Thành phần ký sinh trùng ở cá tầm Nga và
cá tầm Xiberi nuôi ao tại Lâm Đồng giống
nhau, gồm 03 loài T. nigra, I. multifi liis, và
Gyrodactylus sp. Tỷ lệ nhiễm thấp, dao động
từ 5,3-25,3%, cường độ nhiễm dao động từ
1,5 trùng/lam kính (Gyrodactylus sp. ở cá tầm
Nga) đến 7,8 trùng/lam kính (T. nigra ở cá tầm
Xiberi).
Thành phần ký sinh trùng ở cá tầm Nga
và cá tầm Xiberi nuôi lồng khác nhau, bắt
gặp 05 loài ký sinh trùng, gồm T. nigra, I.
multifi liis, Gyrodactylus sp., Ceratomyxa sp.
và Neoergasilus sp. ở cá tầm Xiberi, và 02
loài ký sinh trùng, gồm T. nigra, I. multifi liis
cá tầm Nga nuôi lồng.
6 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 402 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thành phần và mức độ nhiễm ký sinh trùng ở cá tầm nga (acipencer guldenstaedtii brandt and ratzeburg, 1833) và cá tầm xiberi (acipencer baerii brandt, 1869) nuôi ao và nuôi lồng tại Lâm Đồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
26 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
THÀNH PHẦN VÀ MỨC ĐỘ NHIỄM KÝ SINH TRÙNG Ở CÁ TẦM NGA
(Acipencer guldenstaedtii Brandt and Ratzeburg, 1833) VÀ CÁ TẦM XIBERI
(Acipencer baerii Brandt, 1869) NUÔI AO VÀ NUÔI LỒNG TẠI LÂM ĐỒNG
THE COMPOSITION, PREVALANCES AND INTENSITIES OF PARASITES OF RUSSIAN
STURGEON (Acipencer guldenstaedtii Brandt and Ratzeburg, 1833) AND SIBERIAN STURGEON
(Acipencer baerii Brandt, 1869) CULTURED IN PONDS AND FLOATING CAGES IN LAMDONG PROVINCE
Võ Thế Dũng¹, Võ Thị Dung¹
Ngày nhận bài: 9/6/2018; Ngày phản biện thông qua: 9/11/2018; Ngày duyệt đăng: 28/9/2018
TÓM TẮT
Nghiên cứu này trình bày thành phần và mức độ nhiễm ký sinh trùng bắt gặp trên cá tầm Nga (Acipencer
guldenstaidtii Brandt and Ratzeburg, 1833) và cá tầm Xiberi (Acipencer baerii Brandt, 1869) nuôi ao và nuôi
lồng tại Lâm Đồng. Một trăm hai mươi bảy cá thể cá tầm Nga nuôi ao (chiều dài trung bình 659,6 mm (450,0-
770,0)) và 108 cá tầm Nga nuôi lồng (chiều dài trung bình 535,1 mm (530,0-747,2)); 96 cá thể cá tầm Xiberi
nuôi ao (chiều dài trung bình 652,3 mm (500,0-720,0)) và 111 cá thể cá tầm Xiberi nuôi lồng (chiều dài trung
bình 558,9 mm (524,0-880,0)) được thu thập ngẫu nhiên từ các cơ sở nuôi. Kết quả đã phát hiện được 03
loài ký sinh trùng ở cá tầm nuôi ao, gồm Trichodina nigra, Ichthyophthirius multifi liis, và Gyrodactylus sp.;
và 05 loài ký sinh trùng ở cá tầm nuôi lồng, gồm T. nigra, I. multifi liis, Gyrodactylus sp., Ceratomyxa sp. và
Neoergasilus sp. Đây là thông báo đầu tiên về thành phần và mức độ nhiễm ký sinh trùng ở cá tầm Nga và cá
tầm Xiberi nuôi ao và nuôi lồng ở Việt Nam.
