Grouper seed harvested from wild sources provide importantly for the development of
commercial marine fish farming. The grouper fingerling exploitation in the Gulf of Quy Nhon initially
identified five species, including Banded grouper (Epinephelus amblycephalus), Yellow grouper (Epinephelus
awoara), Longtooth grouper (Epinephelus bruneus), Malabar grouper (Epinephelus malabaricus) and grouper
(Epinephelus sp); in which Malabar grouper occupied of high proportion of over 30%. Grouper fishing areas
are along the northern and western seacoast of the bay, where ground catching are the coasts from Ngheng
Rang extends into the south. Fishing gears of wild - catching seed are mainly by trap wire or nigh - light with
artificial substrate. The night - light trap operates at night to attract grouper living in trap, and wire trap set
up underground along the coast. Grouper fishing season just normally after a period of small flood from April
to May or rainstorms from July to August. The appearance of grouper juveniles is usually very short lasting
from 10 to 20 days and seasonal appearance may change. The production depends upon the number of dates
and time of appearance; production of grouper fingerlings estimated annual extraction about 2.4 million.
9 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 653 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thành phần loài và hiện trạng khai thác cá mú giống ở vịnh Quy Nhơn, Bình Định, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
241
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 13, Số 3; 2013: 241-248
ISSN: 1859-3097
THÀNH PHẦN LOÀI VÀ HIỆN TRẠNG KHAI THÁC
CÁ MÚ GIỐNG Ở VỊNH QUY NHƠN, BÌNH ĐỊNH
Võ Văn Quang*, Trần Thị Lê Vân, Trần Công Thịnh
Viện Hải dương học-Viện Khoa học và Công Nghệ Việt Nam
Số 1 Cầu Đá, Nha Trang, Khánh Hòa, Việt Nam
*E-mail: quangvanvo@gmail.com
Ngày nhận bài: 8-10-2012
TÓM TẮT: Cá Mú giống khai thác tự nhiên đã cung cấp nguồn giống quan trọng cho việc phát triển nuôi
cá thương phẩm. Nguồn cá Mú giống khai thác tự nhiên ở vùng vịnh Quy Nhơn bước đầu xác định 5 loài là cá
Mú Chấm Vạch (Epinephelus amblycephalus), cá Song Gio (Epinephelus awoara), cá Song Nâu (Epinephelus
bruneus), cá Mú Điểm Gai (Epinephelus malabaricus) và cá Song (Epinephelus sp); trong đó cá Mú Điểm Gai
chiếm tỉ lệ khá cao trên 30%. Vùng khai thác cá Mú giống vùng ven bờ phía Bắc và phía Tây của vịnh, nơi tập
trung khai thác ở ven bờ đá phía Tây vịnh, từ Ghềng Ráng kéo dài vào đến khu vực phía Nam. Ngư cụ khai
thác cá Mú giống chủ yếu bằng chà đèn và chà dây. Chà đèn đánh bắt vào ban đêm để thu hút cá Mú vào sống
bên trong chà, còn chà dây thả ngầm dọc theo bờ không dùng đèn. Mùa vụ khai thác cá Mú giống thường sau
thời kỳ mưa lũ tiểu mãn vào tháng 4 - 5 hoặc mưa dông kéo dài trong tháng 7 - 8 và thời gian xuất hiện cá Mú
giống thường rất ngắn, kéo dài từ 10 - 20 ngày. Mùa vụ xuất hiện có thể xê dịch. Sản lượng khai thác phụ
thuộc vào số lượng chà và thời điểm xuất hiện, ước tính sản lượng cá Mú giống khai thác hàng năm khoảng
2,4 triệu con.
Từ khóa: Cá Mú giống, hiện trạng khái thác, thành phần loài, vịnh Quy Nhơn.
MỞ ĐẦU
Họ cá Mú (Serranidae) trên thế giới có 475 loài
thuộc 64 giống [11]. Trong đó phân họ Epinephe-
linae gồm các loài cá có giá trị kinh tế cao, sản
lượng khai thác chiếm 90% tổng sản lượng của tất
cả các loài thuộc họ này. Các loài thuộc phân họ
Epinephelinae thường sống trong các vùng biển có
nhiều đảo, rạn đá và san hô [4]. Thị trường cá Mú
sống trên thế giới rất có tiềm năng, nhiều nước trong
khu vực Đông Nam Á và lân cận có giá trị xuất
khẩu cá Mú cao như Indonesia, Philippin, Đài Loan,
Singapore, Úc [19]. Giá của cá mú sống tại Hồng
Kông khá cao và phụ thuộc vào từng loài đánh bắt
tự nhiên hoặc nuôi [1]. Cá Mú được nuôi ở nhiều
nước ở khu vực Đông Nam Á bao gồm Indonesia,
Malaysia, Philippines, Đài Loan, Thái Lan, Hồng
Kông, Việt Nam và vùng Đông Nam của Trung
Quốc, Ấn Độ, Sri Lanka, Saudi Arabia, Hàn Quốc,
Úc, cũng như khu vực nhiệt đới của Đông Nam Hoa
Kỳ và Caribbean [15]. Có khoảng 22 loài cá Mú
được nuôi ở các nước Đông Nam Á và Đông Á [18].
