Xã hội loài người phát triển thông qua quá trình lao động và sản xuất, thế nhưng chính quá trình ấy một mặt đã đưa con người tới bước phát triển vượt bậc, mặt khác lại là căn nguyên của những nỗi lo thường trực của con người vì trong quá trình lao động và sản xuất con người luôn đứng trước nguy cơ gặp phải rủi ro bất ngờ sảy ra ngoài mong đợi:
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, ở, mặc và đi lại . để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để sản xuất ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm được sản xuất ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng của họ. Thế nhưng, trong thực tế không phải lúc nào con người cũng gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều phát sinh ngẫu nhiên làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bị bất ngờ ốm đau hay bị tai nạn lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ suy giảm. khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện một số nhu cầu mới như: cần được khám chữa bệnh khi ốm đau, tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng. Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: San sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng; Đi vay, đi xin hay dựa vào sự cứu trợ của nhà nước. song đó là những cách làm thụ động và không chắc chắn.
73 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1457 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thành lập quỹ Bảo hiểm xã hội thành phần ở Bảo hiểm xã hội Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dương thì quỹ sẽ lớn lên về số tuyệt đối, đồng thời khi mở rộng đối tượng tham gia đóng BHXH cũng có nghĩa là tăng dần tích luỹ (về mặt giá trị tuyệt đối) của phần quỹ tạm thời nhàn rỗi nhất là đối với quỹ BHXH dài hạn. Nếu như đầu năm 1995 toàn quốc có 3174197 lao động tham gia BHXH thì đến nay con số đó đã tăng gấp đôi.
Bảng 04: Thu BHXH Tỉnh Sơn La 1996-2000.
Đơn vị
1996
1997
1998
1999
2000
Số ĐV t/gia BHXH
Tốc độ PT
ĐV
%
462
100
584
126,4
680
116,43
689
101,32
701
101,74
Số LĐ t/gia BHXH
Tốc độ PT
Người
%
26434
100
28848
109,13
33760
117,03
34857
103,25
34950
100,26
Số thu BHXH
Tốc độ PT
Tr.đồng
%
19391
100
24766
127,72
28961
116,94
30492
105,29
38821
128,58
Nguồn: BHXH Tỉnh Sơn La.
Các đơn vị tham gia BHXH đa số nhận thức tốt, có trách nhiệm tham gia bảo hiểm xã hội và thu nộp đầy đủ. Trong tổng số các đơn vị tham gia BHXH thì các đơn vị thuộc doanh nghiệp ngoài quốc doanh có số lao động tham gia tăng nhanh: Năm 1995 có 30.063 người, năm 1996 có 56.280 người, năm 1997 có 84.058 người, năm 1998 có 122.685 người tham gia BHXH, bình quân tăng 60%/năm. Năm 2000 tăng thêm 200.000 lao động tham gia BHXH so với năm 1999, điển hình:
+ Thành phố Hồ Chí Minh: Có 616.549 lao động tham gia BHXH , tăng so với năm 1999 là 43.158 lao động (tăng 8%), trong đó có 95.849 lao động ngoài quốc doanh, tăng 27% so với năm 1999.
+ Tỉnh Bình Dương: 90.809 lao động, tăng so với năm 1999 là 12.797 lao động (tăng 16%), trong đó 20.000 lao động ngoài quốc doanh, tăng 78% so với năm 1999.
+ Tỉnh Đồng Nai: 175.500 lao động, tăng so với năm 1999 là 14.088 lao động (tăng 9%), trong đó có 10.520 lao động ngoài quốc doanh, tăng 19% so với năm 1999.
Để đạt được những kết quả trên, Bảo hiểm xã hội Việt nam đã:
Luôn chú trọng công tác thu nộp BHXH, coi công tác thu là nhiệm vụ hàng đầu cho việc tăng trưởng và phát triển nguồn quỹ. Hội đồng thi đua các cấp đã đưa chỉ tiêu thu nộp BHXH là một trong các chỉ tiêu để xét công nhận danh hiệu thi đua đơn vị hoặc cá nhân.
Tích cực rà soát, tuyên truyền vận động để tăng thêm đối tượng tham gia đóng BHXH đối với những đơn vị sử dụng lao động và người lao động thuộc diện phải tham gia BHXH nhưng chưa tham gia BHXH. Đồng thời đôn đốc, kiểm tra, đối chiếu thường xuyên để thu đúng, thu đủ, thu kịp thời số tiền BHXH phát sinh theo quỹ lương hàng tháng, hàng năm.
Bên cạnh đó là công tác truy thu nợ đọng để ngăn chặn không để công nợ phát sinh thêm, nhất là cố gắng tối đa hạn chế hiện tượng chây ì để nợ đọng lưu cữu, chồng chất đến mức không còn khả năng trả nợ.
Công tác thu BHXH đã dần đi vào ổn định, ngành BHXH đã phối hợp tốt với các ngành chức năng cũng như tranh thủ sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương trong công các thu BHXH. Bên cạnh đó là công tác đào tạo nâng cao năng lực cán bộ, từng bước ứng dụng công nghệ tin học vào việc quản lý thu BHXH.
Bên cạnh đó, công tác thu BHXH vẫn còn một số tồn đọng sau:
Tình hình nợ tiền BHXH ở các đơn vị tham gia BHXH còn khá lớn làm ảnh hưởng đến nguồn thu BHXH, số tiền nợ BHXH của các đơn vị tham gia BHXH bình quân trên 10 tỷ đồng/năm, nguyên nhân một phần do các đơn vị gặp khó khăn trong hoạt động (đặc biệt là các đơn vị sản xuất kinh doanh) mặt khác là do ý thức của chủ sử dụng lao động, nợ tiền BHXH để dùng số tiền đó quay vòng kinh doanh, đỡ phải vay vốn. Trong khi đó người lao động do không hiểu rõ về BHXH lại mang sẵn tâm lý sợ mất việc nên đã không dám đấu tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
Bảng 05: Thu BHXH từ Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Đơn vị
1997
1998
Số đơn vị
Đơn vị
2358
3147
Số lao động
Người
84058
122685
Số đã thu
Tr. đồng
72414
118902
Số nợ đọng
Tr.đồng
6001
14716
Nguồn: Tạp chí Bảo hiểm xã hội.
- Nhiều đơn vị thuộc diện phải tham gia BHXH cho người lao động nhưng đã lẩn tránh nghĩa vụ tham gia và nộp BHXH vì ảnh hưởng đến lợi nhuận, hoặc có tham gia cũng chỉ mang hình thức chiếu lệ, nhiều doanh nghiệp chỉ đóng BHXH cho những người làm công tác quản lý doanh nghiệp, nộp BHXH thì tìm cách khai giảm tiền lương, giảm số lao động làm việc hoặc thực hiện hợp đồng lao động theo mùa vụ, ngắn hạn dưới 3 tháng để giảm số lao động không thuộc diện đóng BHXH với nhiều hình thức khác nhau như: không ký hợp đồng lao động, kéo dài thời gian thử việc... đây là những kẽ hở mà trong thời gian tới hệ thống BHXH phải lấp đầy.
Một trong những biện pháp để bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ BHXH là mở rộng đối tượng tham gia BHXH, tuy đã có nhiều lỗ lực, cố gắng của toàn hệ thống, song cho đến nay số tham gia BHXH chỉ mới đạt khoảng 4 triệu lao động thuộc diện bắt buộc trong tổng số hơn 40 triệu lao động, ngoài xã hội vẫn còn một lực lượng lớn chưa được khai thác nhằm mang lại lợi ích cho đầy đủ người lao động trong mọi thành phần kinh tế.
2. Công tác chi trả trợ cấp
Chi BHXH do hai nguồn bảo dảm cơ bản là Ngân sách (chi cho một số các đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội trước 01/01/1995) và nguồn do quỹ BHXH bảo đảm.
Theo quyết định 20/199/QĐ-TTg ban hành ngày 26/1/1998 thì nguồn ngân sách chi trả cho các trường hợp sau:
Trợ cấp hưu
Trợ cấp MSLĐ
Trợ cấp TNLĐ và người phục vụ người bị tai nạn lao động, trang cấp dụng cụ, phương tiện chuyên dùng cho người bị TNLĐ
Trợ cấp BNN
Trợ cấp công nhân cao su
Tiền tuất (định suất cơ bản và nuôi dưỡng ) và mai táng phí
Tiền mua BHYT
Lệ phí chi trả
Các khoản chi khác (nếu có )
Quỹ BHXH chi cho các đối tượng hưởng BHXH từ 1/1/1995 trở đi, gồm các khoản chi sau:
Trợ cấp hưu (thường xuyên và một lần)
Trợ cấp TNLĐ và người phục vụ người bị tai nạn lao động, trang cấp dụng cụ, phương tiện chuyên dùng cho người bị TNLĐ
Trợ cấp ốm đau
Trợ cấp thai sản
Trợ cấp BN N
Tiền tuất (định suất cơ bản và nuôi dưỡng) và mai táng phí
Tiền mua BHYT
Lệ phí chi trả
Các khoản chi khác.
