Tóm lại, để phân định thẩm quyền hợp
lý trong nhánh hành pháp, quản lý nhà nước,
cần phải có các sửa đổi sau đây:
Thứ nhất, quy định về thẩm quyền
chung của Chính phủ (không nên ghi là
“thẩm quyền của Chính phủ” vì dễ nhầm lẫn
với bộ phận thẩm quyền chung của Chính
phủ phải được bàn bạc tập thể và biểu quyết
theo đa số), tức là chỉ thay đổi tên điều,
không bàn về nội dung; điều này thực chất là
quy định về tất cả những vấn đề thuộc thẩm
quyền quyết định của quyền hành pháp,
quản lý nhà nước.
Thứ hai, quy định về thẩm quyền của
tập thể Chính phủ (là những vấn đề thuộc
thẩm quyền chung của Chính phủ phải được
bàn bạc tập thể và biểu quyết theo đa số trên
phiên họp Chính phủ); sửa đổi nguyên tắc
“Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể,
quyết định theo đa số” (khoản 1 Điều 95
Hiến pháp năm 2013) thành “Những vấn
đề quan trọng thuộc thẩm quyền chung của
Chính phủ phải được thảo luận tập thể và
quyết định theo đa số”.
Thứ ba, quy định về thẩm quyền của
Thủ tướng Chính phủ, theo đó: “Thủ tướng
Chính phủ có quyền giải quyết những vấn đề
thuộc thẩm quyền chung của Chính phủ, trừ
những vấn đề thuộc thẩm quyền của tập thể
Chính phủ”. Đồng thời, quy định Thủ tướng
Chính phủ có quyền giải quyết những vấn
đề thuộc thẩm quyền của bộ trưởng, UBND,
Chủ tịch UBND cấp tỉnh nhưng chỉ trong
trường hợp các chủ thể này không giải quyết
được hay giải quyết không kịp thời, không
đạt yêu cầu và sau đó báo cáo Chinh phủ
trong phiên họp gần nhất.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 233 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thẩm quyền của chính phủ theo hiến pháp 2013 và luật tổ chức chính phủ 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Phân định thẩm quyền là vấn đề quan trọng hàng đầu của Hiến pháp
và của các luật tổ chức cơ quan nhà nước. Bài viết phân tích các quy
định về thẩm quyền chung của Chính phủ, thẩm quyền của tập thể
Chính phủ, thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ và đưa ra các đề
xuất, kiến nghị nhằm phân định thẩm quyền hợp lý..
THẨM QUYỀN CỦA CHÍNH PHỦ THEO HIẾN PHÁP 2013
Nguyễn Cửu Việt*
Abstract:
Separation of the authority is the top priority of the Constitution
and of the laws of the organization of the state. This article provides
analysis of the provisions on the general authority of the government,
the authority of the government cabinet, the competence of the
Prime Minister, and also provides proposals and recommendations to
determine the reasonable authorities.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: thẩm quyền, thẩm quyền
chung, Chính phủ
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 24/07/2017
Biên tập: 20/09/2017
Duyệt bài: 26/09/2017
Article Infomation:
Keywords: authority, general
authority, the government
Article History:
Received: 24 Jul. 2017
Edited: 20 Sep. 2017
Appproved: 26 Sep. 2017
* PGS, TS. Nguyên Giảng viên trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
VÀ LUẬT TỔ CHỨC CHÍNH PHỦ 2015
Thẩm quyền của một cơ quan nhà
nước là một khái niệm mang tính hệ thống,
bao gồm các nghĩa vụ (trước nhà nước) và
các quyền (đối với các đối tượng quản lý)
thực hiện các nhiệm vụ, chức năng, các vấn
đề nhất định và các quyền hạn cụ thể để
thực hiện các quyền và nghĩa vụ chung đó
(như: quyền ban hành văn bản pháp luật,
thực hiện các biện pháp cưỡng chế, các hoạt
1 Về khái niệm thẩm quyền nói chung và các quyền, nghĩa vụ chung và các quyền hạn cụ thể - hai nhóm yếu tố của khái
niệm thẩm quyền, có thể xem thêm: Б. М. Лазарев, Компетенция органов управления, Юрид. лит. М., 1972, с. 101.
