMD căn bản là: Tacrolimus
(FK506), Cyclosporine A (CsA), Prednisolone
(Pred) và Mycophenolate Mofetil (MMF),
Azatioprine (AZA) được dùng. Sinh hoạt tình
dục với vợ hoặc chồng bình thường.
KẾT QUẢ
Tổng số TH sau ghép: 485 bệnh nhân sau
ghép từ nhiều người ghép khác nhau (tử thi,
người cho sống).
Bệnh nhân nam
Có 25 nam/485 TH có con sau ghép (5,1%)
Độ tuổi 22-36 tuổi, (19 bệnh nhân nam có 1
con, 5 bệnh nhân nam có 2 con, 1 bệnh nhân
nam sinh đôi). Tất cả những bệnh nhân này có
chức năng thận, huyết áp ổn định sau ghép
thận. Sanh con, các bé đều không dị tật bẩm
sinh.
Bệnh nhân nữ: có 3 có thai sau ghép (0,6%)
Bệnh nhân 1
Có thai sau ghép 3 năm, người cho là mẹ
ruột, hậu phẫu ghép ổn định, Creatinin huyết
thanh= 1mg%, đạm niệu âm tính, huyết áp ổn
định. Thai kỳ và chức năng thận ghép được
theo dõi sát mỗi tháng/lần, diễn tiến ổn định.
Sanh mổ chủ động vào tuần lễ cuối của thai
kỳ, bé trai cân nặng 2,3kg, khoẻ mạnh, không
dị tật bẩm sinh; sau sanh chức năng thận ghép
của mẹ ổn định, Creatinin-huyết thanh=
1,4mg%. Thuốc UCMD hiện tại Pred
10mg/24h, Prograft 5mg/24h, Azathioprine
100mg/24h. Bé phát triển tốt.
Bệnh nhân 2
Có thai sau ghép 21 tháng, ghép thận tử thi ở
nước ngoài, viêm gan B sau ghép thận. HBV-
PCR dương tính 1,89x106 copies/ml, đang điều
trị với Lamivudin, men gan trong giới hạn bình
thường. Thuốc UCMD được sử dụng sau ghép
là Pred, CsA, MMF. Creatinin-huyết thanh dao
động trong khoảng 0,9-1mg%, đạm niệu âm
tính, huyết áp ổn định. Creatinin-huyết thanh
lúc mang thai 1mg% thuốc UCMD sử dụng
trong thời gian mang thai Pred=10mg/24h, CsA=
150mg/24h, huyết áp Adalate LA 30mg/24h,
ngưng thuốc điều trị viêm gan, diễn tiến chức
năng thận trong quá trình mang thai 0,8mg%.
Thai kỳ và chức năng gan, thận ghép được theo
dõi sát mỗi tháng diễn tiến ổn định. Sanh mổ
chủ động vào tuần lễ cuối của thai kỳ, bé trai cân
nặng 3,4kg, khoẻ mạnh, không dị tật bẩm sinh;
sau sanh chức năng thận ghép của mẹ ổn định,
Creatinin-huyết thanh= 1mg%.
Bệnh nhân 3
Ghép thận từ người cho là mẹ ruột, diễn tiến
hậu phẫu ổn định, khi ra viện Creatinin-huyết
thanh= 1mg%. Bệnh nhân có 3 lần thải ghép,
điều trị chống thải ghép với solumedrol không
hiệu quả, viêm phổi do Cyto Megalovirus. Bệnh
nhân bị thải ghép mạn, Creatinin-huyết thanh ở
khoảng 2mg%. Đến đầu năm 2010 (sau ghép 3
năm), bệnh nhân phát hiện mình có thai đã 12
tuần, do nguyện vọng của chính bệnh nhân
muốn giữ thai. Thuốc UCMD đang sử dụng:
Pred= 10mg/24h, FK506= 1,5mg/24h, huyết áp
ổn định với Adalate 60mg/24h, đạm niệu âm
tính. Bệnh nhân được kết hợp theo dõi sát thai
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 235
kỳ bởi Bác sĩ sản khoa, chức năng thận bởi các
chuyên gia Thận học và ghép thận. Diễn tiến
thai kỳ ổn, không phát hiện dị tật thai qua siêu
âm, chức năng thận dao động trong khoàng 2-
2,5mg%. Đến tuần thứ 36 thai kỳ, chức năng
thận lên nhanh, phù, huyết áp dao động nhiều,
đe dọa sản giật. Chỉ định chấm dứt thai kỳ vào
thời điểm 7 tháng 15 ngày, mổ bắt con, bé gái
APGAR 6-7, cân nặng 1.240g, nuôi lồng ấp 1
tháng, bị bệnh màng trong. Khi ra viện 1.600g,
bé ăn được, chưa phát hiện các dị tật bẩm sinh
khác, hiện cân nặng 4kg (3 tháng). Chức năng
thận của mẹ hiện tại với Creatinin- huyết
thanh=4mg%.