Từ khóa: Ký sinh trùng, cá tầm Nga, cá tầm Xiberi, Lâm Đồng
ABSTRACT
This paper presents the composition, prevalances and intensities of parasites of pond and cage - cultured
Russian Sturgeon (Acipencer guldenstaidtii Brandt and Ratzeburg, 1833) and Siberian Sturgeon (Acipencer
baerii Brandt, 1869) in Lamdong Province. One hundred and twenty seven specimens of pond - cultured
Russian Sturgeon (mean length 659,6 mm (450,0-770,0)) and 108 cage - cultured Russian Sturgeon (mean
length 535,1 mm (530,0-747,2)); 96 specimens of pond - cultured Siberian Sturgeon (mean length 652,3
mm (500,0-720,0)) and 111 cage - cultured Siberan Sturgeon (mean length 558,9 mm (524,0-880,0)) were
randomly collected from different farms. Results showed that there were, 03 parasitic species from pond -
cultured sturgeons, including Trichodina nigra, Ichthyophthirius multifi liis, and Gyrodactylus sp.; and 05
parasitic species from cage - cultured sturgeons, including T. nigra, I. multifi liis, Gyrodactylus sp., Ceratomyxa
sp. and Neoergasilus sp. This is the fi rst paper on the composition, prevalances and intensities of parasites on
pond and cage – cultured Russian Sturgeon and Siberian Sturgeon in Vietnam.
Key words: Parasite, Rusian Sturgeon, Siberian Sturgeon, Lamdong.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cá tầm Nga (Acipencer guldenstaidtii
Brandt and Ratzeburg, 1833) và cá tầm Xiberi
(Acipencer baerii Brandt, 1869) được nhập về
nuôi tại Việt Nam từ năm 2005. Sau thời gian
nuôi thử nghiệm thành công, cá tầm Nga và
cá tầm Xiberi đã được nhiều địa phương trong
đó có Lâm Đồng phát triển nuôi với quy mô
lớn, tạo ra hàng ngàn tấn sản phẩm mỗi năm
và đã trở thành nghề mới tạo ra nhiều công
việc và thu nhập cho người dân (Võ Thế Dũng,
2012). Cũng như nhiều loài thủy sản khác, khi
phát triển nuôi đại trà một thời gian, dịch bệnh ¹ Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 27
thường phát sinh và gây nên nhiều thiệt hại
cho người nuôi thủy sản, cá tầm cũng thường
xuyên gặp phải dịch bệnh (Võ Thế Dũng và
Võ Thị Dung, 2016; Võ Thế Dũng và Võ Thị
Dung, 2014; Võ Thế Dũng và Trần Thị Bạch
Dương, 2011; Võ Thế Dũng và các cộng sự,
2011), ký sinh trùng là tác nhân phổ biến trong
các mô hình nuôi tại Lâm Đồng. Nghiên cứu
này trình bày kết quả nghiên cứu thành phần ký
sinh trùng bắt gặp trên cá tầm Nga và cá tầm
Xiberi nuôi ao và nuôi lồng tại Lâm Đồng làm
cơ sở cho việc phòng trị các bệnh do ký sinh
trùng gây ra.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Thu mẫu ngẫu nhiên: thu cá còn sống một
cách ngẫu nhiên từ các ao nuôi thương phẩm
tại các cơ sở nuôi cá tầm ở Lâm Đồng. Thông
tin chi tiết được trình bày ở Bảng 1.
Bảng 1: mẫu cá tầm dùng nghiên cứu ký sinh trùng
Hình 1: Sơ đồ nghiên cứu ký sinh trùng
2. Vận chuyển và lưu giữ mẫu: Toàn bộ cá mẫu
được đóng bao nilông có bơm oxy, để vào thùng
xốp và chuyển về Viện Nghiên cứu nuôi trồng
thủy sản III. Duy trì nhiệt độ nước trong quá
trình vận chuyển từ 19-21ºC. Tại Viện Nghiên
cứu nuôi trồng thủy sản III, giữ cá trong các bể
xi măng có sục khí, nhiệt độ nước được duy trì
trong khoảng 20-21ºC, pH giao động từ 8,0-8,5,
mỗi ngày thay 50% lượng nước trong bể, cho
ăn bằng thức ăn công nghiệp. Áp dụng phương
pháp nghiên cứu ký sinh trùng ở cá của Dogiel
(1929; trích dẫn bởi Anon., 1964), Hà Ký và
Bùi Quang Tề (2007), Đỗ Thị Hòa vá cộng sự
(2004), Võ Thế Dũng và cộng sự (2012a,b).