Chi trả là kết quả của quá trình thực hiện chính sách BHXH, là khâu cuối cùng của công tác giải quyết các chính sách BHXH liên quan cho người lao động bị suy giảm sức lao động của mình- chế độ TNLĐ-BNN, chế độ ốm đau, thai sản... cho đối tượng hưởng lương hưu và các loại trợ cấp BHXH khi dã hoàn thành nghĩa vụ. Việc chi trả BHXH từ khi cơ quan Bảo hiểm xã hội được thành lập tới nay nhìn chung và cơ bản đảm bảo đúng- đủ- kịp thời, được người hưởng chế độ BHXH đồng tình ủng hộ, người lao động trong các đơn vị yên tâm công tác, phấn khởi tin tưởng vào đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Số đối tượng hưởng trợ cấp BHXH tăng qua các năm, trong đó số đối tượng hưởng trợ cấp hưu trí chiếm tỷ lệ lớn, tình hình thể hiện qua các bảng sau:
Bảng 06: Đối tượng hưởng BHXH thường xuyên do BHXH bảo đảm.
Đơn vị: Người
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
Hưu viên chức
10.789
24.212
40.258
64.070
92.876
Hưu QĐ
2.492
5.817
9.205
13.943
18.500
ĐX tuất
6.361
11.290
16.517
21.543
27.119
TNLĐ-BNN
958
2.210
4.020
5.640
7.167
Nguồn: BHXH Việt Nam.
Bảng 07: Đối tượng hưởng BHXH thường xuyên do NSNN bảo đảm.
Đơn vị: Người
1996
1997
1998
1999
2000
Hưu VC
1.006.340
996.235
978.867
966.291
959.503
Hưu QĐ
164.489
162.572
160.465
158.231
157.114
MSLĐ
395.026
380.132
367.017
352.407
347.102
ĐX tuất
172.609
164.419
162.672
160.037
158.720
TNLĐ-BNN
10.357
11.332
11.960
12.292
12.458
Nguồn: BHXH Việt Nam.
Qua số liệu ở các bảng 06, 07 ta thấy, số đối tượng hưởng BHXH từ NSNN giảm dần, còn số người hưởng BHXH lại tăng lên một cách rõ rệt, trong đó các đối tượng hưởng lương hưu rất lớn. Tuy nhiên so với các đối tượng hưởng từ NSNN thì chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Cụ thể về số tiền trợ cấp do hai nguồn bảo đảm cũng như tỷ lệ chi BHXH được thể hiện thông qua các bảng dưới:
Bảng 08: Chi BHXH do NSNN bảo đảm.
Đơn vị: Triệu đồng.
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
Hưu
3.442.207,3
4.071.355,2
4.060.887,2
3.982.515
4.983.593
MSLĐ
655.573,3
763.392,5
740.012,6
710.859
850.549
TNLĐ-BNN
10.191,9
12.812
13.034
12.984,5
15.308
Tử tuất
133.283,6
125.882,3
128.794,7
126.098,4
164.248
MTP
23.250,4
20.507,3
21.419,6
21.279,8
34.150
CN Cao su
1.337,8
1.535,7
1.493,0
1.416,3
1.657
Trang cấp dụng cụ
55,4
54,5
53,7
48,3
56,2
BHYT
117.493,3
141.572,3
136.943
135.167,9
166.757
L/phí chi trả
22.064
25.981
25.828.5
25.250,4
31.629
Tổng
4.405.457
5.163.092,8
5.128.466,3
5.015.619,6
6.247.947,2
Nguồn: BHXH Việt Nam.
Bảng 09: Chi BHXH do quỹ BHXH bảo đảm.
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
Hưu
197.718,3
346.208,6
448.861,4
631.598,5
991.575
TNLĐ-BNN
3.573,2
6.165,3
9.843
11.311,4
12.769
Tử tuất
14.078,5
15.124,1
21.249,6
24.623,2
32.613
MTP
5,2
4.670
5.623,2
5.781,8
9.500
ÔĐ
61.811,4
90.681,7
110.866,4
95.798,2
98.775
Thai sản
103.844
124.980,1
146.231,8
158.003,5
240.005
Tr/cấp D/Cụ
34,9
57,4
33
86
BHYT
557,9
2.005,8
5.380,7
8.474,6
17.404
Lệ phí chi trả
1.561,6
2.754,6
3.515,8
4.727
5.974
Tổng
383.150,1
593..525,1
751.629,3
940.351,2
1.328.701
Nguồn: BHXH Việt Nam.
Bảng 10: Cơ cấu chi BHXH.
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
NSNN
Quỹ BHXH
Tiền
Tỷ lệ (%)
Tiền
Tỷ lệ (%)
1996
4.405.457
92
383.150,1
8
1997
5.163.092,8
89,7
593.525
10,3
1998
5.128.466,3
87,2
751.629,3
12,8
1999
5.015.619,6
84,2
940.351,2
15,8
2000
6.247.947,2
82
1.328.701
18
Nguồn: BHXH Việt Nam.
Qua bảng số liệu trên chúng ta có thể nhận xét: Số các đối tượng hưởng trợ cấp BHXH biến động theo xu hướng: Thuộc NSNN giảm dần, thuộc quỹ BHXH tăng dần.
Đối tượng hưởng BHXH do NSNN bảo đảm tuy có giảm nhưng còn rất lớn (đến năm 2000 chi từ NSNN vẫn chiếm trên 80% tổng chi trợ cấp BHXH), nguyên nhân là do: Số đối tượng hưởng trợ cấp BHXH trước ngày 1.1.1995 là sản phẩm của quá trình thực hiện chính sách BHXH theo cơ chế cũ, có sự đan xen với các chính sách xã hội khác như chính sách trả ơn người có công với cách mạng, chính sách bảo đảm xã hội, giúp đỡ những người khó khăndo NSNN chi trả toàn bộ, do đó các đối tượng hưởng trợ cấp BHXH rất lớn. Rõ ràng việc thực hiện chính sách BHXH theo cơ chế cũ tồn tại rất nhiều bất cập và việc chuyển đổi cơ chế thực hiện chính sách BHXH là hoàn toàn đúng đắn. Việc thành lập BHXH Việt Nam để thực hiện quản lý quỹ tập trung về một mối có ý nghĩa to lớn, giải quyết được tình trạng quản lý lỏng lẻo, phân tán, thiết lập được mối quan hệ giữa người lao động và cơ quan BHXH.
Số chi từ quỹ BHXH tăng lên qua các năm cả về số tuyệt đối và số tương đối, sở dĩ số chi này ngày càng tăng là vì đối tượng hưởng BHXH do quỹ bảo đảm ngày càng tăng, đặc biệt là số người về hưu. Mặc dù vậy, số chi từ quỹ chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ so với số thu BHXH, nên có thể nói rằng sau khi quỹ BHXH chi trả trợ cấp và các khoản chi khác sẽ còn một số dư tương đối lớn, đây là nguồn đầu tư lớn góp phần bảo toàn và tăng trưởng quỹ.
Những bất cập trong công tác chi BHXH:
Việc chi trả BHXH có nhiều nơi còn chậm, các khoản chi đôi khi chưa rạch ròi dẫn đến tâm lý nghi ngờ chính sách BHXH từ phía người lao động.
Chế độ ốm đau, thai sản không quy định thời kỳ dự bị dẫn đến sự lạm dụng quỹ làm ảnh hưởng đến tài chính quỹ BHXH cũng như đối với người sử dụng lao động.
Đối với chế độ TNLĐ-BNN cần quy định rõ trách nhiệm ( lỗi ) của ai trong việc xảy ra tai nạn để có hình thức trả trợ cấp hợp lý.
Một trong những khó khăn hiện nay trong quản lý quỹ BHXH là Ngân sách nhà nước không đảm bảo kịp thời và đầy đủ số tiền chuyển cho quỹ BHXH để quỹ chi trả hộ cho các đối tượng mà NSNN bảo đảm.