Hình 1: Bé mới bắt ra apgar 6-7, 1.240kg Hình 2: bé 1 tuần tuổi đang nuôi lồng kính
Hình 3: Diễn tiến X quang tim phổi trong vòng 2 tuần tuổi.
BÀN LUẬN
Diễn tiến sau ghép trong năm đầu khá phức
tạp: nguy cơ thải ghép, thuốc UCMD còn cao
cần phải điều chỉnh liềuVả lại các thuốc
UCMD:
FK506: có thể qua được nhau thai và sữa
mẹ(6).
MMF: có thể gây dị tật cho thai nhi trong
giai đoạn hình thành các cơ quan (thử nghiệm
trên chuột và thỏ) và chỉ có thể mang thai khi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 236
đã ngừng điều trị với Mycophenolate mophetil
6 tuần(6).
CsA trong thời gian thai kỳ làm tăng nguy
cơ có những dị tật bẩm sinh, quái thai, sanh non,
thai nhi nhẹ cân, qua sữa mẹ(1).
AZA: có thể gây ra khiếm khuyết về tim
mạch, hở hàm ếch, cột sống chẽ đôi, tật nhiều
ngón, hypospadias(2).
Tất cả các loại thuốc UCMD đều có nguy cơ
ảnh hưởng đến thai kỳ, chưa kể đến các loại
thuốc khác điều trị các bệnh đi kèm.
Sau ghép thận, tâm lý ổn định, và sức khỏe
người bệnh phục hồi khá tốt. Nếu chức năng
thận hồi phục tốt, huyết áp, đường huyết, nồng
độ thuốc ức chế miễn dịch (UCMD) ổn định,
người bệnh kể cả nam lẫn nữ đều có thể có con.
Tuy nhiên ở người nữ sau ghép sử dụng thuốc
UCMD sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến thai nhi
gây dị dạng thai, suy dinh dưỡng thai, và chức
năng thận ghép có thể bị suy giảm do tăng gánh,
do thải ghép nhiều hơn nam giới, nên cần
phải có chế độ theo dõi riêng. Nếu có ý muốn
mang thai nên thảo luận trước với bác sĩ điều trị
để chọn lựa thời điểm thích hợp, loại thuốc, liều
lượng thuốchạn chế dị tật thai nhi.
Hai bệnh nhân (1,2): một người thì mặc dù
sau ghép 3 năm, nhưng Creatinin-huyết thanh
sau khi sanh tăng lên 1,7mg% phải điều chỉnh
gần 6 tháng sau, creatinin-huyết thanh hiện tại
được 1,4mg%. Một bệnh nhân còn lại mới ghép
21 tháng, lại có viêm gan B kèm theo, nhưng
virus viêm gan B vẫn còn hoạt động, HBV-PCR
dương tính 1,89x106 copies/ml, Lamivudin qua
được nhau thai và sữa mẹ. Suy tính việc lợi và
hại của việc giữ và bỏ thai trên người bệnh có
nhiều nguy cơ bùng phát viêm gan nếu ngưng
điều trị (vì thuốc cũng có gây dị tật trên thai
nhi).Với qui trình theo dõi kết hợp với các Bác sĩ
sản khoa cuối cùng 2 sản phụ cùng được mổ bắt
thai chủ động một tuần trước khi cơn chuyển dạ
thật sự xuất hiện, sanh được 2 bé trai, không dị
tật, phát triển tốt.