28 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
3. Xử lý số liệu
- Tính tỷ lệ nhiễm (TLN):
Trong đó: A% là TLN, N1 là số cá bị nhiễm,
N là số cá kiểm tra.
- Cường độ nhiễm trung bình (CĐNTB):
Trong đó: + Đối với các ký sinh trùng Cera-
tomyxa sp.: C (cường độ nhiễm trung bình) được
tính cho số ký sinh trùng trên mỗi thị trường kính
40 quan sát ngẫu nhiên ở các tiêu bản của các cá thể
vật chủ bị nhiễm. Quan sát ngẫu nhiên 10 thị trường
kính 40 trên mỗi cá thể vật chủ bị nhiễm, và đếm số
cá thể ký sinh trùng trên các thị trường kính này. P
là tổng số trùng đếm được. T là tổng số thị trường
quan sát ngẫu nhiên trên các cá thể vật chủ bị nhiễm.
+ Đối với Trichodina nigra, Ichthyophthirius
multifi liis, Gyrodactylus sp., Neoergasilus sp.:
C (cường độ nhiễm trung bình) được tính cho
số ký sinh trùng trung bình trên 1 lam kính đối
với số lam kính (T) được quan sát từ các cá thể
cá bị nhiễm. P là tổng số trùng trên tất cả các
lam kính có ký sinh trùng này.
- So sánh thống kê: + Tỷ lệ nhiễm ký sinh
trùng trên cá tầm Nga và cá tầm Xiberi được so
sánh thống kê bằng Chisquare, sử dụng phần
mềm EpiInfo, mức ý nghĩa P = 0,05.
+ Cường độ nhiễm ký sinh trùng trên cá
tầm Nga và cá tầm Xiberi được so sánh thống
kê bằng Mann-Whitney U test, thực hiện bằng
phần mềm Stata 9.0.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1. Kết quả nghiên cứu thành phần và mức
độ nhiễm ký sinh trùng ở cá tầm nuôi ao và
cá tầm nuôi lồng
Bảng 2: Thành phần, tỷ lệ và cường độ nhiễm ký sinh trùng ở cá tầm nuôi ao
(Ghi chú: Số liệu cùng hàng có chữ cái hoặc số mũ giống nhau thì khác nhau không có ý nghĩa thống kê, và ngược lại)
Bảng 2 cho thấy, thành phần loài ký sinh
trùng ký sinh ở cá tầm nuôi ao không nhiều
và hoàn toàn giống nhau giữa cá tầm Nga và
cá tầm Xiberi (Cùng có 03 loài T. nigra, I.
multifi liis, và Gyrodactylus sp.). Tỷ lệ nhiễm
dao động từ 5,3-25,3%. Cường độ nhiễm khá
thấp, ví dụ T. nigra chỉ có 1,8-7,8 trùng/lam
kính, hay Gyrodactylus sp. chỉ từ 1,5-2,2
trùng/lam kính. So sánh thống kê cho thấy, tỷ
lệ nhiễm khác nhau không có ý nghĩa thống
kê ở cả 03 loài ký sinh trùng bắt gặp trên 02
loài cá. Cường độ nhiễm của I. multifi liis và
Gyrodactylus sp. khác nhau không có ý nghĩa
thống kê, nhưng cường độ nhiễm T. nigra ở cá
tầm Xiberi cao hơn có ý nghĩa thống kê so với
cường độ nhiễm ở cá tầm Nga.