3. Công tác đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội Việt nam hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, song do yêu cầu bảo toàn và tăng trưởng quỹ, thì việc dùng phần quỹ nhàn rỗi đem đầu tư là hết sức cần thiết, mặt khác hoạt động đầu tư góp phần quan trọng trong việc tăng trưởng, phát triển nền kinh tế đất nước. Do đó tham gia vào hoạt động đầu tư cũng có nghĩa Bảo hiểm xã hội Việt nam đã góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Được sự cho phép của Chính phủ, Bảo hiểm xã hội Việt nam đã dùng phần quỹ nhàn rỗi để đầu tư sinh lời. Với số thu tính đến hết năm 1999 là 4200 tỷ đồng, tổng số tiền do đầu tư quỹ là 1400 tỷ đồng. Riêng năm 1999 số tiền sinh lời là trên 600 tỷ đồng. Hình thức đầu tư chủ yếu là cho Nhà nước vay thực hiện các dự án quốc gia về giải quyết việc làm, chương trình xoá đói giảm nghèo và mua trái phiếu kho bạc. Trong đợt phát hành công trái của Nhà nước năm 1999 với tổng giá trị 4000 tỷ đồng thì Bảo hiểm xã hội Việt nam chiếm 25% (500 tỷ đồng).
Bảng 11: Các khoản cho vay bằng đồng tiền Việt Nam ( tính đến 8. 1998 ).
Đơn vị: Triệu đồng
Ngân sách nhà nước
1.078.636
Tổng cục đầu tư và phát triển
1.700.000
Ngân hàng đầu tư Việt Nam
950.000
Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia
500.000
Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam
400.000
Ngân hàng công thươngg hoàn kiếm
600.000
Cộng
5.228.636
Nguồn: BHXH Việt Nam.
Bảng 12: Tổng các đợt mua kỳ phiếu, trái phiếu.
Đơn vị: Triệu đồng.
STT
Tên kỳ phiếu, trái phiếu
Mệnh giá
Số tiền chuyển
Lãi suất
Ngày thu hồi vốn
1
Trái phiếu KBNN
100.000
90.909
10%
03.10.98
131.700
120.604
9,2%
21.10.98
160.700
147.296
9,1%
31.10.98
46.600
40.917
9%
07.11.98
73.800
67.706
9%
14.11.989
2
Kỳ phiếu NHNN VN
200.000
150.000
176.000
150.000
1%/t
1%/t
31.12.98
18.04.99
3
K/phiếu NHNN Láng hạ
57.471
50.000
1%/t
19.04.99
Nguồn: BHXH Việt Nam.
Tính đến ngày 31.12.99 tổng số tiền tạm thời nhàn rỗi dùng để đầu tư là 10.628 tỷ đồng.
Kết quả lãi đầu tư tăng trưởng đến 31.12.99 là:
Tổng số: 1.351 tỷ đồng.
Trong đó: Đến năm 1997: 209 tỷ đồng.
Phát sinh năm 1998: 163 tỷ đồng.
Phát sinh năm 1999: 979 tỷ đồng.
Các phương án đầu tư Bảo hiểm xã hội Việt nam đang nghiên cứu là: góp quỹ vào các dự án lớn, như: khai thác, chế biến dầu khí, điện tử viễn thông, các khu công nghiệp kỹ thuật cao... bảo đảm có lãi, khi cần rút vốn thuận lợi. Ngoài ra, đầu tư vào thị trường chứng khoán cũng là một hướng mở. Hiện nay, sàn giao dịch chứng khoán ở nước ta đã được mở tại Thành phố Hồ Chí Minh, tuy nhiên do mới hình thành nên còn nhiều vấn đề bất cập nên việc tham gia của quỹ BHXH vào lĩnh vực này là chưa nên nhưng trong tương lai đây sẽ là lĩnh vực đầu tư nhiều hứa hẹn.
Đánh giá tình hình đầu tư quỹ BHXH:
Việc đầu tư quỹ BHXH là một nét mới góp phần tăng cường khả năng duy trì và phát triển nguồn quỹ BHXH. Tuy nhiên các quy định về phạm vi cho hoạt động đầu tư quỹ BHXH chưa thật rộng rãi và thuận lợi cho công tác quản lý và tăng trưởng nguồn quỹ BHXH cho nên vẫn chưa đạt kết quả cao, chúng ta có thể nhận thấy điều này thông qua các bảng trên: Lãi suất trung bình thu được từ các khoản đầu tư quỹ BHXH chỉ dao động trong khoảng 6-7% trong khi đó trong một số năm thời kỳ 1995-1998 mức lạm phát lêm tới 9-10%. Điều này đặt ra trong thời gian tới cần có những thay đổi trong quy định lĩnh vực đầu tư BHXH Việt Nam được phép tham gia để hoạt động đầu tư có hiệu quả hơn.
IV. Phương hướng tổ chức thu-chi quỹ bảo hiểm xã hội
1. Sự mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bằng cả hình thức bắt buộc và tự nguyện
Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội là yếu tố bảo đảm an toàn xã hội và tăng nguồn đóng góp vào quỹ, đồng thời tạo ra sự chênh lệch dương giữa thu và chi quỹ bảo hiểm xã hội nhằm bảo tồn và tăng trưởng nguồn quỹ. Hiện nay, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội còn rất hạn hẹp: Xấp xỉ 4 triệu trong tổng số hơn 40 triệu lao động, trong đó lao động thuộc khu vực nhà nước là chủ yếu. Do đó việc mở rộng đối tượng tham gia là một nội dung trong chiến lược phát triển ngành bảo hiểm xã hội đến năm 2010:
Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc sẽ được mở rộng thêm: Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng dưới 10 lao động; người làm việc trong các HTX phi nông nghiệp; người làm việc trong các tổ chức bán công, dân lập có thuê mướn lao động của các ngành: Giáo dục, văn hoá, du lịch... Người làm việc thuộc các hộ gia đình đăng ký kinh doanh có thuê mướn lao động...
Hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện sẽ được thực hiện với các đối tượng: Xã viên các HTX nông nghiệp, ngư nghiệp, người lao động tự do... Dự kiến đến năm 2010 số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện khoảng 8 triệu người, đưa tổng số người tham gia bảo hiểm xã hội (cả bắt buộc và tự nguyện) chiếm 30% tổng số lao động trong cả nước.
Bảng 13: Dự báo số người có thể tham gia bảo hiểm xã hội.
Đơn vị: 1000 người
Năm
2005
2010
1. Dân số
82.000
87.000
2. Số người trong độ tuổi lao động
50.650
55.575
3. Số người tham gia BHXH bắt buộc
6.500
9.000
4. Số người tham gia BHXH tự nguyện
4.400
8.000
Nguồn: Vụ BHXH
Như vậy phần đóng góp của người lao động sẽ gồm:
Sự đóng góp của công chức nhà nước.
Sự đóng góp của lực lượng vũ trang.
Sự đóng góp của người lao động trong các doanh nghiệp.
Sự đóng góp của nông dân và lao động nông thôn.
Sự đóng góp của lao động nước ngoài tại Việt Nam (nếu có).
2. Mở rộng hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội -Thực hiện chế độ trợ cấp thất nghiệp
Như đã nêu, việc thực hiện 9 chế độ bảo hiểm xã hội trong Công ước 102 của ILO là mục tiêu của mỗi quốc gia. Việt Nam tuy chưa thể thực hiện được 9 chế độ do những điều kiện về kinh tế- xã hội, song việc mở rộng các chế độ sẽ được thực hiện từng bước phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước mà trước tiên là (trong giai đoạn hiện nay) thực hiện chế độ trợ cấp thất nghiệp, do vai trò đặc biệt quan trọng của chế độ này trong nền kinh tế thị trường vừa là công cụ góp phần giải quyết thất nghiệp, ổn định KT- CT- XH, vừa là một chính sách xã hội rất quan trọng trong việc bảo đảm đời sống người lao động.
Nếu thực hiện chế độ trợ cấp thất nghiệp thì sẽ do quỹ bảo hiểm xã hội ngắn hạn bảo đảm do thời hạn trợ cấp được xác định trước và trong khoảng thời gian ngắn.
3. Dự báo quỹ bảo hiểm xã hội
a, Dự báo thu bảo hiểm xã hội
Căn cứ dự báo:
Số người dự kiến bảo hiểm xã hội giai đoạn 2000- 2010
Mức lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bình quân 1 người của năm 1998 từ năm 2000 trở đi tính bù giá vào lương (tính bình quân tỷ lệ trượt giá 5%/ năm).