Sản lượng cá Mú nuôi toàn thế giới năm 2003 tương
đương 54.000 tấn, đạt giá trị 328 triệu đôla Mỹ [16].
Theo Sadovy [17] sản lượng cá Mú nuôi hàng năm
khu vực các quốc gia Đông Nam Á (không bao gồm
Indonesia) là 23.000 tấn, khoảng 20% sản lượng này
dựa vào nguồn giống sinh sản nhân tạo và 80% là từ
giống tự nhiên.
Ở vùng biển Việt Nam họ cá Mú (Serranidae)
có 72 loài [10, 12-14]. Hiện nay ở nước ta nhu cầu
tiêu thụ trong nước và xuất khẩu cá Mú tương đối
cao, vì vậy cá Mú trong tự nhiên đang bị khai thác
quá mức. Nghề nuôi cá Mú ở nước ta đã hình thành
và đang phát triển mạnh, có hai vùng nuôi tập trung:
Võ Văn Quang, Trần Thị Lê Vân,
242
ở phía Bắc là 2 tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng và ở
phía Nam là các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh
Hòa. Theo Bộ Thủy sản [3] ở Việt Nam có khoảng
6.800 lồng nuôi cá biển; trong đó có 80% là nuôi cá
Mú và 500ha ao đìa nuôi cá Mú, sản lượng cá Mú
nuôi hàng năm khoảng 3.000 tấn, trong đó nuôi lồng
chiếm 2/3 sản lượng, các loài cá Mú thường được
nuôi ở Việt Nam: cá Mú Điểm Gai (Epinephelus
malabaricus), cá Mú Mè (E. coioides), cá Mú Chấm
Đỏ (E. akaara), cá Mú Blee-ker (E. bleekeri), cá Mú
Sáu Sọc (E. sexfasciatus), cá Mú Chấm Tổ Ong (E.
merra), cá Mú Ruồi (E. tauvina), cá Mú Dây (E.
fuscoguttatus); hai loài cá Mú Son (Cephalopholis
miniata) và cá Mú Chấm Nhỏ (Plectropomus
leopardus) thường được khai thác tự nhiên lưu tạm
để xuất khẩu. Giá trị thương phẩm từ cá Mú nuôi
hàng năm khoảng 300 tỉ đồng. Theo Lê Anh Tuấn
[9] ước tính nhu cầu về cá mú giống phục vụ nuôi từ
3.000.000 - 5.000.000 con/năm; phần lớn được khai
thác từ tự nhiên, sản xuất nhân tạo chỉ đáp ứng được
một phần nhỏ.
Bên cạnh đó, nhiều loài cá Mú đã được xếp vào
trong Sách đỏ thế giới của Tổ chức Bảo tồn Thiên
nhiên thế giới (IUCN), cần được quan tâm bảo tồn,
có biện pháp bảo vệ và khai thác hợp lý. Ở Việt
Nam có 3 loài cá Mú được xếp vào sách đỏ Việt
Nam năm 2007 [2]. Việc đánh giá tính đa dạng con
giống cá Mú không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế,
phục vụ cho khai thác, nuôi trồng mà còn mục đích
bảo tồn và phát triển bền vững nguồn lợi này. Bài
báo trình bày kết quả về thành phần loài cá Mú
giống thu được ở vịnh Quy Nhơn vào tháng 8/2010
và tháng 5/2011, nhằm cung cấp thông tin cơ bản về
thành phần loài và hiện trạng khai thác ở đây.
TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Mẫu cá Mú giống được thu bằng bẫy đèn (gọi là
chà) vào 22/8/2010 và 23-24/5/2011. Các bẫy đèn
thả ở khu vực vịnh Quy Nhơn (gần bờ Ghềng Ráng)
(hình 1). Số lượng mẫu thu được đã giám định loài
là 132 cá thể.
Phân loại cá Mú giống được tiến hành theo
phương pháp chuỗi dùng cho cá bột cá con được mô
tả bỡi [6, 7] như sau: các cá thể có hình thái, kiểu sắc
tố giống nhau được chọn thành nhóm riêng. Các cá
thể lớn nhất trong nhóm được phân loại dựa vào các
đặc điểm cá trưởng thành, tiếp tục như vậy đối với
các cá thể nhỏ hơn trong nhóm. Từ đó tách riêng ra
các loài, đồng thời quan sát đối chiếu với các tài liệu
mô tả cá bột, cá con đã được các tác giả công bố.
