Tuyên truyền, tạo niềm tin cho
người dân
Thứ nhất, tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra tuân thủ các quy định về an
toàn, bảo mật tại các tổ chức tín dụng, tổ
chức trung gian thanh toán để chủ động
phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi vi
phạm. Hơn 50% người dùng lo ngại về
các vấn đề an ninh khi giao dịch trên
mạng. Cần có biện pháp trấn áp một cách
có hiệu quả vấn đề gian lận trong hoạt
động này, chủ yếu liên quan đến gian lận
tài khoản thẻ và thẻ giả, sau nữa là mất
cắp, thất lạc thẻ, Gian lận tài khoản thẻ
thường xảy ra với các giao dịch không
xuất trình thẻ và chiếm tỷ lệ cao hơn đáng
kể so với gian lận thẻ giả.
Cần tuyên truyền về phòng, chống tội
phạm công nghệ cao trong lĩnh vực ngân
hàng, cảnh báo kịp thời những phương
thức, thủ đoạn mới của tội phạm để có
biện pháp phòng, chống hiệu quả.
Thứ hai, phổ biến kiến thức, giúp
người dân hiểu rõ những tiện ích của thanh
toán không tiền mặt, khiến họ nắm được
ưu, nhược điểm của nó, rồi tự quyết định,
sẽ cảm thấy an toàn và thoải mái hơn khi
sử dụng dịch vụ ngân hàng cung cấp. Như
vậy, mới thực sự xuất phát từ nhu cầu tự
thân, khiến khách hàng bỏ thói quen và
tập quán thanh toán bằng tiền mặt.
Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước cũng
như các ngân hàng thương mại cần có
giải pháp cụ thể về việc thanh toán không
dùng tiền mặt. Cần tích hợp các loại thẻ
để giảm thủ tục đăng ký mở thẻ và có thể
sử dụng trong nhiều hệ thống ngân hàng.
Cần đầu tư công nghệ tốt hơn, hạn chế
các lỗi kết nối, thủ tục thực hiện cần đơn
giản, dễ áp dụng./.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
7 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 554 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Thanh toán không dùng tiền mặt - thực trạng năm 2019 và giải pháp hoàn thành mục tiêu năm 2020, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
38Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 08/2020
Thanh toán bằng tiền mặt là phương 
thức thanh toán đơn giản và tiện dụng 
nhất được sử dụng để mua bán hàng hóa 
một cách dễ dàng trong nền kinh tế có 
quy mô sản xuất nhỏ, chưa phát triển, số 
lượng hàng hóa ít, phạm vi trao đổi hẹp. 
Khi nền kinh tế phát triển cả về chất và 
lượng, thì thanh toán bằng tiền mặt không 
thể đáp ứng được nhu cầu. Việc ứng dụng 
một hình thức thanh toán mới, thuận tiện 
hơn, an toàn hơn được mọi quốc gia quan 
tâm. Từ đó, thanh toán không (dùng) tiền 
mặt ra đời, đem lại những lợi ích to lớn 
cho toàn bộ nền kinh tế, cho các doanh 
nghiệp cũng như bên sử dụng.
1. Lợi ích từ thanh toán không 
tiền mặt
1.1. Đối với cá nhân
Thứ nhất, độ an toàn cao. Với lượng 
hàng hóa lớn, việc thanh toán bằng tiền 
mặt sẽ không an toàn, thuận tiện cho cả 
bên chi trả và bên thụ hưởng. Nhưng với 
một tài khoản ở ngân hàng thì mọi giao 
dịch được thực hiện thông qua bút tệ, nên 
THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT 
- THỰC TRẠNG NĂM 2019
VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THÀNH MỤC TIÊU NĂM 2020
Hà Thị Tuyết Minh •
Tóm tắt: Tín dụng xanh, tăng trưởng xanh, phát triển xanh, đang là những 
khái niệm được nói tới rất nhiều trong thời đại công nghệ 4.0. Tuy nhiên, để đạt được 
những mục tiêu đó, bản thân các ngân hàng cũng phải tự “xanh hóa” chính mình và 
việc thanh toán không dùng tiền mặt là một trong những giải pháp giúp “xanh hóa” 
hoạt động ngân hàng. Bài viết nhằm làm rõ một số nội dung về thanh toán không dùng 
tiền mặt, phân tích những nguyên nhân khiến việc thanh toán không dùng tiền mặt 
chưa được phổ biến hiện nay, từ đó đi tìm những giải pháp khắc phục. 
Từ khóa: Thanh toán điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán phi 
tiền mặt.
Abstract: Green credit, green growth, green development,... are the concepts that 
are talked about a lot in the era of technology 4.0. However, to achieve those goals, 
banks themselves must “green” themselves and the payment without cash is one of 
the solutions to “green” banking activities. The article aims to clarify some contents 
about non-cash payment, analyze the reasons why non-cash payment has not been 
popular at present, from which to find solutions.
Keywords: Electronic payment, non-cash payment.
* Giảng viên Khoa Tài chính, 
 Trường ĐH KD&CN Hà Nội.
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
39Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 08/2020
sẽ đảm bảo an toàn, tránh tình trạng cướp 
giật, rơi, mất. Ngoài ra, việc không dùng 
tiền mặt sẽ tránh được các rủi ro vật lý, 
như rách, mất góc, không thể sử dụng. 
