Rõ ràng, với các quy định của pháp
luật hiện hành, các Trung tâm Trọng tài ở
Việt Nam sẽ lúng túng nếu nhận được đơn
kiện về yêu cầu xem xét, hủy bỏ nghị quyết
của ĐHĐCĐ và nguy cơ phán quyết trọng
tài bị Tòa án tuyên hủy là việc khó tránh
khỏi. Cách xây dựng thẩm quyền giải quyết
tranh chấp của Trọng tài theo pháp luật hiện
hành ở Việt Nam vẫn còn mang tính bị động
nên cần phải xem xét lại cho phù hợp với
yêu cầu thực tiễn. Thực tế đã có tranh luận
xảy ra ở Đức là liệu Hội đồng trọng tài có
thể quyết định tính hiệu lực một nghị quyết
cổ đông? Theo Luật Trọng tài năm 1998 của
Đức thì điều này là khả thi trong điều kiện
liên quan tới trường hợp tranh chấp nhiều
bên đã giải quyết một cách phù hợp theo
điều lệ hoặc nội quy của công ty. Trường
hợp tương tự cũng đã xảy ra tại Áo hoặc
Thụy Sĩ. Tất cả các cổ đông phải có cơ hội
tham gia việc thành lập Hội đồng trọng tài
và trong quá trình giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài. Nguyên tắc này được ra đời
trên cơ sở quyết định của Tòa sơ thẩm của
Pháp đối với vụ Ducto15. Tuy nhiên, trong
trường hợp nguyên đơn là nhóm cổ đông
thiểu số sẽ phát sinh những vấn đề pháp lý
mới liên quan như lựa chọn Trung tâm
Trọng tài, chỉ định Trọng tài viên, nếu
trong nội bộ nhóm cổ đông có sự không
đồng thuận, vì Luật TTTM hiện hành của
nước ta chưa dự liệu được những tình
huống này nên không có tiêu chí nào để giải
quyết thấu đáo sự việc.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 225 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài trong thực tiễn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
47
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 04(332) T2/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
1. Tranh chấp phát sinh từ hoạt động
thương mại
Theo quy định tại Điều 2 Luật TTTM
thì Trọng tài có thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp như sau: tranh chấp giữa các bên
phát sinh từ hoạt động thương mại (khoản
1); tranh chấp phát sinh giữa các bên trong
đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại
(khoản 2); tranh chấp khác giữa các bên mà
pháp luật quy định được giải quyết bằng
Trọng tài (khoản 3). Mặc dù, Luật TTTM có
nhiều điểm tiến bộ so với Pháp lệnh TTTM
trước đây, nhưng Luật vẫn sử dụng thuật
ngữ “hoạt động thương mại” làm bản lề cho
việc giới hạn thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của Trọng tài.
Việc Luật TTTM quy định các dạng
tranh chấp tại khoản 1, khoản 2 Điều 2 là
THÊÍM QUYÏÌN GIAÃI QUYÏËT TRANH CHÊËP CUÃA TROÅNG TAÂI
TRONG THÛÅC TIÏÎN HIÏåN NAY
Cao Anh Nguyên*
* ThS. Luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Khánh Hòa.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: Giải quyết tranh
chấp, Trọng tài thương mại.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 25/08/2016
Biên tập: 23/01/2017
Duyệt bài: 16/02/2017
Article Infomation:
Keywords: Disputes
Resolution, Commercial
Arbitration
Article History:
Received: 25 Aug. 2016
Edited: 23 Jan. 2017
Approved: 16 Feb. 2017
Tóm tắt:
Kể từ khi Luật Trọng tài thương mại năm 2010 (Luật TTTM) được ban hành
đến nay, số lượng vụ việc được giải quyết bằng trọng tài đang có xu hướng
tăng. Nhưng nếu so sánh với số lượng vụ việc mà Tòa án thụ lý thì chưa
tương xứng với tiềm năng hiện có của Trọng tài Việt Nam. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của Trọng tài vẫn còn hẹp. Bên cạnh đó, pháp luật hiện hành có các quy
định, giải thích khác nhau về phạm vi thẩm quyền của Trọng tài, dẫn đến
việc hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau, nên phán quyết của Trọng tài có
nguy cơ bị Tòa án tuyên hủy vì cho rằng Trọng tài vượt quá thẩm quyền. Do
vậy, việc mở rộng thẩm quyền trọng tài là hết sức cần thiết để tạo ra diện
mạo mới cho hoạt động trọng tài ở Việt Nam.
Abstract:
Since the Commercial Arbitration Act 2010 was issued, the arbitration has seen
improvements. The number of disputes resolved by arbitration is likely to be
increasing, yet is comparatively little to the cases accepted and settlemented
by the Courts, and does not correspond to the potential of Vietnam arbitration
panel. One of the main factors that lead to existing issues is the narrowness of
jurisdiction of abtribution dispute settlement. In additions, as the current
legislation provides different provisions and interpretations of arbitration’s
scope of jurisdiction, which leads to diverse perceptives and applications,
arbitral award can be declared cancelled by courts if an arbitrator is believed
to exceed his authority. Nowadays, with new essential acts of legislation being
issued, it is essential to expand the competence of arbitrators in order to define
a new appearance to Vietnam Arbitration activities.