Hình 1. Vị trí thu mẫu cá mú giống ở vịnh Quy Nhơn
Mẫu cá được đo các chỉ tiêu hình thái như chiều
dài toàn thân (TL), chiều dài thân chuẩn (SL) chiều
dài đầu (HL), chiều cao thân (BD), đường kính mắt
(OD), số tia vây ngực (P), vây lưng (D), hậu môn
(A), vây bụng (V), vây đuôi (C) và số vảy đường bên
(Lt). Kiểu sắc tố, màu sác cũng được quan sát mô tả
và so sánh. Các tài liệu dùng phân loại [4, 8, 20].
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Thành phần loài cá Mú giống ở vịnh Quy Nhơn
1: Epinephelus amblycephalus 2: E. Awoara 3: E. bruneus
4: E. Malabaricus 5: Epinephelus sp
Hình 2. Tỉ lệ % cá giống các loài cá mú khai thác ở
vùng biển Quy Nhơn (Bình Định)
Thành phần loài cá Mú giống ở vịnh Quy Nhơn
bước đầu đã xác định được 5 loài là cá Mú Chấm
Vạch Epinephelus amblycephalus (Bleeker, 1857),
Thành phần loài và hiện trạng khai thác cá Mú
243
cá Song Gio Epinephelus awoara (Temminck &
Schlegel, 1842), cá Song Nâu Epinephelus bruneus
Bloch, 1793, cá Mú Điểm Gai Epinephelus
malabaricus Bloch & Schneider (1801) và cá Song
Epinephelus sp; trong đó cá Mú Điểm Gai chiếm tỉ
lệ khá cao trên 30% (hình 2).
Đặc điểm hình thái cá Mú giống ở vịnh Quy
Nhơn
Cá Mú Chấm Vạch Epinephelus amblyceph-
alus (Bleeker, 1857)
Synonym: Serranus amblycephalus Bleeker, 1857
Tên tiếng Anh: Banded grouper
Số lượng cá thể: 20 cá thể
Kích thước: 3,6 - 4,35cm
Mô tả: Cá còn nhỏ, chiều dài thân bằng 2,3 -
2,5 lần chiều dài đầu, bằng 2,9 - 3,2 lần chiều cao
thân. Nắp mang trước dạng tròn với 3 - 6 răng cưa
lớn ở góc, nắp mang sau có viền trên hơi lồi. Lỗ mũi
gần bằng nhau hoặc lỗ mũi sau lớn hơn lỗ mũi
trước. Vây lưng có tia gai cứng thứ 3 và 4 dài nhất,
màng nối giữa các gai tạo thành rãnh nông. Vây
ngực dài gấp đôi chiều dài vây bụng, vây đuôi tròn.
Ở cá con các đặc điểm giống cá trưởng thành;
D: XI. 15; A: III. 8; P: 18; V: I, 5; C: 26. Số vảy
đường bên: 52.
Hình 3. Cá giống loài cá Mú Chấm Vạch
Epinephelus amblycephalus (Bleeker, 1857)
Sắc tố: Cơ thể có màu xám nhạt, có 5 vạch lớn
màu nâu đậm phân bố vắt ngang qua thân từ lưng
xuống bụng gồm: 4 vạch ở phần thân và 1 vạch ở
phần bắp đuôi. Vạch đầu tiên kéo dài lên đến phần
gai của vây lưng, vạch thứ 3 và 4 có xu hướng trải
dài đến phần tia mềm vây lưng và vây hậu môn.
Dọc theo đường viền ở các vạch lớn có phân bố
nhiều đốm đen nhỏ. Phần trên ổ mắt, mõm và hàm
có màu nâu đậm với 2 - 3 vạch dạng tia phóng xạ
tỏa ra từ mắt. Ngoài ra, ở phần giữa bắp đuôi còn có
các vạch đen không đều nhau xuất hiện.
Cá Song Gio Epinephelus awoara (Temminck &
Schlegel, 1842)
Synonym: Epinelhelus awoara (Temminck &
Schlegel, 1842)
Epinephelus awaora (Temminck &
Schlegel, 1842)
Serranus awoara Temminck &
Schlegel, 1842
Tên tiếng Anh: Yellow grouper
Số lượng mẫu: 9 con
Kích thước mẫu: 2,3 - 3,8cm
Mô tả: Cá còn nhỏ, chiều dài thân bằng 2,2 - 2,5
lần chiều dài đầu, bằng 2,7 - 2,9 lần chiều cao thân.