Tỷ lệ đóng góp bảo hiểm xã hội: Chủ sử dụng lao động đóng 20% (hiện hành 15%, thêm 5% cho chế độ thất nghiệp và chi quản lý), người lao động đóng 6% (hiện hành 5%, thêm 1% cho chế độ thất nghiệp).
Bảng 14: Dự báo thu BHXH đến năm 2010.
Đơn vị tính: Triệu đồng
Năm
2005
2010
Thu BHXH bắt buộc
11.939.739
21.099.420
Thu BHXH tự nguyện
(Cả đối tượng xã phường)
1.528.348
3.502.220
Tổng cộng
13.468.087
24.601.640
Nguồn: Vụ BHXH Bộ lao động thương binh và xã hội
b, Dự báo chi quỹ BHXH
Căn cứ dự báo
Tổng số người dự kiến nghỉ hưu giai đoạn 2000- 2010 do quỹ BHXH chi trả.
Dự kiến số mỗi năm số người về hưu khoảng 9 vạn người.
Lương hưu bình quân một người có cộng thêm tỷ lệ trượt giá (bình quân 5%/năm).
Tỷ lệ chết bình quân 1 năm là 3,2%.
Chi ốm đau thai sản là 4% trên tổng số lương làm căn cứ đóng BHXH.
Bảo hiểm y tế của số người nghỉ hưu tính 3% trên mức lương hưu có cộng thêm trượt giá.
Tiền mai táng phí, tuất một lần, tuất định suất cộng thêm tỷ lệ trượt giá.
Bảng 15: Dự báo chi quỹ BHXH đến năm 2010.
Đơn vị
2005
2010
Số người hưởng lương hưu từ quỹ BHXH.
Người
640.000
1.090.000
Tổng số tiền dự kiến chi từ quỹ BHXH
Triệu đồng
6.112.434
12.320.648
Trong đó
Chi lương hưu
“
3.391.172
7.371.279
Chi bảo hiểm tế
“
101.735
221.138
Chi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp
“
1.836.882
3.246.064
Chi tiền tuất
“
243.922
498.102
Chi quản lý bộ máy
“
538.723
984.065
Nguồn: Vụ BHXH
c, Cân đối quỹ BHXH
Bảng 16: Bảng cân đối thu-chi quỹ BHXH.
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
Tổng thu BHXH
Tổng chi BHXH
Số dư
2001
7.257.668
2.703.150
4.554.518
2002
8.623.973
3.448.827
5.175.146
2003
10.108.765
4.262.231
5.846.534
2004
11.720.476
5.148.354
6.572.122
2005
13.468.087
6.112.434
7.355.653
2006
15.361.161
7.161.690
8.199.471
2007
17.409.874
8.300.592
9.109.282
2008
19.625.052
9.535.478
10.089.574
2009
22.018.219
10.873.101
11.145.118
2010
24.601.640
12.320.648
12.280.992
Nguồn:Vụ BHXH
Bảng số liệu trên cho thấy trong tương lai quỹ BHXH sẽ có số dư tương đối lớn (nếu tính cả tồn tại quỹ qua các năm thì đến 2010 quỹ BHXH sẽ có số dư là 94.293.606 triệu đồng).
Trên cơ sở dự báo trên giúp cho BHXH Việt Nam phối hợp với các cơ quan chức năng hoàn thiện và nghiên cứu các chính sách BHXH làm cho ngành BHXH Việt Nam ngày càng trở nên phong phú và đa dạng và là nhu cầu của mọi người dân Việt Nam, từ đó đạt kết quả cao hơn trong tương lai.
Chương III
Thành Lập quỹ Bảo hiểm xã hội thành phần
ở Bảo hiểm xã hội Việt nam
I. Cơ sở lý luận và thực tiễn
1. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của quỹ bảo hiểm xã hội là một xu thế tất yếu của mỗi hệ thống bảo hiểm xã hội.
BHXH ra đời là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế hàng hoá và việc thiết lập quỹ BHXH cũng là một tất yếu đối với mỗi hệ thống BHXH. Để thực hiện các chức năng của mình, BHXH cũng như quỹ BHXH luôn phải tự hoàn thiện mình để đáp ứng được xu thế tiến bộ của xã hội.
Nếu như trước đây, quỹ BHXH của chúng ta chỉ tồn tại trên danh nghĩa (do yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa) thì đến nay chúng ta đã có một quỹ BHXH độc lập, tập trung, nằm ngoài Ngân sách Nhà nước, điều đó cho thấy những bước phát triển của hệ thống BHXH nói chung và quỹ BHXH nói riêng.
Hiện nay, đối với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của Việt Nam, việc thành lập các quỹ BHXH nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của người lao động trong mọi thành phần kinh tế.
2. Quỹ bảo hiểm xã hội là hạt nhân của tổ chức bảo hiểm xã hội
BHXH là chính sách xã hội nhằm bảo đảm thu nhập cho người lao động khi họ tạm thời hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động. Về mặt tài chính, BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung và việc tổ chức quỹ BHXH để từ đó thực hiện chính sách BHXH là chức năng cơ bản của mỗi hệ thống BHXH. Các hoạt động của BHXH ( công tácd thu, chi, giải quyết chính sách, quản lý sự nghiệp) đều xoay quanh vấn đề tổ chức và sử dụng quỹ BHXH. Quỹ BHXH được hình thành , tồn tại và phát triển gắn liền với chính sách xã hội, với chức năng vốn có của nhà nước, vì quyền lợi của người lao động. Do đó quỹ BHXH là hạt nhân tài chính của mỗi hệ thống BHXH. Việc xây dựng và hoàn thiện quỹ là yêu cầu và nhiệm vụ của BHXH, trong đó thành lập quỹ BHXH thành phần là một nội dung của công tác này.
3. Từ những bất cập trong tổ chức quản lý và thực hiện
Việc quy định mức đóng góp như hiện nay-có ý kiến cho rằng-là thấp và không đảm bảo lâu dài cân đối nguồn chi. Tuy nhiên lại có ý kiến cho rằng (chủ yếu là chủ sử dụng lao động) mức đóng góp như hiện nay là cao. Trong thực tế, các chi phí trên còn chưa rạch ròi từng khoản chi riêng rẽ, vì BHXH không có quỹ thành phần, do đó chúng ta cần thành lập ra các quỹ BHXH thành phần để từ đó có thể cân đối thu chi quỹ BHXH.
Các chế độ bảo hiểm xã hội của chúng ta hiện nay chưa hoàn thiện mà cần được tiếp tục nghiên cứu, đổi mới cho phù hợp:
Việc không quy định thời gian nhất định đóng BHXH trước khi nghỉ ốm hưởng BHXH sẽ dẫn đến sự lạm dụng, hoặc vừa làm việc đã nghỉ ốm dài ngày là không công bằng giữa đóng và hưởng BHXH.
Chế độ thai sản không quy định thời kỳ dự bị (thời gian đóng BHXH trước khi hưởng chế độ nghỉ đẻ), dẫn đến sự lạm dụng hoặc có trường hợp vừa tuyển dụng vào đã sinh con, ảnh hưởng đến tài chính quỹ BHXH cũng như người sử dụng lao động. Việc hạn chế chỉ cho hưởng chế độ thai sản ở hai lần sinh là không phù hợp với công ước quốc tế về BHXH.
Cách tính lương hưu như hiện nay có lợi cho những người có mức lương cao trước khi nghỉ hưu nhưng thiệt thòi cho những người có mức lương cao trong thời gian đầu tham gia công tác nhưng có mức lương thấp trước khi nghỉ hưu.
Mức đóng góp và mức hưởng bảo hiểm xã hội có sự chênh lệch quá xa giữa các khu vực hành chính sự nghiệp, khu vực sản suất kinh doanh và các tổ chức kinh tế xã hội khác. Sự chênh lệch quá lớn này làm mất đi ý nghĩa và mục đích của bảo hiểm xã hội.
...
Thành lập các quỹ BHXH thành phần sẽ cho phép việc cải cách từng chế độ được thuận lợi hơn nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội phù hợp nguyện vọng và ý chí của người lao động, với điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước.
4. Các chế độ có mục đích sử dụng và cơ chế đóng góp khác nhau
Mục đích của BHXH là nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp các rủi ro trong và cả ngoài quá trình lao động, tuy nhiên mục đích của việc chi trả trợ cấp các chế độ BHXH có khác nhau. Trợ cấp ngắn hạn nhằm bù đắp phần thu nhập tạm thời bị mất của người lao động và sẽ kết thúc khi người lao động đi làm trở lại, ngay cả trong trường hợp họ chưa thể đi làm trở lại thì việc trợ cấp vẫn có thể kết thúc theo quy định về thời gian tối đa người lao động được hưởng trợ cấp. Còn trợ cấp dài hạn nói chung không quy định giới hạn về thời gian người lao động được hưởng do khả năng lao động bị suy giảm không thể phục hồi, do đó trợ cấp dài hạn có mục đích đảm bảo ổn định đời sống người lao động trong thời gian dài.