48
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 04(332) T2/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
không rõ ràng, thậm chí chồng chéo với
nhau1, bởi vì:
- Thứ nhất, “tranh chấp giữa các bên
phát sinh từ hoạt động thương mại” (khoản
1), nghĩa là nội dung giao kết, thực hiện giao
dịch của các bên phải là hoạt động thương
mại, dạng tranh chấp này được hiểu là giữa
thương nhân với thương nhân. Nếu hoạt
động thương mại xuất phát từ một bên mà
phát sinh tranh chấp thì không rơi vào quy
định khoản 1 Điều 2.
- Thứ hai, “tranh chấp phát sinh giữa
các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt
động thương mại” (khoản 2), từ ngữ “ít
nhất” này nghĩa là khi các bên giao kết, thực
hiện giao dịch thì chỉ cần hoạt động thương
mại xuất phát từ một bên, dạng tranh chấp
này được hiểu là giữa thương nhân với cá
nhân, tổ chức bất kỳ. Luật TTTM không yêu
cầu một bên còn lại phải là thương nhân, nên
cá nhân, tổ chức này có hoạt động thương
mại hay không là không cần thiết. Nếu hiểu
“hoạt động thương mại” dưới góc độ không
phải là nội dung giao dịch, mà là ngành nghề
kinh doanh của ít nhất một bên tranh chấp,
thì sẽ rất khó để cho rằng Trọng tài có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp phát sinh trong
một số trường hợp, và không đúng với tinh
thần của Luật TTTM.
Như vậy, nếu phân tích kỹ nội dung
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 2 thì
sẽ thấy rằng bản chất nội dung khoản 2 đã
bao trùm nội dung khoản 1. Do đó, về kỹ
thuật lập pháp thì quy định tại khoản 1 Điều
2 là không cần thiết.
Từ trước đến nay trong khoa học pháp
lý, vấn đề ranh giới giữa “tranh chấp kinh
doanh thương mại” và “tranh chấp dân sự”
là rất mong manh. Từ Nghị quyết số
01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 cho đến
Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày
03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một
số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự vẫn
không đưa ra được tiêu chí thuyết phục để
xác định ranh giới giữa tranh chấp kinh
doanh thương mại và tranh chấp dân sự.
Điểm d khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số
03/2012/NQ-HĐTP quy định: “Trong
trường hợp căn cứ vào hướng dẫn tại các
điểm a, b và c khoản 1 Điều này mà khó xác
định được tranh chấp hoặc yêu cầu đó thuộc
nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa chuyên trách
nào, thì Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương quyết định
phân công cho một Tòa chuyên trách giải
quyết theo thủ tục chung. Trường hợp sau
khi thụ lý vụ việc dân sự mới phát hiện được
vụ việc dân sự thuộc nhiệm vụ, quyền hạn
của Tòa chuyên trách khác, thì Tòa chuyên
trách đã thụ lý tiếp tục giải quyết vụ việc dân
sự theo thủ tục chung”. Quy định này mang
tính chất mệnh lệnh hành chính, nếu quan
điểm của các thẩm phán không thống nhất
hoặc mơ hồ về việc xác định vụ việc thuộc
nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa kinh tế hay
Tòa dân sự, thì Chánh án sẽ là biểu tượng
đứng ra chỉ đạo Tòa chuyên trách nào sẽ giải
quyết vụ việc đó. Thực tiễn xét xử cho thấy,
không có một Chánh án cấp tỉnh nào có đầy
đủ năng lực chuyên sâu về mọi lĩnh vực dân
sự, kinh tế, lao động, hôn nhân, gia đình,
hình sự, hành chính, để đưa ra kết luận
chuẩn xác về từng loại tranh chấp.
Trong thực tế, có nhiều tổ chức không
phải là tổ chức kinh doanh như các ban quản
lý dự án, cơ quan hành chính sự nghiệp tham
gia đấu thầu hoặc giao kết hợp đồng, kể cả
hợp đồng mua sắm chính phủ, trong đó sử
dụng trọng tài theo khuyến nghị của các nhà
tài trợ, định chế tài chính quốc tế như Ngân
hàng Thế giới, Ngân hàng phát triển châu
Á, và trên thế giới, các chủ thể này hoàn
toàn có quyền lựa chọn trọng tài để giải
1 Xem thêm: Tưởng Duy Lượng (2015), “Những nội dung cơ bản trong việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của Trọng tài thương mại Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân (6), tr. 14-15.