Phần trên ổ mắt lồi, nắp mang trước có dạng góc với
2-5 gai to khỏe, nắp mang sau có viền thẳng. Hàm
dài, tạo thành đường thẳng góc với viền sau của
mắt. Vây lưng có tia gai cứng thứ 3 hoặc 4 thường
dài nhất nhưng lại ngắn hơn những tia mềm dài
nhất. Vây ngực dài hơn vây bụng, chiều dài vây
ngực bằng 1,6 - 1,9 lần chiều dài đầu. Vây đuôi lồi.
Vảy đường bên có dạng vảy lược rõ ràng.
Ở cá con có đặc điểm giống như cá trưởng
thành, các chỉ tiêu như sau D: XI, 15-16; A: III, 8;
P: 17-19. Vảy đường bên: 54.
Hình 4. Cá giống loài cá Song Gio Epinephelus
awoara (Temminck & Schlegel, 1842)
Màu sắc: Cơ thể màu nâu xám nhạt, phần bụng
màu vàng. Phần thân có 4 vạch tối phân bố vắt ngang
Võ Văn Quang, Trần Thị Lê Vân,
244
qua thân, 1 vạch ở phần bắp đuôi và 1 vạch ở phía
trên phần cổ. Ngoài ra, phần đầu và thân có nhiều
đốm nhỏ màu vàng phân bố. Ở các vây và phần thân
còn có nhiều đốm nhỏ màu trắng xám rải rác.
Cá Song Nâu Epinephelus bruneus Bloch, 1793
Synonym: Cephalopholis moara (Temminck &
Schlegel, 1842)
Epinephelus brunneus Bloch, 1793
Epinephelus moara (Temminck &
Schlegel, 1842)
Serranus moara Temminck &
Schlegel, 1842
Tên tiếng Anh: Longtooth grouper
Số lượng cá thể: 24 con
Kích thước: 2,36-10,7cm.
Mô tả: Ở cá con, cơ thể thuôn dài, chiều dài
thân chuẩn gấp 2,8-3,5 chiều cao thân, bằng 2,2 -2,6
lần chiều dài đầu. Phần trên ổ mắt lồi, nắp mang
trước có răng cưa rõ tạo thành góc cạnh, nắp mang
sau lồi. Hàm dài, tạo thành đường thẳng góc với
viền sau của mắt. Hai lỗ mũi nhỏ và có kích thước
gần bằng nhau. Gai ở phía lưng của ổ mắt không rõ
ràng. Vây lưng có gai thứ 3 và thứ 4 dài nhất, màng
nối giữa các gai lõm sâu. Chiều dài vây bụng kéo
dài đến rất gần hậu môn, vây đuôi tròn.
Ở cá con có đặc điểm giống như cá trưởng
thành, các chỉ tiêu như sau D: XI, 13; A: III, 8; P:
17; V: I, 5; C: 24. Số vảy đường bên: 60.
Sắc tố: Cơ thể có 6 vạch lớn màu nâu vàng nhạt
vắt ngang qua thân từ lưng xuống bụng, vạch thứ
nhất trải dài từ cổ xuống mắt, vạch cuối cùng là ở
phần bắp đuôi. Bên trong mỗi vạch này lại có nhiều
chấm nhỏ màu nâu phân bố. Ngoài ra, phần dưới
mắt còn xuất hiện 3 vạch màu nâu đậm dạng hình
phóng xạ tỏa ra từ mắt đi xuống nắp mang.
Hình 5. Cá giống loài cá song nâu Epinephelus
bruneus Bloch, 1793
Cá Mú Điểm Gai Epinephelus malabaricus Bloch
& Schneider (1801)
Synonym: Cephalopholis malabaricus (Bloch
& Schneider, 1801)
Epinephelus cylindricus Postel, 1965
Epinephelus malabrica (Bloch &
Schneider, 1801)
Epinephelus salmoides (Lacepède,
1802)
Epinephelus salmonoides (Valenci-
ennes, 1828)
Holocentrus malabaricus Bloch &
Schneider, 1801
Holocentrus salmoides Lacepède, 1802
Serranus crapao Cuvier, 1829
Serranus estuarius Macleay, 1883
Serranus polypodophilus Bleeker, 1849
Serranus salmonoides Valenciennes,
1828
Serranus semipunctatus Valencienn-
es, 1828
Tên tiếng Anh: Malabar grouper
Số lượng cá thể: 43 con
Kích thước: 2,4 - 4,2cm
Mô tả: Ở cá con, cơ thể thuôn dài, chiều dài
thân chuẩn gấp 2,8 - 3,1 lần chiều cao cơ thể, bằng
1,9 - 2,3 chiều dài đầu. Mắt tròn, phần trên ổ mắt
bằng phẳng hoặc hơi lồi, nắp mang trước có dạng
góc cạnh với răng cưa lớn ở phần góc. Nắp mang
sau có viền trên gần như thẳng. Hai lỗ mũi có kích
thước gần bằng nhau. Vây lưng có tia gai cứng thứ 3
và 4 thường lớn hơn những gai lưng phía sau, chiều
dài của các gai này bằng 3,1 - 4,0 lần chiều dài đầu.