(B.M. Lazaep. Thẩm quyền của các cơ quan quản lý, Nxb. Pháp lý, Maxcơva, 1972, tr. 101) Xem thêm bài của Nguyễn
Cửu Việt: “Cải cách hành chính: về khái niệm thẩm quyền” và “Các yếu tố cấu thành và tính hệ thống của thẩm quyền”,
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, các số 8 - 9/2005.
động mang tính tổ chức kỹ thuật)1.
Theo quy định của Điều 94 Hiến pháp
năm 2013, Chính phủ là cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất của nước, thực hiện
quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của
Quốc hội. Để thực hiện các nhiệm vụ, chức
năng hiến định của mình, Chính phủ được
trao thẩm quyền rất rộng lớn nhằm đảm
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 19(347) T10/2017
bảo thực hiện quyền hành pháp, lãnh đạo hệ
thống hành chính và tổ chức thực hiện quản
lý nhà nước trên mọi lĩnh vực trong phạm vi
cả nước.
Thẩm quyền của Chính phủ được quy
định tập trung tại Điều 96 Hiến pháp năm
2013, Chương II Luật Tổ chức Chính phủ
năm 2015, ngoài ra còn được quy định bổ
sung rải rác trong nhiều luật khác về tổ chức
các cơ quan nhà nước và các luật chuyên
ngành.
Trong số thẩm quyền của Chính phủ
có thẩm quyền chung của Chính phủ, thẩm
quyền của Thủ tướng Chính phủ, thẩm
quyền của các bộ trưởng và thủ trưởng cơ
quan ngang bộ (sau đây gọi chung là bộ
trưởng).
1. Thẩm quyền chung của Chính phủ
Thẩm quyền chung của Chính phủ
(thẩm quyền của Chính phủ) được quy định
tập trung tại Điều 96 Hiến pháp 2013.
Chính phủ có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây:
1. Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội
(UBTVQH), lệnh, quyết định của Chủ tịch
nước;
2. Đề xuất, xây dựng chính sách trình
Quốc hội, UBTVQH quyết định hoặc quyết
định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn quy định tại Điều này; trình dự
án luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự
án khác trước Quốc hội; trình dự án pháp
lệnh trước UBTVQH;
3. Thống nhất quản lý về kinh tế, văn
hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công
nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông,
đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội; thi hành lệnh tổng động
viên hoặc động viên cục bộ, lệnh ban bố tình
trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết
khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng,
tài sản của Nhân dân;
4. Trình Quốc hội quyết định thành
lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ; thành
lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới
hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt;
trình UBTVQH quyết định thành lập, giải
thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị
hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương;
5. Thống nhất quản lý nền hành chính
quốc gia; thực hiện quản lý về cán bộ, công
chức, viên chức và công vụ trong các cơ
quan nhà nước; tổ chức công tác thanh tra,
kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng,
chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy
nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp; hướng
dẫn, kiểm tra UBND trong việc thực hiện
văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo
điều kiện để UBND thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn do luật định;
6. Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà
nước và xã hội, quyền con người, quyền
công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;
7. Tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc
tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của
Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập,
phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước
quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ điều ước
quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định
tại khoản 14 Điều 70; bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công
dân Việt Nam ở nước ngoài;
8. Phối hợp với Ủy ban trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung
ương của tổ chức chính trị - xã hội trong việc
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 19(347) T10/2017
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình2.
So với Hiến pháp năm 1992, thẩm
quyền của Chính phủ theo Hiến pháp năm
2013 có một số điểm mới chủ yếu sau đây:
1) Về đơn vị hành chính: bỏ quyền hạn
quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn
vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương vì quyền hạn này đã được
Hiến pháp 2013 trao cho UBTVQH (khoản
8 Điều 74); thay vào đó, bổ sung quyền hạn
trình UBTVQH quyết định thành lập, giải
thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị
hành chính dưới cấp tỉnh (khoản 4); ngoài
ra bổ sung quyền hạn trình Quốc hội quyết
định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều
chỉnh địa giới hành chính đơn vị hành chính
- kinh tế đặc biệt.