Riêng đối với bệnh nhân thứ 3, tình trạng
bệnh lúc đó không cho phép người bệnh mang
thai, sẽ có diễn tiến xấu có thể dẫn đến tử vong
cho cả mẹ lẫn con, nguy cơ dị tật thai rất lớn.
Nhưng do nguyện vọng bệnh nhân và gia đình
nhất quyết giữ thai đến cùng; phối hợp chặt chẽ
giữa các nhà lâm sàng và bệnh nhân cho đến
nay có thể xem như đạt đước kết quả bước đầu
là cả mẹ và bé an toàn, chưa phát hiện dị tật bẩm
sinh của bé. Creatinin-huyết thanh của mẹ
4mg%.
Đối với người bệnh là nam giới, sau ghép
thận, sức khỏe hồi phục, huyết áp ổn định, chất
lượng sống nâng cao, chức năng hoạt động tình
dục trở lại bình thường (nếu người bệnh không
bị bệnh về rối loạn cương thực thể)(4) người bệnh
có thể có con bình thường như những người
khỏe mạnh, không cần phải theo dõi như bệnh
nhân nữ mang thai sau ghép.
KẾT LUẬN
Sau ghép thận, tâm lý và sức khỏe người
bệnh phục hồi khá tốt. Nếu chức năng thận
phục hồi tốt, huyết áp, đường huyết, nồng độ
thuốc ức chế miễn dịch (UCMD) ổn định, người
bệnh kể cả nam lẫn nữ đều có thể có con. Tuy
nhiên ở người nữ sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến
thai nhi, và chức năng thận ghép nhiều hơn nam
giới, nên cần phải có chế độ theo dõi riêng. Có
thai sau ghép tối thiểu 2 năm, chức năng thận
trước khi mang thai dưới 1,5mg%, không chế tốt
huyết áp, đạm niệu âm tính, thì có thể đạt được
kết quả tốt “mẹ tròn, con vuông”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Bar Oz B, Hackman R, Einarson T and Koren G, (2001).
Pregnancy outcome after cyclosporine therapy during pregnancy: A
meta-analysis. Transplantation. Printed in USA, Vol 71, N0 8, p.
1051-1055.
2. Drugsafetysite.com (2003-2008). Taking Azathioprine during
pregnancy and breastfeeding.
3. Dư Thị Ngọc Thu, Thái Minh Sâm, Hoàng Khắc Chuẩn,
Nguyễn Thị Thái Hà, Châu Thị Hoa, Phạm Đình Thy Phong,
Bùi Đức Cẩm Hồng, Phạm Duy Tài, Nguyễn Thị Hồng Vân,
Trương Quốc Việt, Phạm Việt Thanh, Trần Ngọc Sinh, (2010).
“Ghép thận đồng loại và thai kỳ: nhân 2 trường hợp thành
công tại bệnh viện Chợ Rẫy”. Hội nghị thường niên lần thứ
VIII và Đại hội lần thứ V Hội Niệu-Thận học TPHCM, phụ
bản tập 14, số 3, Y học TPHCM tr. 114-116.
4. Lisa Coscia RN, BSN, Beverly Kosmach-Park MSN, CRNP,
Kathy Lawrence MN, PhD, Clare Whittaker RN, BSc, Barbara
Schroeder MS, CNS, (2005). Pregnancy and parenthood after
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 237
transplant: What you should know. International transplant
nurses society. Printed in USA. pp 1-12.
5. Melchor J.L., Gracida C., and Sanmartin M.A. (2002). Kidney
transplantation and pregnancy in a Mexican women sample.
Transplantation proceedings. By Elsevier science inc. 655
Avenue of the Americas, New York, NY 10010. 34, p. 361-362.
6. Miranda C.T.B.C., Melaragno C., Camara N.O., Pacheco-Silva
A., and Medina-Pestana P.J.O. (2002). Adverse effects of
pregnancy on renal allograft function. Transplantation
proceedings. By Elsevier science inc. 655 Avenue of the
Americas, New York, NY 10010. 34, p. 506-507.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thai_ky_sau_ghep_than_tai_benh_vien_cho_ray.pdf