Tia gai thứ 3 ở vây hậu môn thường dài nhất. Vây
ngực kéo dài gần hậu môn. Vây đuôi tròn.
Cá con có đặc điểm giống như cá trưởng thành,
các chỉ tiêu như sau D: VI, 14-16; A: III, 8; P: 18-
20; V: I, 5; C: 26.
Sắc tố: Cơ thể màu nâu đậm, có nhiều đốm nâu
đen nhỏ phân bố kéo dài đến phần ngực, hàm dưới
miệng. Ngoài ra, còn có các sắc tố màu trắng dạng
vệt hoặc đốm tròn phân bố rải rác khắp cơ thể. Trên
cơ thể có 5 vạch màu nâu đậm không đều nhau vắt
ngang qua thân (từ lưng xuống bụng), các vạch
thường ít nhiều bị đứt quãng bởi các đốm sắc tố màu
xám nhạt phân bố xen giữa vào trong. Đối với các
cá thể có kích thước bé, khoảng trống giữa các vạch
ngang rộng và có sắc tố màu xám phân bố xen kẽ
Thành phần loài và hiện trạng khai thác cá Mú
245
nhưng cá thể càng lớn thì sắc tố xám càng nhiều nên
khoảng trống này càng thu hẹp dần.
Bên trong các vây có nhiều đốm sắc tố nhỏ màu
đen. Phần trước vây đuôi có 1 viền cong màu đen
không liên tục và tiếp theo viền cong xuất hiện
nhiều sắc tố dạng vệt không thẳng hàng.
Hình 6. Cá giống loài cá Mú Điểm Gai Epinephelus
malabaricus Bloch & Schneider (1801)
Cá Song Epinephelus sp
Cơ thể thuôn dài. Mắt tròn, phần trên ổ mắt
bằng phẳng hoặc hơi lồi. Nắp mang trước có dạng
góc cạnh với răng cưa lớn ở phần góc. Nắp mang
sau có viền trên gần như thẳng. Hai lỗ mũi có kích
thước gần bằng nhau. Vây lưng có tia gai cứng thứ 3
và 4 thường lớn hơn những gai lưng phía sau. Vây
hậu môn có tia gai thứ 3 thường dài nhất. Vây đuôi
tròn. Vảy đường bên: 54 - 64, là dạng vảy lược với
nhiều vảy phụ.
Sắc tố: Cơ thể màu nâu đậm, có nhiều đốm nâu
đen tạo thành vệt phân bố kéo dài từ đầu đến phần
đuôi, trên vây lưng và nắp mang. Xoang bụng có
màu trắng.
Hình 7. Cá giống cá Song Epinephelus sp
Hiện trạng khai thác cá Mú giống ở vịnh Quy
Nhơn
Vùng khai thác cá mú giống vùng ven bờ phía
Bắc (từ phường Trần Phú) và phía Tây của vịnh
(phường Ghềng Ráng), nơi tập trung khai thác ở ven
bờ đá phía Tây vịnh, từ Ghềng Ráng kéo dài vào
đến khu vực phía Nam (hình 8).
Hình 8. Khu vực khai thác cá Mú giống
ở vịnh Quy Nhơn
Ngư cụ khai thác cá Mú giống chủ yếu bằng chà
đèn và chà dây, loại ngư cụ này cũng được ngư dân
dùng khai thác tôm hùm, đến mùa có cá Mú giống
mang chà ra thả và bắt cá giống. Tuy nhiên vật liệu
làm chà để bắt cá Mú giống thích hợp là bằng cây
bụi, dây leo có nguồn gốc từ gỗ, cá Mú con không
vào trong chà làm bằng tấm lưới bằng cước. Chà
được cuộn lại thành bó tròn dài, bên ngoài bao bằng
lưới. Chà đèn đánh bắt (chong) vào ban đêm để thu
hút cá Mú vào sống bên trong chà, còn chà dây thả
ngầm dọc theo bờ không dùng đèn, loại này chỉ
dành cho những ngư dân không có ghe và máy phát
điện (hình 9).