49
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 04(332) T2/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
quyết tranh chấp nhưng tại Việt Nam thì lại
không được phép. Tuy nhiên, khi Bộ luật
Dân sự năm 2015 (BLDS) bắt đầu phát sinh
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2017 thì
các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, xã
hội, nghề nghiệp, đều được liệt kê là pháp
nhân phi thương mại, kể cả Nhà nước khi
tham gia quan hệ dân sự thì cũng bình đẳng
với các chủ thể khác, và được hiểu rằng Nhà
nước đã “từ bỏ” quyền miễn trừ của mình2.
Do đó, tiêu chí chủ thể ký thỏa thuận trọng
tài không còn ý nghĩa quan trọng. Pháp luật
cho phép các tổ chức này hoạt động thương
mại nhưng không có mục tiêu chính là tìm
kiếm lợi nhuận. Pháp luật các nước ghi nhận
về nguyên tắc, bất cứ tranh chấp nào có thể
giải quyết bởi một hội đồng trọng tài tư thì
cũng có thể giải quyết bởi thẩm phán của tòa
án quốc gia. Ví dụ, Điều 2059, BLDS Pháp
quy định “tất cả các bên có thể tham gia vào
một thỏa thuận trọng tài có liên quan đến
quyền mà họ có thể tự do quyết định”. Mặc
dù, Điều 2060 có quy định thêm rằng, các
bên không thể thỏa thuận giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài trong một số lĩnh vực cụ
thể (ví dụ như luật gia đình), và “một cách
khái quát hơn là trong tất cả các vấn đề liên
quan đến lợi ích công cộng”, nhưng sự giới
hạn này đã được các tòa án Pháp giải thích
theo một nghĩa rất hạn chế3.
Trước đây, trong quá trình Dự thảo
Luật TTTM, nhiều nhà khoa học pháp lý đã
đề xuất việc mở rộng thẩm quyền trọng tài
đến cả các quan hệ tranh chấp dân sự, lao
động, Sau khi tiến hành nghiên cứu pháp
luật của hơn 80 quốc gia trên thế giới, Ban
Soạn thảo Luật TTTM đi đến kết luận rằng,
hầu hết pháp luật các nước đều không phân
biệt rõ các tranh chấp thương mại và tranh
chấp phi thương mại. Ngoài ra, khái niệm
“thương mại” quy định tại chú thích 2 của
Luật mẫu 1985 không phải là một danh sách
liệt kê toàn bộ các hành vi thương mại. Trên
thực tế, rất khó phân biệt giữa hành vi
thương mại và phi thương mại. Sự không rõ
ràng này có thể sẽ bị tòa án lạm dụng4.
Nhưng dường như quan điểm của cơ quan
lập pháp cho rằng, việc mở rộng thẩm quyền
trọng tài là quá tham vọng trong bối cảnh
Trọng tài được xem là kênh bổ trợ cho Tòa
án, chứ không được xếp ngang hàng với Tòa
án. Thực tế cho thấy, cơ quan lập pháp chưa
tính đến xu hướng thay đổi các đạo luật quan
trọng như BLDS năm 2015, Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 (Bộ luật TTDS), Luật
Doanh nghiệp năm 2014 (Luật DN), nên
dẫn đến phát sinh những bất cập, chồng
chéo như hiện nay. Một lần nữa, vấn đề mở
rộng thẩm quyền trọng tài được đặt ra cấp
thiết, Luật TTTM cần sớm sửa đổi, bổ sung
để đồng bộ, thống nhất với các đạo luật liên
quan khác, đặc biệt khi lần đầu tiên BLDS
năm 2015 quy định cá nhân, tổ chức được
quyền lựa chọn Tòa án hoặc Trọng tài để
yêu cầu bảo vệ quyền dân sự bị xâm phạm
hoặc khi có tranh chấp phát sinh. Quyền dân
sự của cá nhân, tổ chức được xác lập trên cơ
sở hợp đồng và ngoài hợp đồng5. Điều này
là phù hợp với pháp luật và thực tiễn trọng
tài quốc tế vốn chỉ nhấn mạnh tiêu chí thỏa
thuận, nghĩa là khi có thỏa thuận của các bên
chọn trọng tài thì Trọng tài sẽ có thẩm quyền
giải quyết. Pháp luật các nước thường xác
định phạm vi thẩm quyền của Trọng tài theo
cách liệt kê các loại việc không thuộc thẩm
quyền giải quyết của Trọng tài. Theo
phương pháp loại trừ này, thẩm quyền của
Trọng tài được xác định ở phạm vi mở, tạo
khả năng thích ứng và linh hoạt trong tố
2 Điều 76, Điều 97 BLDS năm 2015.
3 Alan Redfern, Martin Hunter, Nigel Blackaby và Constantine Partasides (2004), “Pháp luật và thực tiễn trọng tài
thương mại quốc tế”, tái bản lần thứ 4, Nxb. Sweet & Maxwel, London, tr. 166-167.
