Thứ ba, trong trường hợp cá nhân, tổ chức
không đồng ý với hướng dẫn của UBND cấp
xã cũng như TCHNCC thì người thực hiện giải
quyết như thế nào? Cá nhân, tổ chức là người
yêu cầu công chứng, chứng thực có buộc phải
theo hướng dẫn của cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền hay không? hoặc UBND cấp xã;
TCHNCC phải thực hiện công chứng, chứng
thực theo quy định của pháp luật? vướng mắc
này trong Công văn của Bộ Tư pháp không
thấy đề cập.
Ngược lại, theo thông báo của Văn phòng
Chính phủ về đẩy mạnh cải cách thủ tục hành
chính trong lĩnh vực quản lý đất đai như sau:
“Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các bộ chỉ
đạo các địa phương nghiêm túc thực hiện quy
định về công chứng, chứng thực hợp đồng, văn
bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất
theo quy định của Luật đất đai năm 2013 để
tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh
nghiệp khi thực hiện các thủ tục; tránh tình
trạng bắt buộc phải công chứng tại tổ chức
hành nghề công chứng không đúng quy định
như đã diễn ra tại một số địa phương trong
thời gian qua.”16. Như vậy, có thể thấy Bộ Tư
pháp ban hành Công văn hướng dẫn về công
chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực
hiện các quyền của người sử dụng đất, nhà ở
như phân tích ở trên là chưa sát với thực tế và
chưa đúng với tinh thần chỉ đạo của Văn phòng
Chính phủ.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 232 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thẩm quyền công chứng, chứng thực liên quan đến quyền của người sử dụng đất, một số khuyến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
60
THẨM QUYỀN CÔNG CHỨNG, CHỨNG THỰC LIÊN QUAN ĐẾN
QUYỀN CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG ĐẤT, MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
Hoàng Giang Linh 1
Đất đai là nguồn tài nguyên quan trọng đối
với sự phát triển của tất cả quốc gia trên thế
giới. Tại Việt Nam, trong vòng 26 năm, nhà làm
luật đã ban hành bốn văn bản Luật Đất đai là
Luật Đất đai năm 1987; Luật Đất đai năm 1993
(sửa đổi, bổ sung năm 1998 và năm 2001); Luật
Đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm 2013.
Luật Đất đai năm 2013, có hiệu lực kể từ
ngày 01/7/2014 đã khắc phục cơ bản những tồn
tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật
đất đai nói chung. Bên cạnh đó, hoạt động công
chứng, chứng thực cũng có nhiều thay đổi mà
không phải ai cũng hiểu và vận dụng được
trong thực tế. Do vậy, để thực hiện hợp đồng,
giao dịch trong lĩnh vực đất đai thì những đối
tượng liên quan phải nắm bắt được cơ bản các
quy định của pháp luật, trong đó có hoạt động
công chứng, chứng thực.
1. Hoạt động công chứng, chứng thực
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành
lập, hoạt động công chứng, chứng thực từ đó
có những khởi đầu mới như nhà nước bổ
nhiệm công chứng viên người Việt Nam thay
thế cho công chứng viên người Pháp, đồng thời
bãi bỏ một số quy định không phù hợp với bản
sắc văn hóa người Việt. Bên cạnh đó, nhà nước
ban hành một số quy định sơ khai về hoạt động
công chứng, chứng thực.
Thời gian đầu, một số việc Thị thực được
giao cho Uỷ ban nhân dân (UBND) thực hiện
theo Sắc lệnh số 59/SL ngày 15/11/1945 về
“ấn định thể lệ việc thị thực các giấy tờ” và
Nhận thực theo Sắc lệnh số 85/SL ngày
29/02/1945 “ban hành thể lệ trước bạ về việc
mua bán, cho, đổi nhà cửa ruộng đất”. Có thể
thấy, công chứng sơ khai là hoạt động của nhà
nước nhằm hợp pháp hóa văn bản, sự kiện
pháp lý, giai đoạn này nhà nước chưa phân biệt
công chứng, chứng thực, bởi thế thẩm quyền
của UBND nói chung được công chứng những
việc như: Chứng thực chữ ký, chứng nhận bản
sao giấy tờ, tài liệu
1 Công chứng viên, Văn phòng công chứng Gia Khánh - thành phố Hà Nội.
Tóm tắt tiếng Việt: Với sự ra đời của Luật đất đai năm 2013, có hiệu lực kể từ ngày
01/07/2014 và Luật công chứng năm 2014, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2015, công tác công
chứng, chứng thực liên quan đến quyền của người sử dụng đất ngày càng có nhiều thay đổi quan
trọng, đặc biệt là vấn đề liên quan đến thẩm quyền công chứng, chứng thực. Vì vậy, bài viết này
đánh giá sự thay đổi của hoạt động công chứng, chứng thực ở nước ta qua các thời kỳ và hoạt
động công chứng, chứng thực liên quan đến quyền của người sử dụng đất. Qua đó, đưa ra một
số kiến nghị để nâng cao hiệu quả công tác công chứng, chứng thực trong lĩnh vực này.