Hình 9. Bó chà khai thác cá Mú (a) và một dạng
giàn chà chong đèn (b)
Mùa vụ khai thác cá Mú giống thường sau thời
kỳ mưa lũ tiểu mãn vào tháng 5 hoặc mưa dông kéo
dài tháng 8 và thời gian xuất hiện cá Mú giống
Võ Văn Quang, Trần Thị Lê Vân,
246
thường rất ngắn kéo dài từ 10 - 20 ngày. Mùa vụ
xuất hiện có thể xê dịch.
Sản lượng khai thác phụ thuộc vào số lượng chà
và thời điểm xuất hiện. Khi cá Mú giống mới xuất
hiện, ngư dân khai thác được số lượng lớn, có hộ
đánh bắt ít nhất 60 con, nhiều nhất hơn 1.000 con và
trung bình 400 con trong một đêm. Vào cuối vụ số
lượng cá mú giống giảm, khai thác chỉ còn 20 - 30
con/đêm, do đặc tính cá Mú con vào các chà sống
như là nơi ở, vì vậy sau vài ngày chúng vẫn còn ở
trong chà. Ngư dân có thể thu chà sau 3 - 4 ngày để
bắt được số lượng nhiều hơn vào những ngày cuối
vụ. Ngoài ra cá Mú giống còn được khai thác bằng
nghề lặn, bắt được cá có kích thước lớn hơn từ 50 -
100mm.
Theo ngư dân thì việc lựa chọn và phân biệt loại
cá Mú giống để nuôi thương phẩm, chủ yếu dựa vào
kinh nghiệm và màu sắc của con giống. Người nuôi
cá mua cá giống có kích thước tương đối lớn, nhờ
đó có thể xác định được đối tượng nuôi có giá trị
kinh tế. Tuy nhiên do khai thác cá ở giai đoạn con
non, có kích thước nhỏ và chưa có màu sắc rõ ràng;
vì vậy chúng được các đầu nậu mua với giá rẻ chỉ
khoảng 500 đồng/con cho loại nhỏ hơn 30mm và
1.000 đồng cho loại 30 - 50mm. Các con giống có
kích thước lớn, có màu sắc và có thể phân biệt được
thường được mua giá cao từ 3.000 đồng cho loại lớn
hơn 50mm. Do đó cá mú giống có kích thước càng
lớn có giá trị cao hơn. Qua ước tính sơ bộ ở vùng
biển vịnh Quy Nhơn đánh bắt khoảng 2,4 triệu
con/năm.
Thảo luận
Cá Mú được xem như là đối tượng hải sản có
giá trị kinh tế cao, được thị trường ưa chuộng. Cá
Mú giống tự nhiên là nguồn giống quan trọng phục
vụ nghề nuôi cá Mú lồng trên biển và trong các ao.
Nguồn giống phục vụ nuôi cá Mú thương phẩm với
80% là từ đánh bắt tự nhiên và chỉ khoảng 20% sinh
sản nhân tạo [16, 17]. Mặc dù có một số tiến bộ
trong việc sản xuất giống cá Mú nhân tạo, thì nguồn
giống cá Mú khai thác tự nhiên vẫn đóng vai trò
quan trọng trong nghề nuôi cá Mú thương phẩm;
chẳng hạn Đài Loan là quốc gia thành công trong
việc sản xuất giống cá Mú nhân tạo nhưng vẫn sử
dụng cá Mú giống khai thác từ tự nhiên, trong khi
đó ở các nước khác nguồn giống đánh bắt tự nhiên
là từ 80 - 100% [16].
Cá Mú giống xuất hiện ở vùng biển Quy Nhơn
như cá Song Gio (Epinephelus awoara), cá Mú
Điểm Gai (E. malabaricus), cá Song Nâu (E.
bruneus) đều là những loài có giá trị kinh tế cao,
kích thước lớn khi trưởng thành, rất phổ biến và
thường gặp [13]. Vùng biển Khánh Hòa cá Mú
giống khai thác chủ yếu các loài cá Mú Chấm Đỏ
Epinephelus akaara, cá Mú Sỏi E. bleekeri, cá Mú
Sông E. coioides, cá Mú Điểm Gai E. malabaricus,
cá Mú Chấm Tổ Ong E. merra và cá Mú Sáu Sọc E.
sexfasciatus với sản lượng hàng năm khoảng
200.000 con [5]. Về các loài cá Mú được nuôi phổ
biến ở khu vực các quốc gia Châu Á - Thái Bình
Dương [16-18] thì ở vùng biển vịnh Quy Nhơn có 2
loài là cá Mú Điểm Gai (Epinephelus malabaricus)
cá Song Gio (E. awoara) với số lượng giống tương
đối cao.