4 Phạm Duy Nghĩa, “Pháp luật trọng tài ở Việt Nam - Quá trình phát triển và các vấn đề đặt ra”, trích dẫn từ:
bonline.com.vn/vi-VN/Forum/TopicDetail.aspx?TopicID=2179.
5 Điều 8, Điều 14 BLDS năm 2015.
50
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 04(332) T2/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
tụng trọng tài. Theo đó, về nguyên tắc,
không cho phép Trọng tài giải quyết các vấn
đề liên quan đến quyền nhân thân, tình trạng
cá nhân, quan hệ hôn nhân, gia đình; tranh
chấp về phá sản, vỡ nợ công ty, về sở hữu
trí tuệ; tranh chấp liên quan đến trật tự công
cộng, lợi ích công Ở một số nước, các vấn
đề trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ như
phạm vi bảo hộ, hiệu lực của văn bằng, vi
phạm quyền tác giả, quyền sở hữu công
nghiệp tuy không thể giải quyết bằng Trọng
tài, nhưng các bên lại có thể giải quyết bằng
Trọng tài vấn đề li-xăng. Một số nước cho
phép các chủ nợ có thể ký kết thỏa thuận
trọng tài về giải quyết nợ trước khi Tòa án
tiến hành thủ tục phá sản. Trong lĩnh vực
hình sự, các bên không thể thỏa thuận về
mức hình phạt, song có thể thỏa thuận về
mức bồi thường thiệt hại và có thể dùng
Trọng tài để giải quyết6.
2. Tranh chấp khác giữa các bên mà
pháp luật quy định được giải quyết bằng
Trọng tài
Việc Luật TTTM quy định thêm thẩm
quyền giải quyết tranh chấp khác giữa các
bên mà pháp luật quy định được giải quyết
bằng Trọng tài thể hiện sự thụ động trong
việc mở rộng thẩm quyền trọng tài. Trên
thực tế, kể từ khi Luật TTTM có hiệu lực
cho đến nay, các Trung tâm trọng tài hầu
như không thấy đưa ra giải quyết các vụ việc
tranh chấp rơi vào trường hợp được quy
định tại khoản 3 Điều 2. Nếu các bên đưa
các dạng tranh chấp này ra Trọng tài giải
quyết thì chắc chắn, các Trung tâm trọng tài
lẫn các Trọng tài viên sẽ e dè khi xem xét
xem có thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ
việc hay không. Bởi lẽ, pháp luật thực định
vẫn còn tồn tại sự phân biệt giữa tranh chấp
dân sự và tranh chấp kinh doanh thương mại
cả về mặt nội dung và hình thức.
Xét về mặt hình thức: Luật Tổ chức
Tòa án nhân dân năm 2014 vẫn giữ nguyên
cách phân định cơ cấu tổ chức theo chiều
dọc từ trung ương xuống địa phương, bao
gồm: Tòa kinh tế, Tòa dân sự, Tòa hình sự,
Tòa hành chính, Tòa lao động, Tòa gia đình
và người chưa thành niên. Việc phân chia các
Tòa chuyên trách như trên mang nặng tính
chất quản lý nhà nước. Trong hoạt động xét
xử, Thẩm phán không có quyền lựa chọn loại
vụ việc để thụ lý giải quyết, mà Chánh án là
người phân công vụ việc cho từng Thẩm
phán. Trên thực tế, rất nhiều Thẩm phán Tòa
kinh tế vẫn được giao giải quyết loại án dân
sự, lao động, hành chính, thậm chí là cả loại
án hình sự và ngược lại. Do đó, có thể thấy
rằng việc phân định Tòa kinh tế, Tòa dân sự,
Tòa lao động, chỉ mang nặng tính chất
quản lý nhà nước nhiều hơn là sự xác định
loại quan hệ tranh chấp. Trong hoạt động xét
xử, tất cả tài liệu, văn bản tố tụng, bản án,
quyết định của Tòa án đều xác định chủ thể
pháp luật là “Tòa án nhân dân” với tư cách
là nhân danh Nhà nước, chứ không xác định
Tòa chuyên trách là chủ thể pháp luật.
Xét về mặt nội dung: Bộ luật TTDS
2015 vẫn giữ cách phân chia loại tranh chấp
dân sự và tranh chấp kinh doanh thương
mại7. Như phân tích trên, ranh giới giữa
“tranh chấp kinh doanh thương mại” và
“tranh chấp dân sự” là rất mong manh. Điều
này được thể hiện rõ nét hơn khi Bộ luật
TTDS năm 2015 quy định “tranh chấp kinh
doanh thương mại bao gồm cả tranh chấp
giữa người chưa phải là thành viên công ty
nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần
vốn góp với công ty, thành viên công ty”
(khoản 3 Điều 30). Vấn đề đặt ra ở đây,
thành viên công ty có phải bao giờ cũng là
thương nhân theo quy định tại khoản 1 Điều
6 Luật Thương mại năm 2005: “Thương
6 Đào Trí Úc, “Những vấn đề cơ bản của Luật Trọng tài”, 2006, trích dẫn từ:
icDetail.aspx?TopicID=2178.