Từ khóa: Công chứng, chứng thực, Luật Đất đai, quyền sử dụng đất.
Nhận bài: 05/01/2017; Hoàn thành biên tập: 05/02/2017; Duyệt đăng: 06/03/2017
Tóm tắt tiếng Anh:
Abstract: With the promulgation of the 2013 Land Law, effectively from July 1, 2014 and the
2014 Notary Law, effectively from January 1, 2015, the notarization and authentication work
involving the rights of land users have more and more important changes, especially the matter of
the authorization. Therefore, this article evaluates the change of notarization and authentication
activities in our country through periods and activities of notarization and authentication related
to the rights of land users. It makes some suggestions to improve the efficiency of notarization and
authentication work in this field.
Keywords: Notary, certification, , Land Law, right of using land;
Soá 2/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
61
Tiếp đến, Nghị định số 45/NĐ-HĐBT
ngày 27/02/1991 của Hội đồng Bộ trưởng quy
định về tổ chức và hoạt động công chứng nhà
nước, được Bộ Tư pháp hướng dẫn bằng
Thông tư số 276-TT/CC ngày 20/4/1991, thời
điểm này thẩm quyền công chứng của UBND
cấp huyện, thị xã nơi chưa có Phòng Công
chứng (PCC) nhà nước được thực hiện các
việc như (1) chứng nhận hợp đồng dân sự; (2)
chứng nhận giấy ủy quyền; (3) chứng nhận di
chúc; (4) và chứng nhận bản sao giấy tờ, tài
liệu tiếng Việt mà không nhắc tới thẩm quyền
của UBND cấp xã2. Tại Nghị định số 45/NĐ-
HĐBT ngày 27/02/1991, việc chứng thực tại
cấp xã chưa được hướng dẫn cụ thể, đến khi
Nghị định số 31/NĐ/CP ngày 18/5/1996 của
Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động
công chứng nhà nước, được Bộ Tư pháp
hướng dẫn bằng Thông tư số 1411/TT-CC
ngày 03/10/1996 thì thẩm quyền của UBND
cấp xã bước đầu được định hình như: (1)
Công chứng di chúc (2) Chứng thực việc từ
chối di sản (3) và chứng thực các việc khác
theo quy định của pháp luật. Giai đoạn này
luật vẫn chưa rõ ràng giữa công chứng, chứng
thực nên cấp xã được thực hiện công chứng,
chứng thực nhưng hướng dẫn cho thấy cấp xã
thường thực hiện những việc đơn giản, bên
cạnh đó là quy định chung chung như “chứng
thực các việc khác theo quy định của pháp
luật”. Tuy nhiên, chưa có văn bản nào chỉ ra
việc khác bao gồm những công việc gì? Trong
khi đó, theo Thông tư số 1411/TT-CC tại phần
II, Mục B nói về thẩm quyền UBND cấp
huyện được:“Chứng thực các hợp đồng theo
hướng dẫn tại phần III của Thông tư này”.
Như vậy, có thể thấy giai đoạn này, thẩm
quyền chứng thực hợp đồng thuộc UBND cấp
huyện, UBND cấp xã thường thực hiện những
công việc đơn giản nêu trên.
Năm 2000, Chính phủ ban hành Nghị định
số 75/2000/NĐ-CP có hiệu lực ngày 01/4/2001
hướng dẫn chung về công chứng, chứng thực
(sau đây gọi là Nghị định 75). Tại Nghị định
75, nhà làm luật đưa ra tiêu chí phân biệt giữa
công chứng, chứng thực nhưng thẩm quyền
của UBND cấp xã vẫn mập mờ như Thông tư
số 1411/TT-CC (việc khác theo quy định của
pháp luật)3 và phải đợi đến Nghị định số
23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 có hiệu lực
ngày 10/4/2015 (sau đây gọi là Nghị định 23)
được ban hành thì thẩm quyền của UBND cấp
xã nhìn chung tách biệt rõ ràng so với UBND
cấp huyện và tổ chức hành nghề công chứng
(sau đây viết tắt là TCHNCC).