Hầu hết các loài cá Mú là những loài ăn thịt,
sống ở rạn, có kích thước lớn, vòng đời dài, sinh
trưởng chậm, thành thục muộn; hiện đang bị khai
thác quá mức và nhiều loài đang bị nguy cấp [4, 14,
15]. Ở vùng biển Quy Nhơn xuất hiện với số lượng
lớn con giống các loài cá Mú, chứng tỏ khu vực này
còn tồn tại nhiều quần thể cá bố mẹ. Vì vậy cần có
các nghiên cứu sâu và rộng hơn ở những vùng có con
giống xuất hiện để bảo vệ đàn cá bố mẹ cũng như
quản lý khai thác và bảo tồn nguồn giống hợp lý.
Mặt dù khai thác con giống cá Mú như là nghề
phụ, nhưng nó tập trung vào các hộ dân nghèo, chưa
nhận thức được khai thác con giống có kích thước
nhỏ, mang tính hủy diệt, tác động xấu đến tái tạo
quần thể và bền vững của nguồn lợi. Vì vậy cần
tuyên truyền nâng cao nhận thức trong khai thác con
giống tự nhiên và phát triển ngư cụ có tính lựa chọn
cao để khai thác giống cá Mú có kích thước hợp lý.
KẾT LUẬN
Thành phần loài cá mú giống ở vịnh Quy Nhơn
có 5 loài là cá Mú Chấm Vạch (Epinephelus
amblycephalus), cá Song Gio (Epinephelus
awoara), cá Song Nâu (Epinephelus bruneus), cá
Mú Điểm Gai (Epinephelus malabaricus) và cá
Song (Epinephelus sp).
Các đặc điểm hình thái cá Mú giống ở giai đoạn
cá con giống với trưởng thành, do đó có thể dựa vào
các chỉ tiêu phân loại cá lớn để định loại, tuy nhiên
màu sắc thay đổi phức tạp ở nhiều loài nhất là giai
đoạn cá hương.
Vùng khai thác cá Mú giống vùng ven bờ phía
Bắc (từ phường Trần Phú) và phía Tây của vịnh
(phường Ghềng Ráng), nơi tập trung khai thác ở ven
bờ đá phía Tây vịnh, từ Ghềng Ráng kéo dài vào
đến khu vực phía Nam.
Thành phần loài và hiện trạng khai thác cá Mú
247
Ngư cụ khai thác cá Mú giống chủ yếu bằng chà
đèn và chà dây. Mùa vụ khai thác cá Mú giống
thường sau thời kỳ mưa lũ tiểu mãn vào tháng 5
hoặc mưa dông kéo dài tháng 8 và thời gian xuất
hiện cá Mú giống thường rất ngắn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. AFCD, 2012. Fisheries information, wholesale
price of live marine products, Agriculture
Fisheries and Conservation Department Hong
Kong, China.
2. Bộ Khoa học và Công nghệ - Viện Khoa học và
Công nghệ Việt Nam, 2007. Sách đỏ Việt Nam.
Phần I: Động vật. Nxb. Khoa học tự nhiên và
Công nghệ.
3. Bộ Thủy Sản, 2003. Báo cáo tình hình nuôi
trồng thủy sản năm 2003 và phương hướng,
nhiệm vụ, các chỉ tiêu và giải pháp thực hiện kế
hoạch nuôi trồng thủy sản năm 2004. Hà Nội.
4. Heemstra, P. C. và J. E. Randall, 1993. FAO
species catalogue. Vol. 16. Groupers of the
world (Family Serranidae, Subfamily
Epinephelinae). An annotated and illustrated
catalogue of the grouper, rockcod, hind, coral
grouper and lyretail species known to date.
Rome. FAO. FAO Fisheries Synopsis. 522 figs,
531 colour plates, 382 p.
5. Le Anh Tuan and J. Hambrey, 2001. Seed
supply for grouper cage culture in Khanh
Hoa,Vietnam. SPC Live Reef Fish Information
Bulletin #8, p. 33-36.
6. Leis, J. M. và D. S. Rennis, 1983. The larvae of
Indo - Pacific coral Reef Fishes. South Wales
University and University of Hawaii Press,.
7. Leis, J. M. và T. Trnski, 1989. The Larva of
Indo - Pacific shore fishes. New South Wales
University press.
8. Leu, M. Y., C. H. Liou và L. S. Fang, 2005.
Embryonic and larval development of the
malabar grouper, Epinephelus malabaricus
(Pisces: Serranidae). Journal of the Marine
Biological Association of the United Kingdom.
Vol. 85, No. 05, p. 1,249-1,254.