Cũng do mục đích khác nhau của các chế độ ngắn hạn và dài hạn mà cơ chế đóng góp BHXH cho mỗi chế độ cũng khác nhau: Xác định mức đóng góp cho các chế độ ngắn hạn dựa vào cơ chế đánh giá hàng năm những chi phí có thể sảy ra, còn với các chế độ dài hạn thì việc xác định mức đóng góp phải dựa trên một khoảng thời gian tương đối dài quá trình đóng góp và hưởng trợ cấp cùng với những thay đổi có thể xảy ra trong thời gian đó. Nói chung, quy trình định phí BHXH đối với các chế độ dài hạn phức tạp hơn.
Việc tổ chức các quỹ BHXH thành phần sẽ cho phép phát huy được tính độc lập tương đối của từng loại quỹ nhưng vẫn giữ được tính thống nhất của các hệ thống quỹ BHXH.
5. Đáp ứng được chiến lược đầu tư dài hạn và ngắn hạn
Trong quỹ BHXH luôn tồn tại một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi chưa được dùng đến cần được dùng để đầu tư nhằm:
- Bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ;
- Góp phần phát triển nền kinh tế đất nước.
Đối với các chế độ dài hạn, lượng tiền nhàn rỗi trong quỹ đôi khi rất lớn (do tính chất tích luỹ của quỹ) và trong một khoảng thời gian tương đối dài do đó đầu tư hài hạn với lợi nhuận cao là thích hợp nhằm đảm bảo khả năng chi trả trợ cấp BHXH cho người lao động trong tương lai.
Các chế độ ngắn hạn thực hiện cơ chế thu đến đâu chi đến đấy, tuy nhiên như thế không có nghĩa là không có một lượng tiền nhàn rỗi trong quỹ, đó là phần được trích lập cho những sự cố có thể sảy ra ngoài dự tính (đó là phần an toàn trong công thức xác định phí BHXH ) và phần này nên được đưa vào đầu tư ngắn hạn với tính thanh khoản cao.
Do đó việc thành lập quỹ BHXH thành phần sẽ cho phép chúng ta thực hiện chiến lược đầu tư (đầu tư ngắn hạn và đầu tư dài hạn) có hiệu quả hơn để từ đó nâng cao hiệu quả quỹ BHXH.
6. Phù hợp với nguyên tắc đổi mới của bảo hiểm xã hội
Theo quan điểm của BHXH thì: “Bảo hiểm xã hội phải được phát triển dần từng bước phù hợp với các điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể ”.
Nền kinh tế nước ta hiện nay đã có những bước phát triển đáng kể, GDP bình quân tăng, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được cải thiện, người lao động có khả năng hơn trong việc tham gia BHXH, với sự kết hợp cả hình thức bắt buộc và tự nguyện tham gia BHXH, trong thời gian tới số lượng người lao động tham gia BHXH ngày một lớn ở mọi ngành nghề, mọi thành phần kinh tế do đó ngành Bảo hiểm xã hội sẽ gặp khó khăn trong công tác quản lý đối tượng, thực hiện chi trả trợ cấp... đòi hỏi ngành Bảo hiểm xã hội phải đổi mới nhằm đáp ứng khả năng cũng như nhu cầu tham gia BHXH của người lao động.
Việc thành lập quỹ BHXH thành phần phù hợp với yêu cầu đổi mới và chúng ta hoàn toàn có thể thực hiện được. Với hơn 6 năm hoạt động của Bảo hiểm xã hội Việt nam và hơn 30 năm thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, đội ngũ cán bộ BHXH đã qua thực tiễn và có nhiều kinh nghiệm, với trình độ tổ chức và quản lý có thể đáp ứng được yêu cầu đổi mới BHXH.
iI. Những thuận lợi và khó khăn
1. Thuận lợi
Chính sách bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn, luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát và hỗ trợ kịp thời khi cần thiết. Bảo hiểm xã hội Việt nam thường xuyên nhận được sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ, sự quan tâm, tạo điều kiện của các Bộ, Ngành liên quan.
Trong những năm qua, Bảo hiểm xã hội Việt nam đã đạt được những thành tựu to lớn góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước, chính sách bảo hiểm xã hội đã tạo được niềm tin từ phía người lao động, làm cho người lao động ngày càng quan tâm, gắn bó mật thiết hơn với chính sách BHXH của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi để cơ quan BHXH phục vụ người lao động ngày càng tốt hơn và việc thành lập quỹ BHXH thành phần sẽ được người lao động đồng tình ủng hộ.
Đội ngũ cán bộ bảo hiểm xã hội qua thực tiễn công tác đã thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, nắm vững chính sách, pháp luật BHXH, tiếp thu những kiến thức mới về khoa học quản lý, tin học, ngoại ngữ... đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh mới.
2. Khó khăn
Bảo hiểm xã hội Việt nam mới trải qua hơn 6 năm thành lập và trưởng thành, trong bối cảnh chuyển đổi cơ chế, chuyển đổi tổ chức, Bảo hiểm xã hội Việt nam phải thực hiện nhiều công việc trong việc thực hiện chế độ chính sách BHXH, kiện toàn bộ máy hoạt động... Do đó trong tổ chức hoạt động vẫn còn nhiều bất cập.
Hiện nay chúng ta chưa có luật BHXH, do đó trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách BHXH còn gặp rất nhiều khó khăn, chưa có sự phân định rõ giữa quản lý nhà nước và quản lý sự nghiệp BHXH, cán bộ BHXH không có đủ phương tiện thực hiện các biện pháp chế tài khi người lao động, chủ sử dụng lao động vi phạm điều lệ BHXH
Trong quá trình hoạt động, BHXH Việt Nam đang gặp rất nhiều khó khăn do ngành mới thành lập, các chế độ BHXH đang trong quá trình hoàn thiện, chuẩn hoá đội ngũ cán bộ BHXH, kiện toàn cơ cấu tổ chức cũng như thống nhất cơ chế quản lý quỹ BHXH.
III. Thành lập quỹ bảo hiểm xã hội thành phần ở Bảo hiểm xã hội Việt nam
1. Quỹ bảo hiểm xã hội ngắn hạn
a, Các chế độ ngắn hạn
Các chế độ ngắn hạn được xác định dựa vào thời gian chi trả trợ cấp (nói cách khác là dựa vào thời gian hưởng trợ cấp tối đa) và thường là dưới một năm. Đặc trưng của các chế độ này là chi phí hàng năm thường ổn định khi thể hiện cả ở tỷ lệ thu hàng năm về bảo hiểm cũng như mức hưởng bình quân cho một người tham gia, qua một khoảng thời gian dài tính thường xuyên trong một năm.
Quỹ BHXH ngắn hạn được hình thành từ sự tham gia các chế độ ngắn hạn và được dùng riêng biệt để chi trợ cấp cho các chế độ này và các khoản chi phí cho hoạt động sự nghiệp.
Cơ chế tài chính của các chế độ ngắn hạn là thu đến đâu chi đến đấy hoặc theo cơ chế đánh giá hàng năm. Trong cơ chế không có dự trữ này, các mức đóng góp được xác định ở mức sao cho hàng năm, các mức này (cộng với thu nhập từ đầu tư ) phải thoả đáng để đáp ứng với các chi phí cho các chế độ và chi phí quản lý hàng năm. Để duy trì tỷ lệ đóng góp ổn định, một khoản chênh lệch nhỏ được bổ xung cho tỷ lệ đóng góp và quỹ tăng do khoản bổ xung này được đưa vào đự phòng các sự cố.
Bảo hiểm xã hội Việt nam hiện nay đang thực hiện các chế độ ngắn hạn bao gồm:
Chế độ ốm đau (đặc trưng bởi thời gian hưởng trợ cấp ốm đau tối đa là từ 30 đến 50 ngày đối với người làm việc trong điều kiện bình thường ).
Chế độ thai sản (thời gian nghỉ việc hưởng trợ cấp tối đa là 4 tháng đối với người làm việc trong điều kiện bình thường).
Chế độ TNLĐ-BNN trợ cấp một lần với mức suy giảm khả năng lao động từ 5%-30%.