Tại Nghị định 23/2005/NĐ-CP, nhà làm
luật có sự thay đổi lớn về thẩm quyền chứng
thực như: Phòng Tư pháp cấp huyện không
thực hiện chứng thực hợp đồng, giao dịch liên
quan đến các quyền của người sử dụng đất theo
quy định của Luật Đất đai. Đối với nhà ở tại
đô thị, theo quy định tại Điều 93 của Luật Nhà
ở năm 2005 thì thẩm quyền của cấp huyện
cũng chỉ thực hiện đến hết ngày 30/6/20154.
Ngược lại, UBND cấp xã là chủ thể duy nhất
được chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan
đến giao dịch là quyền sử dụng đất.
Bên cạnh thay đổi hoạt động chứng thực,
nhà nước ban hành Luật Công chứng năm 2006
đánh dấu bước chuyển biến mang tính đột phá
về mô hình TCHNCC tại Việt Nam. Theo đó,
cùng với Phòng công chứng, nhà nước cho
phép thành lập TCHNCC tư nhân với tên gọi
“Văn phòng công chứng” hoạt động theo loại
hình Doanh nghiệp tư nhân (sau này chuyển đổi
thành Công ty hợp danh) được điều chỉnh bởi
Luật Doanh nghiệp năm 2005. Thời gian đầu,
luật không buộc Văn phòng công chứng phải
có nhiều công chứng viên quá trình này được
gọi là “xã hội hoá” hoạt động công chứng. Sự
khác nhau về hình thức tại các TCHNCC hiện
nay là: (1) Tư nhân thành lập thì mang tên Văn
phòng công chứng (2) Nhà nước thành lập thì
mang tên Phòng công chứng.
Ngày 20/06/2014, Quốc hội thông qua
Luật Công chứng năm 2014, có hiệu lực ngày
01/01/2015 thay thế cho Luật Công chứng
năm 2006 góp phần hoàn thiện khiếm khuyết
của những năm đầu xã hội hóa hoạt động
2 Xem Điều 20, Nghị định số 45-HĐBT.
3 Xem Điều 24, khoản 1, Nghị định 75.
4 Xem khoản 2, Điều 47, Nghị định 23.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
62
công chứng, mang lại hiệu quả thiết thực đối
với xã hội.
Như vậy, có thể thấy với chủ trương xã hội
hóa các hoạt động bổ trợ tư pháp, dưới góc độ
pháp luật, lĩnh vực công chứng, chứng thực
ngày càng hoàn thiện, bước đầu đáp ứng được
nhu cầu của cá nhân, tổ chức và giảm tải lượng
việc cho UBND cấp huyện, UBND cấp xã và
các PCC nhà nước.
2. Công chứng, chứng thực liên quan
đến quyền của người sử dụng đất
Ngược thời gian, có thể thấy các văn bản
quy phạm pháp luật liên quan đến đất đai, công
chứng, chứng thực hay chứng nhận thì ngay từ
ban đầu Luật Đất đai năm 1987 đã nêu lên việc
giao dịch quyền sử dụng đất: “nếu ở nông
thôn thì do Uỷ ban nhân dân xã quyết định, nếu
ở thành thị thì do Uỷ ban nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh quyết
định”5. Thời gian này Việt Nam chưa thành lập
được cơ quan công chứng nên bước đầu
UBND có thẩm quyền thực hiện chứng nhận
các việc liên quan đến công chứng, chứng
thực6.
Luật Đất đai năm 1993 quy định thủ tục
chuyển đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất
thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã hoặc cấp
huyện cũng không khác so với Luật Đất đai
năm 1987, theo đó: “Thủ tục chuyển đổi quyền
sử dụng đất ở nông thôn làm tại Uỷ ban nhân
dân xã; ở đô thị làm tại Uỷ ban nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ở nông thôn làm tại Uỷ ban nhân dân huyện; ở
đô thị làm tại Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương”7. Luật Đất đai năm
2003 quy định thủ tục liên quan đến giao dịch
về đất đai phải được chứng thực tại UBND cấp
xã, hoặc chứng nhận của công chứng nhà nước,
theo đó: “Hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng
đất của hộ gia đình, cá nhân phải có chứng
thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn
nơi có đất hoặc chứng nhận của công chứng
nhà nước”8 và “Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của
công chứng nhà nước; trường hợp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia
đình, cá nhân thì được lựa chọn hình thức
chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc
chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường,
thị trấn nơi có đất.”9.