7 Điều 26, Điều 27, Điều 30, Điều 31 Bộ luật TTDS năm 2015.
51
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 04(332) T2/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành
lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại
một cách độc lập, thường xuyên và có đăng
ký kinh doanh”. Ví dụ: Ông A lần đầu tiên là
thành viên Công ty trách nhiệm hữu hạn, vì
công ty kinh doanh thua lỗ nên ông A chấp
nhận chuyển nhượng phần vốn góp của mình
cho ông B với mức giá chịu lỗ và phát sinh
tranh chấp. Vậy hoạt động chuyển nhượng
phần vốn góp giữa chủ thể cá nhân - cá nhân
có phải là hoạt động thương mại theo khoản
1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005: “Hoạt
động thương mại là hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương
mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh
lợi khác”, trong khi ông A không phải là
thương nhân và không có mục đích sinh lợi
trong giao dịch này. Mặt khác, Pháp lệnh Án
phí, lệ phí năm 2009 quy định về án phí, lệ
phí của tranh chấp dân sự và tranh chấp kinh
doanh thương mại là tương đồng nhau.
Hiện nay, Luật DN năm 2014 vẫn giữ
nguyên khái niệm kinh doanh như trước
đây: “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục
một, một số hoặc tất cả các công đoạn của
quá trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường
nhằm mục đích sinh lợi”8. Nhưng cần phải
hiểu rằng, hoạt động kinh doanh và hoạt
động thương mại là không có ranh giới, thực
tiễn gọi chung bằng cụm từ “hoạt động kinh
doanh thương mại”. Tuy nhiên, Điều 147
Luật DN năm 2014 tiếp tục ghi nhận
phương thức tài phán bằng trọng tài trong
những trường hợp nhất định, cụ thể: “Trong
thời hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận được biên
bản họp Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ)
hoặc biên bản kết quả kiểm phiếu lấy ý kiến
ĐHĐCĐ, cổ đông, nhóm cổ đông quy định
tại khoản 2 Điều 114 của Luật này có quyền
yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét, hủy
bỏ nghị quyết hoặc một phần nội dung nghị
quyết của ĐHĐCĐ trong các trường hợp
sau đây: (1) Trình tự và thủ tục triệu tập họp
và ra quyết định của ĐHĐCĐ không thực
hiện đúng theo quy định của Luật này và
Điều lệ công ty, trừ trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều 148 của Luật này; (2) Nội
dung nghị quyết vi phạm pháp luật hoặc
Điều lệ công ty”.
Vấn đề giải quyết yêu cầu xem xét,
hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ bằng con
đường Tòa án thì khá đơn giản với hệ thống
các văn bản pháp luật tố tụng điều chỉnh cụ
thể. Nhưng câu chuyện sẽ trở nên rất phức
tạp nếu cổ đông, nhóm cổ đông quy định tại
khoản 2 Điều 114 Luật DN năm 2014 lựa
chọn phương thức giải quyết bằng trọng tài.
Về vấn đề này, chúng tôi xin đưa ra 2 hướng
giải thích như sau:
- Hướng giải thích thứ nhất: Xác định
yêu cầu hủy bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ là tranh
chấp về kinh doanh thương mại
Cổ đông thiểu số là cổ đông sở hữu
một tỷ lệ cổ phần nhỏ trong công ty cổ phần
và không có khả năng chi phối, kiểm soát
hoạt động của công ty. Bởi vậy, việc bảo vệ
quyền lợi của các cổ đông thiểu số, đối
tượng dễ bị xâm phạm quyền lợi do sự yếu
thế trong việc quyết định những vấn đề quan
trọng trong hoạt động của công ty, là hết sức
cần thiết. Theo Luật DN năm 2014 thì một
trong những cách thức bảo vệ quyền lợi cổ
đông thiểu số là việc lựa chọn cơ quan tài
phán giải quyết tranh chấp phát sinh. Khoản
3 Điều 3 Luật TTTM định nghĩa thuật ngữ
“các bên tranh chấp” là cá nhân, cơ quan, tổ
chức Việt Nam hoặc nước ngoài tham gia tố
tụng trọng tài với tư cách nguyên đơn, bị
đơn. Từ đây, lẽ dĩ nhiên xác định cổ đông
thiểu số là nguyên đơn trong vụ kiện, công
ty là bị đơn.