Bảng 3: Thành phần, tỷ lệ và cường độ nhiễm ký sinh trùng ở cá tầm nuôi lồng
(Ghi chú: * là trùng/TTK. Số liệu cùng hàng có chữ cái hoặc số mũ giống nhau thì khác nhau không có ý nghĩa thống kê, và ngược lại)
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 29
Bảng 3 cho thấy, cá tầm Xiberi nuôi lồng
nhiễm 05 loài ký sinh trùng (T. nigra, I. mul-
tifi liis, Gyrodactylus sp., Ceratomyxa sp. và
Neoergasilus sp.), cá tầm Nga nhiễm 02 loài
ký sinh trùng (T. nigra, I. multifi liis). Trong 5
loài ký sinh trùng được tìm thấy ở cá lồng, có
03 loài giống với ký sinh trùng bắt gặp trên cá
tầm ao là T. nigra, I. multifi liis, và Gyrodacty-
lus sp., có 02 loài khác là Ceratomyxa sp. và
Neoergasilus sp. Nhìn chung thành phần loài
ký sinh trùng ở cá tầm nuôi lồng không nhiều,
tỷ lệ nhiễm dao động từ 2,1% (Neoergasilus sp.
ở cá tầm Xiberi) đến 23,9% (T. nigra ở cá tầm
Xiberi), và cường độ nhiễm dao động từ 1 – 7,7
trùng/lam kính ở các ngoại ký sinh trùng và 2,5
trùng/TTK đối với Ceratomyxa sp. ở cá tầm
Xiberi. So sánh thống kê cho thấy, tỷ lệ nhiễm
T. nigra và I. multifi liis ở cá tầm Nga và cá tầm
Xiberi khác nhau không có ý nghĩa thống kê.
Cường độ nhiễm T. nigra khác nhau có ý nghĩa
thống kê, nhưng cường độ nhiễm I. multifi liis
khác nhau không có ý nghĩa thống kê giữa cá
tầm Nga và cá tầm Xiberi.
2.Thảo luận
Cá tầm ở Lâm Đồng được nuôi trong ao
nước chảy hoặc trong các lồng đặt trong các hồ
chứa, môi trường nuôi trong sạch, mật độ nuôi
thấp, cá được cho ăn bằng thức ăn công nghiệp
nên khả năng bị nhiễm ký sinh trùng không cao
và ít có nguy cơ nhiễm ký sinh trùng nội ký
sinh. Vì thế trong nghiên cứu này chỉ bắt gặp
01 loài nội ký sinh là Ceratomyxa sp., nhiều
khả năng có từ con giống (Võ Thế Dũng và Võ
Thị Dung, 2018). Ceratomyxa là giống ký sinh
trùng có số lượng loài rất lớn, ký sinh ở nhiều
loài cá khác nhau, bao gồm cả cá nước mặn-
lợ như các loài cá mú (Võ Thế Dũng và cộng
sự, 2012b; Đỗ Thị Hòa và cộng sự, 2004), cá
nước ngọt như cá hồi (Võ Thế Dũng và Võ Thị
Dung, 2018). Hầu hết các công trình nghiên
cứu trước đây mới chỉ thông báo bắt gặp các
loài thuộc giống ký sinh trùng này mà chưa
đề cập đến tác hại của chúng; gần đây mới
bắt đầu có nghiên cứu đề cập đến khả năng
gây hại của ký sinh trùng này đến cá (Võ Thế
Dũng và Võ Thị Dung, 2018).
Trùng bánh xe (Trichodina nigra): Tricho-
dina là giống ký sinh trùng có số lượng loài khá
lớn, trên 170 loài đã được phát hiện và mô tả
(Lom and Dyková, 1992), các loài thuộc giống
này ký sinh trên nhiều loài thủy sản khác nhau,
ở các loại thủy vực từ nước ngọt (Hà Ký và
Bùi Quang Tề, 2007); bao gồm cả cá nước lạnh
như cá hồi (Võ Thế Dũng và Võ Thị Dung,
2018), lợ và mặn (Võ Thế Dũng, 2010; Võ
Thế Dũng và cộng sự, 2005). Nhiều loài thuộc
giống Trichodina có thể gây bệnh nguy hiểm
cho cá nuôi (Đỗ Thị Hòa và cộng sự, 2004).