2) Bổ sung tại khoản 2 quyền hạn đề
xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội,
UBTVQH quyết định hoặc quyết định theo
thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn quy định tại Điều này. Đây là quyền hạn
đặc trưng để thực hiện quyền hành pháp.
3) Bổ sung tại khoản 4 quyền hạn trình
Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ
quan ngang bộ. Trước đây quyền hạn này
Hiến pháp 1992 trao cho Thủ tướng Chính
phủ.
Trong Điều 96 dẫn trên, xét theo tính
chất của vấn đề, những chữ in nghiêng là
những quyền hạn cụ thể phải được thảo luận
tập thể, quyết định theo đa số trên phiên họp
toàn thể của Chính phủ. Để dễ phân biệt,
chúng tôi gọi bộ phận này là“thẩm quyền
của tập thể Chính phủ”, mặc dù cách gọi
này chỉ mang tính ước lệ3. Còn những chữ
in đứng là những quyền và nghĩa vụ chung,
mà trách nhiệm thực hiện thuộc về cả tập
thể Chính phủ (trên phiên họp) và mọi thành
viên Chính phủ.
2 Những chữ nghiêng là những quyền hạn cụ thể, những chữ đứng là những quyền và nghĩa vụ chung (TG)
3 Vì Chính phủ vốn là một tập thể, do đó có thể lập luận rằng, “thẩm quyền của tập thể Chính phủ” chính là “thẩm quyền
của Chính phủ”.
Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 95 Hiến
pháp 2013 đã quy định nguyên tắc “Chính
phủ làm việc theo chế độ tập thể, quyết định
theo đa số”, nên mọi quyết định thuộc thẩm
quyền của Chính phủ (được hiểu là “thẩm
quyền chung của Chính phủ”), về nguyên tắc,
đều được quyết định theo đa số trên phiên
họp toàn thể của Chính phủ. Tuy nhiên, thực
tế lại không phản ánh đúng quy định này.
Chỉ đơn cử: để thực hiện quy định tại khoản
1, 6 Điều 96 Hiến pháp 2013 thì không chỉ
Chính phủ (nói chung), bao gồm cả tập thể
Chính phủ, Thủ tướng và mọi thành viên
khác, mà cả hệ thống bộ máy hành chính,
phải chung sức thực hiện.
Như vậy, các quy định này của Hiến
pháp 2013 (khoản 1 Điều 95, Điều 96) và
Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 (Luật
năm 2015) đã đồng nhất thẩm quyền của tập
thể Chính phủ (với tư cách là hình thức hoạt
động của tập thể Chính phủ) với thẩm quyền
của Chính phủ nói chung. Vấn đề là ở chỗ,
Hiến pháp 2013 đã bỏ nguyên tắc rất đúng
đắn của Hiến pháp 1992: “Những vấn đề
quan trọng thuộc thẩm quyền của Chính phủ
phải được thảo luận tập thể và quyết định
theo đa số” (khoản 2 Điều 115) và thay bằng
nguyên tắc: “Chính phủ làm việc theo chế
độ tập thể, quyết định theo đa số” (khoản 1
Điều 95). Kết quả là, Luật năm 2015 không
còn giữ lại quy định về những vấn đề quan
trọng phải được giải quyết trên phiên họp
Chính phủ như Điều 19 Luật Tổ chức Chính
phủ năm 2001 (Luật năm 2001). Do vậy, có
thể nói, về vấn đề này, Hiến pháp 2013 và
Luật năm 2015 là bước lùi so với Hiến pháp
1992 và Luật năm 2001.
Tuy nhiên, Nghị định số 138/2016/
NĐ-CP ngày 01/10/2016 ban hành kèm theo
Quy chế làm việc của Chính phủ (Quy chế
năm 2016) đã liệt kê cụ thể vấn đề Chính
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 19(347) T10/2017
phủ thảo luận và quyết định theo đa số:
1. Đề nghị của Chính phủ về
xây dựng luật, pháp lệnh, nghị quyết
trình Quốc hội, UBTVQH; các dự án luật,
nghị quyết trình Quốc hội, dự án pháp lệnh,
nghị quyết trình UBTVQH.
2. Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội dài hạn và hàng
năm; dự toán ngân sách nhà nước và
phương án phân bổ ngân sách trung ương
hằng năm; quyết toán ngân sách nhà nước.
3. Tình hình kinh tế - xã hội hằng
tháng, 06 tháng, cả năm và những nhiệm vụ,
giải pháp chỉ đạo, điều hành thực hiện Kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
4. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ; việc
thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ; việc
thành lập, sáp nhập, giải thể cơ quan thuộc
Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia,
điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành
chính - kinh tế đặc biệt.
5. Chương trình công tác của Chính
phủ hằng năm; kiểm điểm công tác chỉ đạo,
điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ và việc thực hiện Quy chế làm việc của
Chính phủ.
6. Những vấn đề mà pháp luật quy định
Chính phủ phải thảo luận và quyết nghị.
7. Những vấn đề cần thiết khác theo
quyết định của Thủ tướng Chính phủ. (Điều 4).
Theo quy định của Điều 4 này, có thể
hiểu, tất cả những vấn đề còn lại thuộc thẩm
quyền của Chính phủ sẽ không được đưa ra
thảo luận tập thể và quyết định theo đa số.
Quy định này phản ánh đúng thực tế, tuy
nhiên lại không hợp hiến, hợp pháp, bởi lẽ,
việc phân định thẩm quyền của Chính phủ
phải do Quốc hội thực hiện bằng Hiến pháp
và luật. Do đó, nội dung này cần được quy
định trong Luật năm 2015, tương tự như
Điều 19 Luật năm 2001.
2. Thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ
Thẩm quyền của Thủ tướng Chính
phủ được quy định tại Điều 98 Hiến pháp
năm 2013:
Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm
vụ và quyền hạn sau đây:
1. Lãnh đạo công tác của Chính phủ;
lãnh đạo việc xây dựng chính sách và tổ
chức thi hành pháp luật;
2. Lãnh đạo và chịu trách nhiệm về
hoạt động của hệ thống hành chính nhà
nước từ trung ương đến địa phương, bảo
đảm tính thống nhất và thông suốt của nền
hành chính quốc gia;
3. Trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị
bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ
tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên
khác của Chính phủ; bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức Thứ trưởng, chức vụ tương đương
thuộc bộ, cơ quan ngang bộ; phê chuẩn việc
bầu, miễn nhiệm và quyết định điều động,
cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
4. Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi
bỏ văn bản của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ, UBND, Chủ tịch UBND
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái
với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan
nhà nước cấp trên; đình chỉ việc thi hành
nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương trái với
Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà
nước cấp trên, đồng thời đề nghị UBTVQH
bãi bỏ;
5. Quyết định và chỉ đạo việc đàm
phán, chỉ đạo việc ký, gia nhập điều ước
quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của
Chính phủ; tổ chức thực hiện điều ước quốc
tế mà Cộng hoà XHCN Việt Nam là thành
viên;
6. Thực hiện chế độ báo cáo trước
Nhân dân thông qua các phương tiện thông
tin đại chúng về những vấn đề quan trọng
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 19(347) T10/2017
thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính phủ
và Thủ tướng Chính phủ.
Trong nội dung điều này có thể thấy đa
phần là quyền hạn cụ thể (chữ in nghiêng),
còn lại là các quyền và nghĩa vụ chung (chữ
in đứng) và như vậy là phù hợp vì cá nhân
Thủ tướng cần được trao quyền giải quyết
những công việc có tính chất cấp bách và cụ
thể, ngoài những quyền hạn đặc trưng cho
vai trò của người đứng đầu Chính phủ. Quy
định của Khoản 6 Điều này nhằm phát huy
tính dân chủ, công khai, thắt chặt quan hệ
giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với
Nhân dân, tuy nhiên, đáng tiếc việc thực
hiện các quy định này trên thực tế không
thật sự rõ ràng.