Để xác định Trọng tài có thẩm quyền
giải quyết loại việc này thì chỉ có thể viện
dẫn khoản 3 Điều 2 Luật TTTM: “Tranh
8 Khoản 16 Điều 4 Luật DN năm 2014.
52
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 04(332) T2/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy
định được giải quyết bằng Trọng tài” để diễn
dịch thẩm quyền trọng tài. Bởi vì, yêu cầu
hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ không phát
sinh từ hoạt động thương mại thuần túy. Có
lẽ Luật TTTM dự liệu được các tình huống
tranh chấp trong nội bộ công ty nên có sự
tiếp thu cần thiết pháp luật các nước trên thế
giới bằng quy định hình thức thỏa thuận
trọng tài được thể hiện cả trong giao dịch
các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể
hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng,
chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu
tương tự khác9. Quy định này thường có ở
các nước như Đức, Thụy Sĩ hoặc Áo. Theo
đó, các bên trong thỏa thuận trọng tài sẽ là
(1) mỗi một cổ đông riêng lẻ và (2) công ty,
do giám đốc đại diện, người mà cũng có thể
là cổ đông. Đây là một thỏa thuận nhiều bên
điển hình10.
Một vấn đề cần được làm rõ là thời
hiệu khởi kiện sẽ được xác định như thế nào.
Điều 147 Luật DN 2014 ấn định thời hạn tối
đa là 90 ngày, kể từ ngày nhận được biên
bản họp ĐHĐCĐ hoặc biên bản kết quả
kiểm phiếu lấy ý kiến ĐHĐCĐ, cổ đông
thiểu số có quyền lựa chọn Tòa án hoặc
Trọng tài xem xét, hủy bỏ nghị quyết hoặc
một phần nội dung nghị quyết của ĐHĐCĐ.
Về vấn đề này, điều khoản trọng tài trong
điều lệ của công ty Đức quy định về nghị
quyết cổ đông: Nếu một cổ đông nguyên
đơn muốn yêu cầu tuyên bố nghị quyết cổ
đông của công ty là vô hiệu thì người này sẽ
phải tiến hành thủ tục trọng tài phản đối lại
công ty, bị đơn, trong vòng một tháng sau
khi nghị quyết được thông qua. Nếu quá thời
gian đó thì không được đưa ra yêu cầu tuyên
bố nghị quyết cổ đông là vô hiệu11. Mặc dù
thời hạn yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của
ĐHĐCĐ theo pháp luật Việt Nam kéo dài
hơn so với pháp luật Đức, nhưng trong thực
tiễn xét xử của Tòa án vẫn tồn tại quan điểm
xếp loại đây là xung đột quyền lợi trong nội
bộ công ty và xác định thời hiệu khởi kiện
theo Bộ luật TTDS. Do đó, hết thời hạn 90
ngày thì Trung tâm trọng tài sẽ e dè thụ lý
vụ việc. Nếu Trọng tài từ chối giải quyết, thì
có xem thỏa thuận trọng tài là không thể
thực hiện được hay không, để xác định thẩm
quyền thụ lý giải quyết của Tòa án nếu
đương sự có yêu cầu.
- Hướng giải thích thứ hai: Xác định
yêu cầu hủy bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ là yêu
cầu về kinh doanh thương mại
Trước đây, trong thực tiễn xét xử của
Tòa án có những quan điểm trái chiều về
việc liệt kê yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của
ĐHĐCĐ vào loại tranh chấp dân sự hay yêu
cầu dân sự, vì Bộ luật TTDS năm 2004 đã
được sửa đổi, bổ sung năm 2011 không có
hướng dẫn cụ thể xác định loại việc này, dẫn
đến sự lúng túng trong hoạt động xét xử.
Nhưng nay Bộ luật TTDS năm 2015 đã định
hình rõ cho loại việc này là yêu cầu về kinh
doanh, thương mại12. Xưa nay, Bộ luật
TTDS và các văn bản quy phạm pháp luật
hướng dẫn thi hành đều có sự phân chia rõ
ràng giữa tranh chấp dân sự và yêu cầu về
dân sự để xác định thẩm quyền giải quyết
của Tòa án. Việc cá nhân, tổ chức yêu cầu
Tòa án giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại hay yêu cầu giải quyết việc kinh
doanh thương mại sẽ được thực hiện theo
những trình tự, thủ tục tố tụng khác nhau và
dẫn đến những hậu quả pháp lý khác nhau.
Theo quy định của pháp luật thì có nhiều
tiêu chí để phân biệt tranh chấp về dân sự và
yêu cầu về dân sự, tiêu chí cơ bản nhất để
phân biệt là vụ việc có tranh chấp xảy ra hay
9 Điểm d khoản 2 Điều 16 Luật TTTM năm 2010.
10 Albert Jan Van Den Berg (Chủ biên) (2000), “Trọng tài quốc tế và Tòa án quốc gia: Câu chuyện không hồi kết”, Kỷ
yếu Hội nghị lần thứ 10 Hội đồng Trọng tài Quốc tế ICCA, Nxb. Lao Động, Hà Nội, tr. 87.