Mức độ nhiễm ký sinh trùng này ở cá không
chỉ liên quan đến ký chủ mà có sự liên quan
chặt chẽ đến hàm lượng các yếu tố như nitrite,
nitrate, phosphate, oxy và nhiệt độ nước (Ogut
và Palm, 2005). Bazari và các cộng sự (2010)
đã nghiên cứu mức độ nhiễm ký sinh trùng giai
đoạn cá giống và cá hương của cá tầm ba tư
(Acipenser persicus), công trình cho biết đã tìm
thấy Trichodina reticulata ký sinh ở cá hương
ương trong bể với tỷ lệ nhiễm từ 10,0-20,0%
và cá giống ương hai mươi ngày trong ao đất
có tỷ lệ nhiễm từ 10,0-46,7%. Popielarczyk và
Kolman (2013) đã tìm thấy Trichodina sp., từ
cá tầm đại tây dương (Acipenser oxyrinchus
oxyrinchus (Mitchill, 1815)) nuôi ao ở Ba Lan,
với tỷ lệ nhiễm 100,0%, cường độ nhiễm tương
ứng là 13,6.
Trùng quả dưa (I. multifi liis): bắt gặp ký
sinh ở nhiều loài cá nước ngọt ở nhiều khu vực
trên thế giới; ở Việt Nam loài ký sinh trùng
này cũng được bắt gặp ở nhiều loài cá khác
nhau, như cá diếc (Carassius auratus auratus)
(Võ Thế Dũng và cộng sự, 2016), cá chép, cá
mè, cá trôi, cá rô phi (Hà Ký và Bùi Quang
Tề, 2007), chúng có thể gây bệnh nguy hiểm
cho nhiều loài cá nuôi (Đỗ Thị Hòa và cộng sự,
2004). Cá tầm nuôi ở Nga cũng nhiễm với I.
multifi liis nhưng tỷ lệ và cường độ thấp và hầu
như chưa đến mức gây bệnh cho cá (Ivanova
và cộng sự, 1993).
Sán đơn chủ (Gyrodactylus sp.): Sán đơn
chủ là giống sán có thành phần loài phong phú,
chúng phân bố ở cả nước ngọt, lợ và mặn ở hầu
hết các khu vực trên thế giới (Võ Thế Dũng,
2010). Gyrodactylus là giống sán đẻ con, nên
phát triển nhanh và có thể dễ dàng gây nên
30 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
dịch bệnh nguy hiểm cho cá hồi giống (Võ Thế
Dũng và cộng sự, 2014), Hà Ký và Bùi Quang
Tề (2007) công bố bắt gặp 9 loài thuộc giống
Gyrodactylus ký sinh ở một số loài cá nước
ngọt Việt Nam. Bauer và cộng sự (2002) khi
tổng kết về ký sinh trùng của cá tầm ở Nga cho
biết, sán đơn chủ bắt gặp khá thường xuyên ở
cá tầm, giống sán phổ biến nhất là Nitzschia
và loài thường gặp nhất là Nitzschia sturionis
Abildgaard 1794. Popielarczyk và Kolman
(2013) đã tìm thấy Gyrodactylus sp. từ cá tầm
đại tây dương (Acipenser oxyrinchus oxyrin-
chus (Mitchill, 1815)) nuôi ao ở Ba Lan, với
tỷ lệ nhiễm là 27,2% và cường độ nhiễm 0,3.