Thực tế, khi Luật Công chứng năm 2006
có hiệu lực thi hành, thời gian đầu văn bản của
VPCC liên quan đến quyền sử dụng đất không
được cơ quan, tổ chức có liên quan chấp
thuận, các Ngân hàng, Phòng tài nguyên
không đồng ý với văn bản công chứng do
VPCC lập mà chỉ chấp nhận văn bản của PCC
với lí do hợp đồng, giao dịch liên quan đến
chuyển nhượng quyền sử dụng đất của Hộ gia
đình, cá nhân thì thẩm quyền thuộc công
chứng nhà nước hoặc UBND cấp xã nơi có đất
quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 127, Luật
Đất đai năm 2003. Trong khi đó, tại Luật Công
chứng năm 2006 quy định: “Công chứng là
việc công chứng viên chứng nhận tính xác
thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch
khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch)
bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật
phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự
nguyện yêu cầu công chứng.”. Do vậy, đối với
hợp đồng, giao dịch mà theo quy định của
pháp luật buộc phải công chứng thì công
chứng viên của bất cứ TCHNCC nào nếu thực
hiện đúng trình tự, thủ tục thì đều có giá trị
pháp lý như nhau.
Luật Đất đai năm 2013 quy định thủ tục
liên quan đến giao dịch là quyền sử dụng đất
không thay đổi nhiều so với Luật Đất đai năm
2003, nếu có, thì chỉ thay đổi nhỏ cho phù hợp
với Luật Công chứng, đó là thay cụm từ “công
chứng nhà nước” thành “tổ chức hành nghề
công chứng”10 khi chủ sử dụng thực hiện các
giao dịch liên quan đến bất động sản.
5 Xem khoản 3, Điều 16, Luật Đất đai năm 1987.
6 Xem Mục I, Điểm 4, Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987.
7 Xem Điều 31 Luật Đất đai 1993.
8 Xem Điểm b, khoản 1, Điều 126, Luật Đất đai 2003.
9 Xem Điểm b, khoản 1, Điều 127, Luật Đất đai 2003.
10 Xem điểm d, khoản 3, Điều 167 Luật Đất đai 2013.
Soá 2/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
63
Như vậy, xuyên suốt từ Luật Đất đai năm
1987 đến Luật Đất đai năm 2013, nhà làm luật
luôn thừa nhận thẩm quyền quyết định hoặc
công chứng, chứng thực của UBND cấp xã và
UBND cấp huyện11 nơi có đất trong việc
chuyển đổi, chuyển nhượng, chuyển quyền sử
dụng đất. Song, thực hiện chủ trương chuyển
giao các hợp đồng, giao dịch liên quan đến
quyền sử dụng đất từ cấp UBND sang
TCHNCC nhằm đảm bảo an toàn pháp lý cho
giao dịch theo Nghị định số 88/2009/NĐ-CP
ngày 19/10/2009 (sau đây gọi là Nghị định 88)
thời gian đầu việc chuyển đổi diễn ra thuận lợi,
nhưng sau khi nhà nước ban hành Nghị định 23
hướng dẫn về chứng thực hợp đồng, giao dịch
qua đó tiếp tục khẳng định vai trò của UBND,
đặc biệt là UBND cấp xã trong quá trình thực
hiện chứng thực giao dịch liên quan đến quyền
sử dụng đất thì việc chuyển giao hợp đồng, giao
dịch liên quan đến quyền sử dụng đất từ UBND
cho TCHNCC tạm thời không thực hiện được
do Nghị định số 88 chấm dứt hiệu lực.
Cùng với sự thay đổi theo từng thời kỳ liên
quan đến thẩm quyền công chứng, chứng thực
quyền sử dụng đất thì văn bản dưới luật hướng
dẫn thẩm quyền của UBND cấp xã và
TCHNCC khi thực hiện hợp đồng, giao dịch
liên quan đến quyền sử dụng đất đôi khi chưa
rõ ràng, gây khó khăn, cũng như thiếu tính khả
thi trong quá trình áp dụng pháp luật. Cụ thể
là, Công văn số 4233/BTP-BTTP do Bộ Tư
pháp ban hành ngày 16/11/2015, hướng dẫn
thẩm quyền về công chứng, chứng thực hợp
đồng, văn bản thực hiện các quyền của người
sử dụng đất, nhà ở (sau đây gọi là Công văn),
trong đó có đoạn ghi: “trường hợp tổ chức
hành nghề công chứng thấy hợp đồng, giao
dịch đơn giản, các bên tin tưởng nhau thì công
chứng viên công chứng hoặc hướng dẫn cá
nhân, tổ chức lựa chọn chứng thực tại Ủy ban
nhân dân cấp xã; ngược lại, trường hợp hợp
đồng, giao dịch phức tạp, tiềm ẩn rủi ro cho
các bên, thì Ủy ban nhân dân cấp xã hướng
dẫn cá nhân, tổ chức lựa chọn công chứng tại
tổ chức hành nghề công chứng”.