Chế độ tử tuất trợ cấp một lần.
b, Xác định mức đóng góp BHXH
Mức đóng góp BHXH được ấn định vào đầu năm, sau đó được điều chỉnh vào cuối năm tuỳ theo tình hình thực tế trong năm. Tỷ lệ đóng góp được ấn định trước trên cơ sở các đánh giá tài chính bảo hiểm cả dựa vào thực tế trước đây của hệ thống cũng như thực tế rút ra từ các hệ thống khác. Điều quan trọng là tỷ lệ đóng góp được ấn định theo cách nó giữ được ổn định càng lâu càng tốt mà không cần đến việc ấn định quá cao.
Trong công thức xác định phí BHXH, phí thuần tuý được xác định như sau:
Ptt = Chi phí có thể sảy ra cho các chế độ
Hay Ptt =N.f.m.k
Trong đó N: Số người tham gia
f: Tần suất xảy ra rủi ro
m: Số ngày bình quân của một trường hợp rủi ro
k: Chi phí bình quân cho một ngày
Những thành phần trong tính toán thực tế sẽ phụ thuộc vào công thức trong đó số liệu có thể thu thập được thông quy các phương pháp thống kê (cuả một số năm trước đó), điều tra chọn mẫu và các phương pháp dự báo. Khi điều chỉnh phí bảo hiểm dựa vào sự thay đổi của các thành phần trong công thức trên.
Điều quan trọng là sau khi xác định được tổng chi phí cho các chế độ (hay tổng phí thuần tuý) ta phải gắn nó với tổng mức tiền lương hàng năm làm căn cứ đóng BHXH theo một tỷ lệ nhất định.
Sau đây là một ví dụ xác định mức đóng góp đối với chế độ ốm đau.
Các giả định:
Mức hưởng trợ cấp ốm đau = 50% tiền lương ngày
Số người lao động tham gia bảo hiểm xã hội N = 100.000
Tần số sảy ra rủi ro f = 1
Số ngày bình quân một trường hợp rủi ro m = 16
Tiền lương bình quân năm s = 1.200
Có 300 ngày làm việc trong một năm
Từ các giả định trên chúng ta tính được:
Chi phí bình quân cho một ngày k = 50%x1200/300 = 2
Tổng chi phí cho một năm = 100.000x0,5x16x2 = 1.600.000
Tổng tiền lương một năm làm căn cứ đóng góp là:
Nxs = 100.000x1200 =120.000.000
Vậy tỷ lệ đóng góp
Ptt = Tổng chi phí cho một năm/Tổng tiền lương đóng bảo hiểm
= 1.600.000/120.000.000 =0,0133 =1,33% của tiền lương đóng bảo hiểm.
2. Quỹ bảo hiểm xã hội dài hạn
a, Các chế độ dài hạn
Các chế độ dài hạn được phân biệt với các chế độ ngắn hạn bởi thời gian hưởng trợ cấp, thời gian hưởng trợ cấp dài và thường không xác định được một cách chính xác một người sẽ được hưởng trợ cấp trong khoảng thời gian bao lâu mà chỉ có thể xác định được khoảng thời gian trung bình mà người lao động được hưởng trợ cấp. Đây cũng là một trong những cơ sở để xác định mức đóng góp BHXH.
Cơ chế tài chính đối với các chế độ dài hạn là cân đối thu- chi BHXH trong một khoảng thời gian dài ( khoảng thời gian người lao động tham gia và đóng BHXH ) trước ảnh hưởng của những nhân tố có thể làm tăng chi phí hàng năm:
- Khi chế độ BHXH dài hạn dựa vào thu nhập của người tham gia BHXH thì mức bảo hiểm bình quân năm sẽ tăng mỗi năm tại thời điểm hoặc gần với thời điểm mà người đó đủ điều kiện để hưởng chế độ BHXH dài hạn.
- Người hưởng BHXH dài hạn những năm trước sẽ tiếp tục được nhận chế độ dài hạn và, bởi vì tuổi thọ ngày càng tăng, người hưởng chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn trong tương lai sẽ nhận bảo hiểm xã hội với một thời gian hưởng dài hơn.
- Chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn đã được chi trả có thể được tăng tuỳ theo mức tăng tiền lương hoặc giá cả sinh hoạt.
Các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn bao gồm:
Chế độ hưu trí: Với mức trợ cấp hàng tháng tối đa bằng 75% tiền lương bình quân 5 năm trước khi hưởng trợ cấp.
Chế độ TNLĐ-BNN trợ cấp hàng tháng.
Chế độ tử tuất trợ cấp hàng tháng.
Quỹ BHXH dài hạn được hình thành từ sự đóng góp của người lao động tham gia các chế độ dài hạn.
b, Xác định mức đóng góp BHXH
Với cơ chế thu đến đâu chi đến đó
Trong một hệ thống bảo hiểm xã hội dài hạn, theo nguyên tắc, tổng số hưởng chế độ sẽ tăng lên hàng năm trong một thời gian dài. Thời điểm mà hệ thống đạt được sự chín muồi phụ thuộc vào một loạt các yếu tố như dân số và kimh tế, cũng như phụ thuộc vào những quy định pháp lý về quản lý hệ thống.
Trong hệ thống với cơ chế tài chính thu đến đâu chi đến đó không được tạo nguồn, không có quỹ được tạo ra từ trước, và mức hưởng trong hệ thống dài hạn này sẽ được trả bằng những đóng góp hiện tại. Với đặc điểm chi phí hàng năm ngày càng tăng trong hệ thống bảo hiểm xã hội dài hạn, nếu cơ chế thu đến đâu chi đến đó được áp dụng, tỷ lệ đóng góp (theo phần trăm tiền lương của người tham gia bảo hiểm) có thể sẽ thấp trong thời kỳ hệ thống mới hình thành và sẽ tăng hàng năm trong rất nhiều năm sau đó.
Tuy nhiên trong hệ thống bảo hiểm xã hội dài hạn đã chín muồi, khi việc phân bố tuổi của đân số đã đạt được mức độ ổn định và số thu hàng năm tương ứng với số chi hàng năm thì cơ chế tài chính thu đến đâu chi đến đó lại tỏ ra thích hợp vì nó cho phép loại trừ được ảnh hưởng của lạm phát.
Cơ chế với mức bảo hiểm bình quân tổng thể
Tỷ lệ đóng góp trong cơ chế này là tỷ lệ được ấn định theo tỷ lệ phần trăm của thu nhập hàng năm làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội. Từ đó, trong một hệ thống bảo hiểm xã hội dài hạn điển hình, mức chi trả hàng năm đối với các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn có tỷ lệ tăng dần theo thu nhập làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội và từ đó, tỷ lệ đóng góp được thiết lập ở mức độ bảo đảm cân đối tài chính trong thời gian không hạn định giữa thu và chi của hệ thống, điều hiển nhiên là trong những năm đầu (và thường là rất nhiều năm) tỷ lệ đóng góp sẽ vượt quá tỷ lệ được áp dụng trong cơ chế thu đến đâu chi đến đó. Do vậy trong khoảng thời gian này, đóng góp hàng năm và thu nhập từ đầu tư của hệ thống sẽ vượt quá chi hàng năm. Mức vượt quá này tạo ra một dự trữ mang tính kỹ thuật (hoặc tài chính bảo hiểm) mà có thể được đầu tư và lãi suất từ đó sẽ bổ xung cho nguồn thu nhập từ đóng góp, khi chi hàng năm thực tế vượt quá đóng góp hàng năm dựa trên cơ chế tài chính với mức bảo hiểm bình quân tổng thể.
Trong hệ thống được tạo nguồn, dự trữ được dành để chi trả chế độ trong tương lai cần được tăng lên khi mức chi trả chế độ dài hạn của hệ thống tăng. Trở ngại đối với cơ chế này đó là ảnh hưởng của lạm phát dự trữ quỹ bảo hiểm, cũng như sự thay đổi về giá sinh hoạt làm giảm giá trị thực tế của mức hưởng trong khi điều chỉnh mức chi trả các chế độ là khó khăn (do tỷ lệ đóng góp đã được ấn định).
Một cơ chế tài chính thích hợp cho một hệ thống bảo hiểm xã hội dài hạn nên đáp ứng những tiêu thức sau:
Tỷ lệ đóng góp không nên vượt quá khả năng của người tham gia bảo hiểm, chủ sử dụng lao động và của nền kinh tế hỗ trợ cho hệ thống nói chung.