11 Albert Jan Van Den Berg (Chủ biên) (2000), tldd, tr. 89.
12 Khoản 1 Điều 31, Điều 361 Bộ luật TTDS 2015.
53
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 04(332) T2/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
không có tranh chấp13. Đối với yêu cầu về
dân sự thì không có nguyên đơn, bị đơn mà
chỉ có người yêu cầu Tòa án giải quyết và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Xuất
phát từ yêu cầu của đương sự, Tòa án mở
phiên họp giải quyết việc dân sự để công
nhận hoặc không công nhận một sự kiện
pháp lý nào đó.
Điều 2 Luật TTTM đã giới hạn thẩm
quyền trọng tài chỉ được phép giải quyết các
tranh chấp phát sinh khi giữa các bên có
thỏa thuận trọng tài. Nếu cổ đông thiểu số
dẫn chiếu đến khoản 3 Điều 2 Luật TTTM:
“Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật
quy định được giải quyết bằng Trọng tài” để
cho rằng trọng tài có thẩm quyền giải quyết
thì có lẽ không thuyết phục. Bởi vì, tranh
chấp về kinh doanh thương mại có sự khác
biệt so với yêu cầu về kinh doanh thương
mại. Để hiểu thấu đáo vấn đề này, chúng tôi
đưa ra 2 cách luận giải như sau:
- Quan điểm thứ nhất: Hướng đến
hình thức quan hệ pháp luật
Theo chúng tôi, đối với loại việc này,
khi xây dựng Bộ luật TTDS năm 2015, có
lẽ các nhà lập pháp lấy yếu tố hình thức
quan hệ pháp luật làm tiêu chí xác định loại
việc có tranh chấp hay không có tranh chấp.
Hình thức quan hệ pháp luật được xác định
trên cơ sở quyết định của số đông theo
nguyên tắc thiểu số phải phục tùng đa số.
Nghĩa là, khi biểu quyết, số đông cổ đông
chấp thuận thông qua thì lẽ dĩ nhiên nghị
quyết của ĐHĐCĐ sẽ có giá trị pháp lý ràng
buộc đối với tất cả cổ đông ngay lập tức và
được thi hành trên thực tế, cổ đông thiểu số
buộc phải “miễn cưỡng” chấp nhận tính hợp
pháp của nghị quyết ĐHĐCĐ. Do đó, Điều
148 Luật DN năm 2014 quy định: (1) Các
nghị quyết của ĐHĐCĐ có hiệu lực kể từ
ngày được thông qua hoặc từ thời điểm hiệu
lực ghi tại nghị quyết đó. (3) Trường hợp có
cổ đông, nhóm cổ đông yêu cầu Tòa án hoặc
Trọng tài hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ
theo quy định tại Điều 147 của Luật này, thì
các nghị quyết đó vẫn có hiệu lực thi hành
cho đến khi Tòa án, Trọng tài có quyết định
khác, trừ trường hợp áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời theo quyết định của cơ
quan có thẩm quyền. Như vậy, trong thời
gian chờ đợi kết luận đúng/sai của cơ quan
tài phán thì cổ đông thiểu số có trách nhiệm
chấp hành Nghị quyết ĐHĐCĐ. Nếu cơ
quan tài phán bác yêu cầu của cổ đông thiểu
số thì Nghị quyết ĐHĐCĐ sẽ tiếp tục có giá
trị pháp lý ràng buộc đối với tất cả các cổ
đông. Ngược lại, nếu yêu cầu được chấp
nhận, thì trách nhiệm “miễn cưỡng” chấp
nhận Nghị quyết ĐHĐCĐ chấm dứt ngay tại
thời điểm phán quyết có hiệu lực pháp luật,
và tất cả cổ đông phải tuân thủ phán quyết.
Mặt khác, khi giao dịch với đối tác thì người
đại diện cho công ty có đầy đủ tính hợp pháp
từ kết quả đã được ĐHĐCĐ thông qua và
đối tác cũng không cần quan tâm đến sự
xung đột quyền lợi của các cổ đông. Vì vậy,
yếu tố không tranh chấp là đặc trưng của
loại việc yêu cầu về dân sự được diễn giải
trong tình huống này có lẽ là sự đồng thuận
tạm thời của cổ đông thiểu số đối với tính
hợp pháp về mặt hình thức của Nghị quyết
ĐHĐCĐ. Do đó, trong trường hợp này, cần
xác định đây là yêu cầu về dân sự, tư cách
tham gia tố tụng của cổ đông thiểu số là
người yêu cầu, công ty là người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan. Luật TTTM hiện
hành không điều chỉnh đối với loại việc yêu
cầu về dân sự.
- Quan điểm thứ hai: Hướng đến nội
dung quan hệ pháp luật
Trong quá trình hoạt động kinh doanh,
không phải lúc nào công ty cũng nhận được
13 Điều 361 Bộ luật TTDS 2015 quy định: “Việc dân sự là việc cơ quan, tổ chức, cá nhân không có tranh chấp, nhưng
có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của mình hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; yêu
cầu Tòa án công nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động”.