Theo tác giả, hướng dẫn của Công văn nêu
trên thực hiện tinh thần chuyển giao hợp đồng,
giao dịch tại Nghị định số 88 nhằm giảm tải
lượng việc tại UBND cấp xã, đồng thời nhằm
đảm bảo an toàn giao dịch các bên, nhưng về
nội dung Công văn còn nhiều điểm chưa hợp
lý, dẫn đến khó khăn khi áp dụng trên thực tế.
Thứ nhất, về tính khả thi của Công văn cho
thấy còn chưa phù hợp với thực tế. Ví dụ, khi
cá nhân, tổ chức đến UBND cấp xã thực hiện
chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến
quyền của người sử dụng đất ở, nhà ở nhưng
cán bộ, công chức có trách nhiệm thực hiện lấy
lý do hợp đồng, giao dịch phức tạp, tiềm ẩn rủi
ro cho các bên, qua đó hướng dẫn cá nhân, tổ
chức lựa chọn công chứng tại TCHNCC thì
hoàn toàn mang tính chủ quan của người thực
hiện chứng thực, bởi trong Công văn không
giải thích hợp đồng, giao dịch nào là phức tạp,
tiềm ẩn rủi ro hoặc tiêu chí nào để xác định hợp
đồng, giao dịch là đơn giản. Vì vậy, có thể thấy
hướng dẫn của Bộ Tư pháp đã làm khó UBND
cấp xã cũng như cá nhân, tổ chức có nhu cầu
chứng thực (trường hợp này việc hướng dẫn
của cấp xã - nếu có - không khác gì từ chối
chứng thực). Trong khi đó, tại khoản 2, Điều
5, Nghị định 23 ghi rõ hai chữ trách nhiệm
bên cạnh thẩm quyền của UBND cấp xã trong
việc chứng thực hợp đồng, giao dịch. Về
phương diện ngữ nghĩa, thì trách nhiệm được
hiểu là: “Phần việc được giao cho hoặc coi
như được giao cho, phải đảm bảo làm tròn,
nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu phần
hậu quả”12. Như vậy, UBND cấp xã có thẩm
quyền chứng thực thì cán bộ, công chức thực
hiện phải gắn liền thẩm quyền với trách
nhiệm để phục vụ, đáp ứng nhu cầu của cá
11 Luật Đất đai 1987 và 1993 quy định thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã trong việc xác nhận
các giao dịch liên quan đến quyền của người sử dụng đất, nhưng Luật Đất đai năm 2003 và 2013 thì nhà làm luật
chỉ nêu thẩm quyền chứng thực thuộc về Ủy ban nhân dân cấp xã, tuy nhiên văn bản hướng dẫn chứng thực vẫn
thừa nhận thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện, chỉ khi Nghị định 23 ban hành mới chính thức chấm dứt
thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp huyện và ghi nhận thẩm quyền của cấp xã.
12 Xem Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Nxb Đà Nẵng- Trung tâm Từ điển học Hà Nội- Đà Nẵng xuất
bản năm 1995- trang 985.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
64
nhân, tổ chức chứ không được phép thoái
thác, trừ khi bất khả kháng.