Quy định của Hiến pháp năm 2013
cho thấy sự tăng cường vai trò của Thủ
tướng Chính phủ. Hiến pháp bổ sung thêm
cho Thủ tướng quyền quyết định và chỉ đạo
việc đàm phán, chỉ đạo việc ký, gia nhập
điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền hạn
của Chính phủ; tổ chức thực hiện điều ước
quốc tế mà Cộng hoà XHCN Việt Nam là
thành viên (khoản 5 Điều 98).
Bên cạnh đó, Luật năm 2015 còn trao
cho Thủ tướng Chính phủ “quyết định các
vấn đề khi còn có ý kiến khác nhau giữa các
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ”
(khoản 1 điểm c, Điều 28); “Trong thời gian
Quốc hội không họp, quyết định giao quyền
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong
trường hợp khuyết Bộ trưởng hoặc Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ. Trong thời gian
giữa hai kỳ họp Hội đồng nhân dân cấp tỉnh,
quyết định giao quyền Chủ tịch UBND cấp
tỉnh theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ
trong trường hợp khuyết Chủ tịch UBND
cấp tỉnh” (khoản 5 Điều 28);
Ngoài ra, Quy chế năm 2016 quy
định: “Trong trường hợp xét thấy cần thiết
do tính chất quan trọng, cấp bách của công
việc, Thủ tướng Chính phủ trực tiếp chỉ đạo
giải quyết công việc thuộc thẩm quyền của
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND
cấp tỉnh” (điểm e khoản 2, Điều 5). Quy
định này xuất phát từ tính chất của vị trí, vai
trò chỉ đạo, điều hành hoạt động hành chính,
bảo đảm sự thông suốt, kịp thời trong hoạt
động hành chính của Thủ tướng Chính phủ.
Bên cạnh những mặt tích cực nêu
trên, quy định về thẩm quyền của Thủ tướng
Chính phủ trong Hiến pháp năm 2013, Luật
năm 2015 còn một số hạn chế sau đây:
1) Hiến pháp năm 2013 không phân
định rõ thẩm quyền chung của Chính phủ
với thẩm quyền của tập thể Chính phủ, do
đó, nếu đặt Điều 96 Hiến pháp 2013 bên
cạnh Điều 98 (mà không so sánh nội dung),
thì dường như thẩm quyền của Thủ tướng
Chính phủ hoàn toàn độc lập với thẩm quyền
chung của Chính phủ. Thực tế, như đã phân
tích, thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ
chỉ là để thực hiện thẩm quyền chung của
Chính phủ, cũng như thẩm quyền của tập
thể Chính phủ, bộ trưởng (với tư cách thủ
trưởng bộ), UBND...
2) Khoản 2 Điều 5 Luật năm 2015 về
“Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Chính
phủ” quy định: “Phân định rõ nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm giữa Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ với Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ...”. Quy định như vậy vô
hình chung đã xếp Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ vào một thiết chế có chung thẩm
quyền. Trong khi đó, Chính phủ có “thẩm
quyền chung” và có hình thức hoạt động
quan trọng của tập thể Chính phủ (gọi là
“thẩm quyền của tập thể Chính phủ”), còn
Thủ tướng Chính phủ có “thẩm quyền riêng”.
Đúng ra, mục đích của quy định nêu
trên là nhằm phân định rõ thẩm quyền giữa
hình thức hoạt động của tập thể Chính phủ
với hình thức hoạt động của Thủ tướng
Chính phủ, Bộ trưởng, UBND trong thực
hiện thẩm quyền của Chính phủ nói chung,
tức là thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
nhánh hành pháp, của quản lý nhà nước.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 19(347) T10/2017
Vì vậy, để khắc phục hạn chế này, cần sửa
đổi khoản 2 Điều 5 Luật năm 2015 như sau:
“Phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm giữa tập thể Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ với tư cách là thủ trưởng bộ” (vì
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với
tư cách là thành viên Chính phủ thì không có
thẩm quyền riêng của mình).