Giáp xác Neoergasilus sp.: Chưa có nhiều
nghiên cứu về các loài giáp xác thuộc giống
Neoergasilus ký sinh. Ở Việt Nam, mới chỉ có
02 loài được công bố bắt gặp ở cá, gồm Neoer-
gasilus japonicas (ký sinh ở cá chép và cá mè
hoa) và N. longispinosus (ký sinh ở cá diếc, cá
trôi và cá trắm cỏ) (Hà Ký và Bùi Quang Tề,
2007). Tuy nhiên công trình này cũng chưa
nói rõ khả năng gây hại của loài giáp xác này
đối với loài cá bị ký sinh. Đối với cá tầm, chỉ
bắt gặp một cá thể Neoergasilus sp. trên cá
tầm Xiberi nuôi lồng, chứng tỏ khả năng gây
hại của loài này đối với cá tầm là không lớn.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Thành phần ký sinh trùng ở cá tầm Nga và
cá tầm Xiberi nuôi ao tại Lâm Đồng giống
nhau, gồm 03 loài T. nigra, I. multifi liis, và
Gyrodactylus sp.. Tỷ lệ nhiễm thấp, dao động
từ 5,3-25,3%, cường độ nhiễm dao động từ
1,5 trùng/lam kính (Gyrodactylus sp. ở cá tầm
Nga) đến 7,8 trùng/lam kính (T. nigra ở cá tầm
Xiberi).
Thành phần ký sinh trùng ở cá tầm Nga
và cá tầm Xiberi nuôi lồng khác nhau, bắt
gặp 05 loài ký sinh trùng, gồm T. nigra, I.
multifi liis, Gyrodactylus sp., Ceratomyxa sp.
và Neoergasilus sp. ở cá tầm Xiberi, và 02
loài ký sinh trùng, gồm T. nigra, I. multifi liis
cá tầm Nga nuôi lồng.
2. Kiến nghị
Tiếp tục nghiên cứu để định loại các loài
ký sinh trùng ký sinh ở cá tầm, và thực hiện
các nghiên cứu chuyên sâu về bệnh và các
biện pháp phòng trị bệnh do ký sinh trùng gây
ra để hỗ trợ sản xuất hiệu quả các loài cá tầm
ở Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Võ Thế Dũng và Võ Thị Dung, 2018. Ký sinh trùng ký sinh ở cá hồi vân (Oncorhynchus mykiss Walbaum,
1792) nuôi thương phẩm tại Lâm Đồng. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 14/2018: 65-69.
2. Võ Thế Dũng và Võ Thị Dung, 2016. Nghiên cứu bệnh xuất huyết trên cá tầm Nga giống (Acipenser
guldenstaedtii) tại Lâm Đồng và đề xuất biện pháp phòng trị. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
số 5/2016: 87-91.
3. Võ Thế Dũng, Nguyễn Nhất Duy, Võ Thị Dung, Nguyễn Nguyễn Thành Nhơn, 2016. Nguyên sinh động vật
ký sinh trên cá diếc (Carassius auratus auratus (Linnaeus, 1758)) thu tại Phú Yên. Kỷ yếu Hội nghị Ký sinh
trùng học toàn Quốc lần thứ 43 năm 2016, Tp. Ban Mê Thuột - Đắk Lắc, trang: 43-51.
4. Võ Võ Thế Dũng và Võ Thị Dung, 2014. Kết quả nghiên cứu bệnh xuất huyết, lở loét do vi khuẩn gây ra ở
cá tầm nuôi thương phẩm tại Lâm Đồng. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, số 23/2014: 99-105.
5. Võ Thế Dũng, Võ Thị Dung, Hòang Ngọc Hồi, Đinh Thị Thu Thùy, 2014. Nghiên cứu một số ký sinh trùng
gây bệnh ở cá hồi vân (Onchorhynchus mykiss) giống tại Lâm Đồng. Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông
thôn, số 6/2014: 69-73.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 31
6. Võ Thế Dũng, 2012. Quy hoạch phát triển nuôi cá nước lạnh trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đến năm 2020. Viện
Nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản III.
7. Võ Thế Dũng, Võ Thị Dung, Nguyễn Nguyễn Thành Nhơn, Lê Thị Thu Hương, Nguyễn Thị Hoàn, Nguyễn
Thị Hồng Tuyên, Nguyễn Viết Thùy và Nguyễn Trọng Lực, 2012a. Nghiên cứu tìm hiểu tác nhân gây bệnh là
ký sinh trùng, nấm và vi khuẩn trên cá hồi và cá tầm nuôi tại Lâm Đồng. Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài.
Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III.