Dự trữ được tạo ra không nên vượt quá khả năng của đất nước để có thể hấp thụ một cách có hiệu quả vào đầu tư theo cách thức mang lại lợi nhuận.
Tỷ lệ đóng góp nên duy trì ổn định tương đối trong một thời gian dài, và bất cứ một sự tăng nào cũng nên thực hiện từ từ.
Cơ chế bảo hiểm cân đối
Trong cơ chế bảo hiểm cân đối, một tỷ lệ đóng góp được thiết lập sao cho, qua một khoảng thời gian quy định được cân đối (ví dụ 10, 15 hoặc 20 năm), thu nhập do đóng góp và lãi suất từ quỹ dự trữ của hệ thống sẽ đáp ứng được thoả đáng chi phí cho các chế độ và phí hành chính. Một trong những cơ chế mà ILO thường sử dụng là cơ chế bảo hiểm cân đối giúp cho phần dự trữ không bị giảm trong suốt khoảng thời gian được cân đối.
Theo định nghĩa này, trong khoảng thời gian cân đối, dự trữ phát sinh trong thời kỳ trước đó, (từ thu vượt quá chi) không đòi hỏi phải đáp ứng chi trả của hệ thống, được dùng vào đầu tư dài hạn. Tỷ lệ đóng góp trong giai đoạn đầu của thời kỳ cân đối, sẽ nằm giữa tỷ lệ đóng góp được áp dụng trong cơ chế thu đến đâu chi đến đó và tỷ lệ áp dụng trong cơ chế với mức bảo hiểm bình quân tổng thể.
Cơ chế tài chính bảo hiểm cân đối có những đặc trưng sau:
Thời kỳ cân đối được chọn với một độ dài giới hạn đủ để đảm bảo mức độ ổn định nhất định của tỷ lệ đóng góp.
Tỷ lệ đóng góp được xác định theo cách thức phần thu mong đợi (đóng góp và thu nhập từ đầu tư) của hệ thống, trong thời kỳ cân đối, sẽ bằng chi phí mong đợi.
Cơ chế tài chính không cho phép về nguyên tắc sử dụng quỹ tích luỹ để chi trả những chi phí hiện hành (chỉ lãi suất của quỹ được sử dụng).
Khi mức đóng góp hiện hành cộng với thu nhập từ đầu tư, không còn đủ để chi trả những chi phí hiện hành, mức bảo hiểm tăng lên đến mức đòi hỏi một thời kỳ cân đối thay thế.
Bảng 17: Tổng hợp các quỹ BHXH thành phần.
Quỹ BHXH ngắn hạn
Quỹ BHXH dài hạn
Nguồn hình thành
Người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ của nhà nước
Người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ của nhà nước
Cơ chế đóng góp
Đánh giá hàng năm những chi phí có thể sảy ra
thu đến đâu chi đến đó (thích hợp đối với hệ thống BHXH đã chín muồi)
Bảo hiểm bình quân tổng thể
Bảo hiểm cân đối
Thời hạn trợ cấp
Dưới một năm
Không xác định
Các chế độ trợ cấp
ốm đau
Thai sản
TNLĐ-BNN (trợ cấp 1 lần)
Tử tuất (trợ cấp 1 lần)
Hưu trí
TNLĐ- BNN (trợ cấp hàng tháng)
Tử tuất (trợ cấp hàng tháng)
Chiến lược đầu tư
Đầu tư ngắn hạn
Đầu tư dài hạn
Iv. Tổ chức thực hiện
1. Sự thay đổi trong cơ cấu tổ chức và thực hiện
Bảo hiểm xã hội Việt nam được tổ chức theo hệ thống từ Trung ương đến địa phương theo sơ đồ sau:
Thủ tướng chính phủ
Hội đồng quản lý
Tổng GĐ BHXH
P.Tổng GĐ
P.Tổng GĐ
Các phòng ban nghiệp vụ BHXH
BHXH Tỉnh, TP trực thuộc TW
BHXH Quận, Huyện, Thị xã
Theo thông tư số 150/BHXH/TCCB của Bảo hiểm xã hội Việt nam hướng đẫn tổ chức công tác cán bộ của hệ thống BHXH ở địa phương thì bộ máy giúp việc Giám đốc BHXH tỉnh được tổ chức như sau:
Phòng quản lý chế độ chính sách BHXH .
Phòng quản lý thu BHXH.
Phòng quản lý chi BHXH.
Phòng kế hoạch-Tài chính.
Phòng tổ chức- Hành chính.
Phòng kiểm tra.
Căn cứ vào nhiệm vụ thu chi trả BHXH của BHXH tỉnh, cơ cấu tổ chức bộ máy giúp việc Giám đốc BHXH tỉnh được tổ chức theo mô hình trên đối với những tỉnh có mức thu, chi BHXH lớn. Đối với những tỉnh có mức thu, chi BHXH trung bình và thấp thì có thể ghép hai phòng 5+6 và 3+4.
Khi tách quỹ BHXH thành các quỹ thành phần, dựa vào mối quan hệ giữa các phòng ban đó với đối tượng tham gia BHXH và đối hưởng BHXH nên thành lập ra các bộ phận trong các phòng ban để thực hiện các chức năng phù hợp (bộ phận thực hiện các chế độ ngắn hạn và bộ phận thực hiện các chế độ dài hạn) .
Phòng Tổ chức-hành chính với chức năng riêng biệt là giúp giám đốc trong việc: Kiện toàn tổ chức bộ máy giúp việc, phối hợp công tác giữa các phòng chức năng, quản lý tổ chức công chức, viên chức... nói chung chức năng cơ bản của phòng Tổ chức- hành chính là quản trị nguồn nhân sự BHXH và không cần thiết phải thay đổi.
Các phòng quản lý thu và phòng kiểm tra cũng không thay đổi với lập luận các phòng này thực hiện công tác thu BHXH và kiểm tra trên cùng một đối tượng. Thật khó có thể thành lập ra hai bộ phận để rồi cùng đến thu BHXH ở một đối tượng hay đơn vị tham gia BHXH.
Các phòng quản lý chi BHXH và phòng Kế hoạch-tài chính nên thành lập hai bộ phận để thực hiện quản lý chi trả BHXH ngắn hạn và dài hạn cho các đối tượng hưởng trợ cấp dài hạn và ngắn hạn (Trang bên):
Phòng quản lý chi BHXH
Bộ phận chi ngắn hạn
Bộ phận chi dài hạn
- Xây dựng kế hoạch chi trả BHXH ngắn hạn theo quý, năm trên cơ sở số lượng đối tượng hưởng BHXH ngắn hạn...
- Hàng quý, lập dự toán chi BHXH ngắn hạn theo hướng dẫn của BHXH Việt nam và chuyển dự toán cho bộ phận ngắn hạn phòng Kế hoạch-tài chính
- Lập danh sách chi BHXH ngắn hạn cho từng đối tượng hưởng BHXH
...
- Phối hợp với các phòng chức năng và thực hiện nhiệm vụ khác do Giám đốc BHXH tỉnh giao
- Xây dựng kế hoạch chi trả BHXH dài hạn theo quý, năm trên cơ sở số lượng đối tượng hưởng BHXH dài hạn...
- Hàng quý, lập dự toán chi BHXH dài hạn theo hướng dẫn của BHXH Việt nam và chuyển dự toán cho bộ phận dài hạn phòng Kế hoạch-tài chính
- Lập danh sách chi BHXH dài hạn cho từng đối tượng hưởng BHXH
...
- Phối hợp với các phòng chức năng và thực hiện nhiệm vụ khác do Giám đốc BHXH tỉnh giao
Phòng kế hoạch-tài chính BHXH
Kế hoạch-tài chính ngắn hạn
Kế hoạch-tài chính dài hạn
Tổng hợp, đánh giá thực hiện kế hoạch thu, chi BHXH ngắn hạn theo quý, năm
Nộp kịp thời nguồn thu BHXH ngắn hạn vào tài khoản BHXH Việt nam
Tổ chức cấp phát và quản lý kinh phí chi cho hoạt động ngắn hạn và hoạt động chung được phân bổ
...
Phối hợp với các phòng chức năng và thực hiện các công việc khác
Tổng hợp, đánh giá thực hiện kế hoạch thu, chi BHXH dài hạn theo quý, năm
Nộp kịp thời nguồn thu BHXH dài hạn vào tài khoản BHXH Việt nam
Tổ chức cấp phát và quản lý kinh phí chi cho hoạt động dài hạn và hoạt động chung được phân bổ
...