Thứ hai, cũng công văn trên hướng dẫn
nếu thấy hợp đồng, giao dịch đơn giản, các
bên tin tưởng nhau thì công chứng viên công
chứng hoặc hướng dẫn cá nhân, tổ chức lựa
chọn chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp
xã... hướng dẫn này cũng chưa phù hợp với
thực tế bởi khả năng đáp ứng nhanh, thuận
tiện cũng như an toàn pháp lý cao nhằm hạn
chế rủi ro, tranh chấp các bên của TCHNCC
theo đúng tinh thần xã hội hóa các hoạt động
bổ trợ tư pháp. Theo đó, nhà nước từng bước
chuyển giao thẩm quyền của UBND liên quan
đến chứng thực sang TCHNCC, tạo điều kiện
để các TCHNCC tập trung thực hiện đúng
chức năng của mình, góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội, tạo niềm tin cho các nhà
đầu tư trong nước và ngoài nước13. Mặt khác,
khi cá nhân, tổ chức có nhu cầu hoặc luật quy
định phải công chứng, chứng thực mà việc
đơn giản (khi đã rõ) TCHNCC hướng dẫn về
UBND cấp xã để chứng thực thì không khả
thi vì công chứng viên đã thụ lý, xem xét hồ
sơ, đưa ra biện pháp hoàn thiện hợp đồng,
giao dịch. Tuy nhiên, khi thấy việc đơn giản,
các bên tin tưởng nhau thì công chứng viên
(công chứng hoặc) hướng dẫn tổ chức, cá
nhân lựa chọn chứng thực tại UBND xã là
việc rất khó có thể xảy ra bởi: (i) Khi chứng
thực tại cấp xã thì cán bộ, công chức tiếp nhận
vẫn phải thực hiện thủ tục thụ lý, kiểm tra, ký
văn bản, nộp phí, nhận lại hồ sơ theo quy định
chung (ii) VPCC được nhà nước ủy nhiệm
thực hiện nhiệm vụ công nhưng tự hoạch toán
các chi phí theo loại hình công ty dưới sự điều
chỉnh của Luật Doanh nghiệp nên phí và thù
lao công chứng là nguồn thu đảm bảo cho
hoạt động của VPCC. Hướng dẫn trên có thể
khả thi nếu cá nhân, tổ chức đến PCC nhà
nước (đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp)14
bởi mô hình PCC vẫn được nhà nước tạo
những điều kiện thuận lợi mà VPCC không
thể có, ví dụ như: Trụ sở, nhân sự, tài chính
tuy nhiên, số lượng PCC hiện nay quá ít so
với VPCC15.
Thứ ba, trong trường hợp cá nhân, tổ chức
không đồng ý với hướng dẫn của UBND cấp
xã cũng như TCHNCC thì người thực hiện giải
quyết như thế nào? Cá nhân, tổ chức là người
yêu cầu công chứng, chứng thực có buộc phải
theo hướng dẫn của cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền hay không? hoặc UBND cấp xã;
TCHNCC phải thực hiện công chứng, chứng
thực theo quy định của pháp luật? vướng mắc
này trong Công văn của Bộ Tư pháp không
thấy đề cập.
Ngược lại, theo thông báo của Văn phòng
Chính phủ về đẩy mạnh cải cách thủ tục hành
chính trong lĩnh vực quản lý đất đai như sau:
“Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các bộ chỉ
đạo các địa phương nghiêm túc thực hiện quy
định về công chứng, chứng thực hợp đồng, văn
bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất
theo quy định của Luật đất đai năm 2013 để
tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh
nghiệp khi thực hiện các thủ tục; tránh tình
trạng bắt buộc phải công chứng tại tổ chức
hành nghề công chứng không đúng quy định
như đã diễn ra tại một số địa phương trong
thời gian qua.”16. Như vậy, có thể thấy Bộ Tư
pháp ban hành Công văn hướng dẫn về công
chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực
hiện các quyền của người sử dụng đất, nhà ở
như phân tích ở trên là chưa sát với thực tế và
chưa đúng với tinh thần chỉ đạo của Văn phòng
Chính phủ.
(Xem tiếp trang 69)
13 Xem Nghị quyết số: 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị; và Quyết định số: 250/QĐ-TTg ngày
10/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Đề án “Xây dựng Quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề
công chứng ở Việt Nam đến năm 2020.
14 Xem khoản 2, Điều 19, Luật Công chứng năm 2014.
15 Theo báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết đại hội lần thứ nhất do ông Chu Văn Khanh - Chủ tịch Hội công chứng
viên thành phố Hà Nội trình bày, tính đến tháng 5/2015, Hà Nội đã có 104 tổ chức hành nghề công chứng, trong
đó có 10 Phòng Công chứng và 94 Văn phòng công chứng với hơn 400 Công chứng viên đang hành nghề.
16 Xem Mục 2, khoản h, Thông báo số 347/TB-VPCP ban hành ngày 27/8/2014.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tham_quyen_cong_chung_chung_thuc_lien_quan_den_quyen_cua_ngu.pdf