9. Lê Anh Tuấn, 2004. Tình hình nuôi cá mú ở
Việt Nam: hiện trạng và trở ngại về mặt kỹ
thuật. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Thủy
sản, số đặc biệt, Kỷ niệm 45 năm thành lập
Trường Đại học Thủy sản. Tr. 174-179.
10. Lê Thị Thu Thảo, Võ Văn Quang và Nguyễn Phi
Uy Vũ, 2011. Danh sách thành phần loài họ cá
mú Serranidae ở vùng biển Việt Nam.Tuyển tập
báo cáo Hội nghị Khoa học và Công nghệ Biển
toàn quốc, lần thứ V. Quyển 4: Sinh học và
Nguồn lợi sinh vật, Hà Nội. Nxb. Khoa học tự
nhiên và Công nghệ. Tr. 145-153.
11. Nelson, J. S., 2006. Fishes of the World, 4nd
edition. New York. John Wiley & Sons. 601 p.
12. Nguyễn Hữu Phụng, 2004. Thành phần cá rạn
san hô biển Việt Nam. Tuyển tập báo cáo Khoa
học Hội nghị Khoa học “Biển Đông 2002”.
Viện Hải dương học. Nxb. Nông nghiệp. Tr.
274-307.
13. Nguyễn Hữu Phụng, Nguyễn Nhật Thi, Nguyễn
Phi Đính và Đỗ Thị Như Nhung, 1997. Danh
mục Cá biển Việt Nam. Tập IV. Nxb. Khoa học
và Kỹ thuật, 424 tr.
14. Nguyễn Nhật Thi, 2008. Cá biển Việt Nam.
Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, 244 tr.
15. Ottolenghi, F., C. Silvestri, P. Giordano, A.
Lovatelli và M. B. New, 2004. Capture-based
aquaculture: the fattening of eels, groupers,
tunas and yellowtails. Food and Agriculture
Organization of the United Nations.
16. Rimmer, M. A., M. J. Phillips và S. Y. Sim,
Aquaculture of groupers in Asia and the Pacific
in Proceedings Economics and marketing of the
live reef fish trade in Asia–Pacific, Noumea,
New Caledonia, 2006. ACIAR Working Paper
No. 60, p. 116-134.
17. Sadovy, Y., 2000. Regional survey for
fry/fingerling supply and current practices for
grouper mariculture: evaluating current status
and long-term prospects for grouper mariculture
in South East Asia. Final report to the
Collaboration APEC grouper research and
development network (FWG 01/99). December,
2000.
18. Seng, L. T., 1998. Chapter 13. Grouper Culture,
in Tropical Mariculture. De Silva, S. S., ed.,
Elsevier Science, p. 423-448.
19. Sim, S. Y., 2005. Influence of economics
conditions of importing nations and unforeseen
global events on grouper markets. Aquaculture
Asia Magazine: X, Vol.4 October - December
2005.
Võ Văn Quang, Trần Thị Lê Vân,
248
20. Tseng, W. Y. và K. F. Chan, 1985. On the larval
rearing of the white spotted green grouper,
Epinephelus amblycephalus (Bleeker), with a
description of larval development. Journal of
the World Mariculture Society. Vol. 16, No. 1-
4, p. 114-116.
THE COMPOSITION AND CATCHING STATUS OF
GROUPER SEEDS IN QUY NHON BAY, BINH DINH
Vo Van Quang, Tran Thi Le Van, Tran Cong Thinh
Institute of Oceanography-VAST
ABSTRACT: Grouper seed harvested from wild sources provide importantly for the development of
commercial marine fish farming. The grouper fingerling exploitation in the Gulf of Quy Nhon initially
identified five species, including Banded grouper (Epinephelus amblycephalus), Yellow grouper (Epinephelus
awoara), Longtooth grouper (Epinephelus bruneus), Malabar grouper (Epinephelus malabaricus) and grouper
(Epinephelus sp); in which Malabar grouper occupied of high proportion of over 30%. Grouper fishing areas
are along the northern and western seacoast of the bay, where ground catching are the coasts from Ngheng
Rang extends into the south. Fishing gears of wild - catching seed are mainly by trap wire or nigh - light with
artificial substrate. The night - light trap operates at night to attract grouper living in trap, and wire trap set
up underground along the coast. Grouper fishing season just normally after a period of small flood from April
to May or rainstorms from July to August. The appearance of grouper juveniles is usually very short lasting
from 10 to 20 days and seasonal appearance may change. The production depends upon the number of dates
and time of appearance; production of grouper fingerlings estimated annual extraction about 2.4 million.
Keywords: Grouper’s fry/fingerling, the fishing status, species composition, Quy Nhon bay.
Thành phần loài và hiện trạng khai thác cá Mú
249
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3529_11933_1_pb_229_2079591.pdf