Phối hợp với các phòng chức năng và thực hiện các công việc khác
2. Nguồn quỹ BHXH ban đầu và vấn đề kinh phí hoạt động
Hiện nay BHXH Việt nam có một quỹ BHXH chung, khi thành lập ra các quỹ BHXH thành phần thì số tiền trong quỹ hiện nay sẽ được phân bổ cho hai quỹ theo cơ cấu thu BHXH của từng chế độ so với tổng thu. Tuy nhiên Bảo hiểm xã hội Việt nam không quy định mức thu đối với từng chế độ. Điều lệ BHXH quy định về mức đóng góp như sau:
Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham gia bảo hiểm xã hội trong đơn vị; trong đó 10% để chi các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi các chế đ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Theo quy định trên, các mức đóng góp 5% và 15% để chi cho cả chế độ ngắn hạn và dài hạn nên không thể tính được tỷ lệ thu của từng chế độ trong tổng thu BHXH. Do đó, để xác định lượng ban đầu của mỗi quỹ BHXH thành phần, ta dựa vào cơ cấu chi BHXH đối với từng chế độ theo bảng sau:
Bảng 18: Cơ cấu chi BHXH.
Đơn vị: Triệu đồng.
Năm
Trợ cấp một lần
Hàng tháng
Tổng chi
1996
293.442,1
4.471.539,4
4764.981,5
1997
398.659,3
5.329.223
5.727.882,3
1998
482.759,2
5.367.992,1
5.850.751,3
1999
509.754,2
5.416.239,2
5.925.993,4
2000
672.216
6.866.829,2
7.539.045,2
Tổng
Tỷ lệ
2.356.830,8
8 (%)
27.451.822,9
92 (%)
29.808.653,7
100 (%)
Nguồn: BHXH Việt Nam.
Do đó, nguồn ban đầu của các quỹ được tính theo tỷ lệ sau:
Q = 8%*Q +92%*Q =Q1 + Q2 ;
Trong đó:
Q: quỹ BHXH hiện nay.
Q1 =8%*Q: nguồn ban đầu quỹ BHXH ngắn hạn.
Q2 =92%*Q: nguồn ban đầu quỹ BHXH dài hạn.
Vấn đề kinh phí hoạt động
Hiện nay chính phủ cho phép BHXH Việt nam được trích 4% số thu BHXH để chi cho hoạt động sự nghiệp, do đó mỗi quỹ BHXH thành phần cũng sẽ được trích 4% để chi cho hoạt động sự nghiệp, trong đó:
Quỹ BHXH ngắn hạn bảo đảm: - Chi trợ cấp ngắn hạn
- Chi quản lý
- Chi cho hoạt động chung được phân bổ
- Chi khác
Quỹ BHXH dài hạn bảo đảm: - Chi trợ cấp dài hạn
- Chi quản lý
- Chi cho hoạt động chung được phân bổ
- Chi khác
Kinh phí hoạt động chung được phân bổ theo tỷ lệ thu BHXH.
Sau đây là một ví dụ về chi hoạt động BHXH do hai quỹ bảo đảm:
Bảng 19: Lương CB-CNV BHXH Tỉnh Sơn La tháng 01 năm 2001.
Chức danh
Tổng mức lương (đ)
Chức danh
Tổng mức lương (đ)
GĐ
PGĐ
1190700
852600
P. KH-TC
Trưởng phòng
Số nhân viên: 4
703500
2559300
P. Quản lý thu
Trưởng phòng
Số nhân viên:6
810000
3217200
P.QLCĐCS
Trưởng phòng
Số nhân viên: 6
785000
2558300
P. HC-TH
Trưởng phòng
Số nhân viên: 5
785400
2688000
P. Kiểm tra
Trưởng phòng
Số nhân viên: 2
694000
1150800
Tổng: 17994800
Nguồn: BHXH Tỉnh Sơn La
Giả sử phòng KH-TC có hai bộ phận: 2 nhân viên thuộc bộ phận ngắn hạn với mức lương 1239000 và 2 nhân viên thuộc bộ phận dài hạn với mức lương 1320300.
Chi lương do quỹ BHXH ngắn hạn bảo đảm:
Lương CB ngắn hạn: 1239000đ
Lương phân bổ: 8%*(17994800-2559300)=1234840 đ
Tổng: 2473840 đ
Chi lương do quỹ BHXH dài hạn bảo đảm:
Lương BC dài hạn: 1320300đ
Lương phân bổ: 92%*(17994800-2559300)=14200660 đ
Tổng: 15520960 đ
Đối với các khoản chi khác (cơ sở vật chất, hạ tầng, trang thiết bị... ) nếu phục vụ cho hoạt động của chế độ nào thì do quỹ của chế độ đó bảo đảm, nếu là hoạt động chung thì được phân bổ theo tỷ lệ tương tự như ví dụ trên.
3. Chiến lược đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội
Quỹ BHXH có thể dùng để đầu tư thông qua các phương thức sau:
Vốn vay: - Chứng khoán quốc gia
Chứng khoán được các tập đoàn hoặc các tổ chức pháp nhânphát hành và được nhà nước bảo đảm
- Công trái
- Tín dụng thế chấp (vốn vay được bảo đảm bằng tài sản cố định)
- Lãi suất tiền gửi ngân hàng
...
Cổ phần: - Cổ phiếu (cổ phần ưu đãi và cổ phần thường)
- Bất động sản
...
Cho dù đầu tư bằng phưong thức nào thì hoạt động đầu tư cũng phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
+ An toàn: Là điều kiện đầu tiên để cân nhắc đầu tư. Một tổ chức BHXH được giao phó quản lý tài sản của nhân dân, do vậy mà những nguyên tắc nghiêm ngặt phải được tiến hành nhằm bảo đảm an toàn và kiểm soát được đầu tư.
+ Lợi nhuận: Nói chung lãi suất phản ánh hiệu quả hoạt động BHXH và không một tổ chức nào khi tham gia đầu tư lại không mong muốn lãi suất cao, và đó cũng là một trong những nguyên tắc bảo tồn giá trị cho quỹ BHXH.
+ Khả năng thanh toán: Dự trữ sự cố của hệ thống chế độ ngắn hạn phải được ở những khoản có khả năng thanh toán cao, nghĩa là dễ dàng chuyển sang tiền mặt. Ngược lại, dự trữ kỹ thuật của hệ thống chế độ dài hạn không đòi hỏi khả năng thanh toán cao mà quan trọng hơn là phải có lãi.
+ Lợi ích kinh tế và xã hội: Lợi ích của BHXH còn là việc dùng quỹ BHXH để đầu tư vào các lĩnh vực quan trọng góp phần cải thiện sức khoẻ, giáo dục... góp phần tăng thu nhập quốc dân, tăng trưởng nền kinh tế.
Quỹ BHXH
Nguyên lý cơ bản đối với đầu tư quỹ BHXH được thể hiện qua sơ đồ sau:
Quỹ BHXH ngắn hạn
Quỹ BHXH dài hạn
Đầu tư dài hạn
Đầu tư ngắn hạn
K/năng thanh toán
Lãi suất
An toàn
Lợi ích KT-XH
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Bảo hiểm xã hội ở các nước thuộc khu vực Đông Nam á trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế- Hội thảo ILO tiểu khu vực Châu á về bảo hiểm xã hội ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi.
Báo cáo tổng kết công tác BHXH năm 2000 và chương trình công tác năm 2001.
Các xu hướng và sự phát triển của bảo hiểm xã hội ở khu vực Châu á và Thái Bình Dương- Hector Inductivo- Giám đốc Văn phòng khu vực Châu á Thái Bình Dương, Hiệp hội an toàn xã hội quốc tế.
Các vấn đề mang tính chính sách và thực hiện việc cải tổ các hệ thống lương hưu- Ngân hàng tái thiết và phát triển Châu âu.
Đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội đối với người lao động- Trần Quang Hùng- NXB Chính trị Quốc gia.
Giáo trình Bảo hiểm. Đại học Kinh tế Quốc dân- Hà nội.
Một số vấn đề cơ bản về dân số và phát triển - NXB Chính trị Quốc gia.
Tạp chí Bảo hiểm xã hội các số năm 2000, 2001.
Sơ lược quá trình phát triển và những đặc điểm bảo hiểm xã hội Việt nam - Nguyễn huy Ban - Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt nam.
Xây dựng yếu tố cho kế hoạch chi trả trợ cấp ở mức xác địnhvà kế hoạch đóng góp bảo hiểm ở mức xác định - John Turner & Sophie Korczyk, Vụ bảo hiểm xã hội, ILO Geneva.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3882.doc