54
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 04(332) T2/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
sự đồng thuận của tất cả cổ đông, và không
phải lúc nào ý kiến của đa số cổ đông cũng
đều sáng suốt, mà đôi khi xâm phạm đến
quyền lợi của cổ đông thiểu số. Bản chất
mối quan hệ tranh chấp ở đây là giữa cổ
đông thiểu số với cổ đông đa số, được luật
hóa trở thành mối quan hệ tranh chấp giữa
cổ đông thiểu số với công ty, vì công ty là
chủ thể pháp luật có nghĩa vụ phải thực hiện
nội dung nghị quyết của ĐHĐCĐ theo quy
định của điều lệ công ty. Yếu tố tranh chấp
sẽ được kéo dài từ khi cổ đông thiểu số bày
tỏ ý kiến phản đối cho đến khi phán quyết
tuyên chấp nhận yêu cầu. Hướng luận giải
này là tương thích với pháp luật các nước
trên thế giới khi liệt kê loại tranh chấp này
vào nhóm tranh chấp nội bộ trong công ty.
Điều khoản trọng tài trong điều lệ của công
ty Đức quy định về nghị quyết cổ đông nêu
rằng: Tất cả tranh chấp từ, hoặc liên quan tới
Điều lệ sẽ được giải quyết duy nhất bằng một
hội đồng trọng tài. Hội đồng trọng tài sẽ
quyết định các công việc cụ thể về: (i) Tính
hiệu lực của Điều lệ, nội dung và sự giải
thích; (ii) Bất cứ một tranh chấp nào giữa
công ty hoặc một trong các thành viên và cổ
đông; (iii) Tranh chấp giữa cổ đông; (iv)
Tranh chấp quyết định tuyên bố của cổ đông
là bị vô hiệu hoặc bị tuyên bố không có hiệu
lực; (v) Tranh chấp giải thể công ty14.
Rõ ràng, với các quy định của pháp
luật hiện hành, các Trung tâm Trọng tài ở
Việt Nam sẽ lúng túng nếu nhận được đơn
kiện về yêu cầu xem xét, hủy bỏ nghị quyết
của ĐHĐCĐ và nguy cơ phán quyết trọng
tài bị Tòa án tuyên hủy là việc khó tránh
khỏi. Cách xây dựng thẩm quyền giải quyết
tranh chấp của Trọng tài theo pháp luật hiện
hành ở Việt Nam vẫn còn mang tính bị động
nên cần phải xem xét lại cho phù hợp với
yêu cầu thực tiễn. Thực tế đã có tranh luận
xảy ra ở Đức là liệu Hội đồng trọng tài có
thể quyết định tính hiệu lực một nghị quyết
cổ đông? Theo Luật Trọng tài năm 1998 của
Đức thì điều này là khả thi trong điều kiện
liên quan tới trường hợp tranh chấp nhiều
bên đã giải quyết một cách phù hợp theo
điều lệ hoặc nội quy của công ty. Trường
hợp tương tự cũng đã xảy ra tại Áo hoặc
Thụy Sĩ. Tất cả các cổ đông phải có cơ hội
tham gia việc thành lập Hội đồng trọng tài
và trong quá trình giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài. Nguyên tắc này được ra đời
trên cơ sở quyết định của Tòa sơ thẩm của
Pháp đối với vụ Ducto15. Tuy nhiên, trong
trường hợp nguyên đơn là nhóm cổ đông
thiểu số sẽ phát sinh những vấn đề pháp lý
mới liên quan như lựa chọn Trung tâm
Trọng tài, chỉ định Trọng tài viên, nếu
trong nội bộ nhóm cổ đông có sự không
đồng thuận, vì Luật TTTM hiện hành của
nước ta chưa dự liệu được những tình
huống này nên không có tiêu chí nào để giải
quyết thấu đáo sự việc.
3. Kiến nghị
Hiện nay, trong BLDS năm 2015, Bộ
luật TTDS năm 2015, Luật DN năm
2014, đang có sự không thống nhất về
phạm vi thẩm quyền trọng tài. Những lỗ
hổng pháp lý này cần sớm được khắc phục
để đảm bảo quyền lựa chọn phương thức
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và sự an
toàn của phán quyết trọng tài, đặc biệt là khi
các đạo luật quan trọng đã, đang và sẽ phát
sinh hiệu lực trong thực tiễn. Luật TTTM
cần mở rộng phạm vi thẩm quyền giải quyết
của Trọng tài đối với các tranh chấp dân sự
và một số yêu cầu về dân sự nhất định để
phù hợp với yêu cầu thực tiễn, tạo sự đồng
bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật,
cũng như phải đảm bảo tối đa quyền tự định
đoạt của các bên trong việc lựa chọn hình
thức tài phán n
14 Albert Jan Van Den Berg (Chủ biên) (2000), tldd, tr. 88.
15 Albert Jan Van Den Berg (Chủ biên) (2000), tldd, tr. 87.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tham_quyen_giai_quyet_tranh_chap_cua_trong_tai_trong_thuc_ti.pdf