3) Bên cạnh sự cần thiết khôi phục lại
Điều 19 Luật năm 2001 về những vấn đề
thuộc thẩm quyền chung của Chính phủ phải
được bàn bạc tập thể và biểu quyết theo đa số
trên phiên họp Chính phủ, một vấn đề quan
trọng khác là, Luật năm 2015 cần bổ sung
quy định về vai trò “lấp lỗ hổng về thẩm
quyền” của Thủ tướng Chính phủ đó là: “Thủ
tướng Chính phủ có quyền giải quyết những
vấn đề thuộc thẩm quyền của Chính phủ, trừ
những vấn đề phải được giải quyết trên phiên
họp của Chính phủ theo Điều...”.
Cần lưu ý rằng, các Phó Thủ tướng
Chính phủ không có thẩm quyền “riêng”, mà
chỉ là người giúp Thủ tướng Chính phủ, được
Thủ tướng Chính phủ phân công phụ trách
một số lĩnh vực công tác. Các bộ trưởng, với
tư cách là thủ trưởng của bộ thì bộ trưởng có
có thẩm quyền riêng, nhưng với tư cách là
thành viên Chính phủ cũng không có thẩm
quyền “riêng”. Nói cách khác, ngoài phiên
họp của tập thể Chính phủ, thì gánh nặng
thực hiện thẩm quyền của Chính phủ (nói
chung) được trao cho Thủ tướng Chính phủ
và các thành viên khác của Chính phủ.
Tóm lại, để phân định thẩm quyền hợp
lý trong nhánh hành pháp, quản lý nhà nước,
cần phải có các sửa đổi sau đây:
Thứ nhất, quy định về thẩm quyền
chung của Chính phủ (không nên ghi là
“thẩm quyền của Chính phủ” vì dễ nhầm lẫn
với bộ phận thẩm quyền chung của Chính
phủ phải được bàn bạc tập thể và biểu quyết
theo đa số), tức là chỉ thay đổi tên điều,
không bàn về nội dung; điều này thực chất là
quy định về tất cả những vấn đề thuộc thẩm
quyền quyết định của quyền hành pháp,
quản lý nhà nước.
Thứ hai, quy định về thẩm quyền của
tập thể Chính phủ (là những vấn đề thuộc
thẩm quyền chung của Chính phủ phải được
bàn bạc tập thể và biểu quyết theo đa số trên
phiên họp Chính phủ); sửa đổi nguyên tắc
“Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể,
quyết định theo đa số” (khoản 1 Điều 95
Hiến pháp năm 2013) thành “Những vấn
đề quan trọng thuộc thẩm quyền chung của
Chính phủ phải được thảo luận tập thể và
quyết định theo đa số”.
Thứ ba, quy định về thẩm quyền của
Thủ tướng Chính phủ, theo đó: “Thủ tướng
Chính phủ có quyền giải quyết những vấn đề
thuộc thẩm quyền chung của Chính phủ, trừ
những vấn đề thuộc thẩm quyền của tập thể
Chính phủ”. Đồng thời, quy định Thủ tướng
Chính phủ có quyền giải quyết những vấn
đề thuộc thẩm quyền của bộ trưởng, UBND,
Chủ tịch UBND cấp tỉnh nhưng chỉ trong
trường hợp các chủ thể này không giải quyết
được hay giải quyết không kịp thời, không
đạt yêu cầu và sau đó báo cáo Chinh phủ
trong phiên họp gần nhất.
Thứ tư, Quy chế làm việc của Chính
phủ không thể là văn bản quy định những
vấn đề mang tính chất phân định thẩm quyền
mới, bổ sung Hiến pháp năm 2013 hay Luật
năm 2015, mà chỉ là phân công công việc
trong hoạt động của Chính phủ trên cơ sở
thẩm quyền mà Hiến pháp năm 2013, Luật
năm 2015 và các văn bản luật khác đã có
liên quan. Cần phân biệt khái niệm “phân
định thẩm quyền” là quy định và giao quyền
mới, với “phân công công việc” là phân giao
quyền, nhiệm vụ đã được Hiến pháp, luật
phân định./.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
12 Số 19(347) T10/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tham_quyen_cua_chinh_phu_theo_hien_phap_2013_va_luat_to_chuc.pdf