8. Võ Thế Dũng, Glenn Allan Bristow, Nguyễn Hữu Dũng, Võ Thị Dung và Nguyễn Nguyễn Thành Nhơn,
2012b. Ký sinh trùng cá mú và cá chẽm ở Việt Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp, ISBN: 978-604-60-0543-8.
9. Võ Thế Dũng, Trần Thị Bạch Dương, 2011. Nghiên cứu tác nhân gây bệnh trên cá tầm (Acipencer baeri) và
cá hồi (Oncorhynchus mykiss) trong hệ thống ao nuôi công nghiệp. Tuyển tập báo cáo Hội nghị Khoa học Thuỷ
sản toàn Quốc năm 2011, Nhà xuất bản Nông nghiệp: 196-200.
10. Võ Thế Dũng, Võ Thị Dung, Nguyễn Thị Hồng Tuyên, Nguyễn Viết Thùy và Lê Phước Thuần, 2011.
Nghiên cứu một số tác nhân có khả năng gây bệnh xuất huyết lở loét ở cá tầm (Acipenser gueldenstaidtii và
A. baeri) nuôi ở Lâm Đồng. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Số 23/2011: 74-79.
11. Võ Thế Dũng, 2010. Động vật ký sinh ở cá mú thuộc giống Epinephelus. Luận án tiến sĩ sinh học. Thư viện
Khoa học và công nghệ Quốc gia- Tp. Hồ Chí Minh.
12. Võ Thế Dũng, Bristow G. A., Nguyễn Hữu Dũng, Võ Thị Dung và Nguyễn Thị Thanh Thùy (2005), “Thành
phần ĐVKS ở một số loài cá mú thuộc giống Epinephelus ở khu vực Khánh Hòa”, Tạp chí Khoa học và Công
nghệ biển, Phụ trương 4(T5/2005): 247-254.
13. Đỗ Thị Hòa, Bùi Quang Tề, Nguyễn Hữu Dũng và Nguyễn Thị Muội, 2004. Bệnh học thủy sản, NXB Nông
Nghiệp, Tp. Hồ Chí Minh.
14. Hà Ký và Bùi Quang Tề, 2007. Ký sinh trùng cá nước ngọt Việt Nam, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật,
Hà Nội.
Tiếng Anh
15. Anon. (1964), “Redogörelse för den i Sovjetunuionen använda för s.k. fullständig parasitologisk under-
sökning av fi sk”, Tiedoksianto Information, 1(1): 8-11.
16. Barazi M.S., Mokhayer B., Masoumian M., Shenavar M.A., Jalilpour J., Masoumzadeh M., and Alizadeh
M., 2010. Parasitic infection among larvae and fi ngerlings of the Persian Sturgeon (Acipenser persicus) in
Vniro tanks and earthen ponds. Iranian Journal of Fisheries Science, 9(3): 342-351.
17. Bauer O.N., Pugachev O.N. and Voronin V.N., 2002. Study of parasites and diseases of sturgeons in Russia:
a review. Journal of Applied Ichthyology, 18: 420-429.
18. Ivanova, N. S.; Golovina, V. A.; Golovin, P. P., 1993. Parasites and diseases of sturgeons artifi cially reared
in the Volga-Caspian and Azov basins. Fish. Manage. Ser. Aquacult. 2: 1–34.
19. Lom J., and Dyková I., 1992. Protozoan Parasites of Fishes. Developments in Aquaculture and Fisheries
science, Volume 26, Elsevier Science Publishers B. V. Netherland.
20. Ogut H. and Palm H. W., 2005. Seasonal dynamics of Trichodina spp. on whiting (Merlangius merlangus)
in relation to organic pollution on the eastern Black Sea coast of Turkey. Parasitology Research, 96(2): 149-
153.
21. Popielarczyk R., Kolman R., 2013. Preliminary analysis of ectoparasites of the sturgeon Acipenser oxyrin-
chus oxyrinchus (Mitchill, 1815) originating from different water habitats. Annals of Parasitology 2013, 59(3):
139–141.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thanh_phan_va_muc_do_nhiem_ky_sinh_trung_o_ca_tam_nga_acipen.pdf