Hơn nữa, thanh toán phi tiền mặt thông 
qua ứng dụng hoặc thẻ ngân hàng là cách 
đảm bảo quá trình giao dịch an toàn hơn, 
tốc độ thanh toán nhanh, xác thực dễ dàng 
và linh hoạt. Đơn giản, việc đi rút tiền theo 
cách truyền thống tại các cây ATM rất dễ 
có nguy cơ cho tội phạm thẻ sao chép mật 
khẩu, số tài khoản hay bị cướp tài sản. 
Thanh toán phi tiền mặt thông qua các 
ứng dụng QR code hay ví điện tử, thẻ tín 
dụng, đều an toàn hơn, bởi nó được bảo 
vệ qua hệ thống ngân hàng, các ứng dụng 
bảo mật vân tay hay nhận dạng khuôn mặt, 
mã OTP (mã số xác thực được ngân hàng 
hoặc đơn vị thanh toán trực tuyến gửi về 
số điện thoại đăng ký tài khoản thanh toán 
trực tuyến). Không những thế, tất cả các 
giao dịch sẽ được lưu lại, khi có sự cố, sẽ 
có bằng chứng cho thanh toán.
Thứ hai, nhanh chóng. Khi muốn 
chuyển tiền đi xa hoặc thanh toán cho các 
giao dịch ở xa, chỉ cần chuyển khoản là 
đã hoàn thành.
Thứ ba, chính xác. Khi thanh toán, 
giao dịch không tiền mặt, không cần kiểm 
đếm số lượng tiền, đặc biệt là số tiền lớn 
hoặc lẻ. Tất cả đều là những con số hiển 
thị trên phần mềm, chỉ cần viết chính xác 
là được.
Thứ tư, tiết kiệm chi phí và thời 
gian. Khi hệ thống hạ tầng viễn thông 
phát triển, các cá nhân có thể giao dịch 
qua internet, mobile, không cần đến 
các cửa hàng hay siêu thị. Quá trình thanh 
toán được thực hiện qua hệ thống thanh 
toán điện tử. Như vậy, các tổ chức hoặc 
cá nhân có thể giao dịch không mất nhiều 
thời gian, chi phí đi lại, giảm bớt thời gian 
đợi chờ tới lượt thanh toán, 
Thứ năm, tiện ích. Khi mua sắm, các 
cá nhân không cần để tiền mặt trong túi, 
chỉ cần chiếc thẻ nhỏ gọn hoặc cài đặt 
phần mềm ngân hàng, phần mềm thanh 
toán điện tử, có thể thanh toán giao dịch 
mua, chuyển tiền trong nước và quốc tế, 
hoặc thanh toán những hóa đơn vượt quá 
số dư trong tài khoản ngân hàng của mình 
đối với thẻ tín dụng. Bên cạnh đó, người 
tiêu dùng có thể nhận nhiều hơn khuyến 
mãi từ người bán cũng như ngân hàng. Họ 
sẽ thường xuyên được giảm giá khi thanh 
toán bằng thẻ ngân hàng, các chương 
trình khuyến mãi sẽ được người bán liên 
tục “tung” ra thị trường để khuyến khích 
tiêu dùng, hoặc để thúc đẩy thanh toán 
phi tiền mặt. Nhiều công ty fintech (công 
nghệ tài chính) và ngân hàng đưa ra nhiều 
chính sách ưu đãi, như giảm giá sản phẩm, 
giá cước sử dụng dịch vụ vận tải, khi 
thanh toán qua thẻ hay ví điện tử. 
1.2. Đối với tổng thể kinh tế vĩ mô
Thứ nhất, giảm chi phí xã hội, kiểm 
soát lạm phát. Thanh toán không tiền mặt 
giảm bớt những phí tổn to lớn của xã hội 
liên quan đến in phát hành và lưu thông 
tiền. Lượng tiền mặt lưu thông là một yếu 
tố tác động trực tiếp tới lạm phát. 
Phương thức thanh toán tiền mặt 
truyền thống như hiện nay sẽ mất khá 
nhiều chi phí in, kiểm đếm, vận chuyển từ 
ngân hàng tổng ra các ngân hàng nhỏ lẻ, 
thời gian nhân viên kiểm tiền, bảo quản 
hay hủy bỏ tiền cũ, tiền rách, chưa kể việc 
hạn chế nạn in tiền giả, Thanh toán phi 
tiền mặt giảm thiểu những lãng phí trên. 
Minh chứng là trong bốn Tết các năm 
2013-2017, Ngân hàng Nhà nước không 
phát hành mới tiền lẻ, đã giúp tiết kiệm 
được 1.500 tỷ đồng.
Thứ hai, minh bạch hóa giao dịch, 
chống thất thu ngân sách. Thanh toán 
phi tiền mặt còn giúp chống lại thất thu 
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
40Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 08/2020
thuế cho Nhà nước từ những giao dịch 
chui hoặc không minh bạch; giảm rủi 
ro rửa tiền, kiểm soát và phát hiện các 
thanh toán phạm pháp. Thanh toán qua 
ngân hàng sẽ minh bạch thu - chi của các 
doanh nghiệp, hạn chế việc trốn, lậu thuế. 
Việc trả lương qua thẻ ATM và thanh 
toán qua ngân hàng sẽ kiểm soát được thu 
nhập của các cá nhân, hạn chế tình trạng 
tham nhũng, kiểm soát được các giao 
dịch, ngăn chặn được hoạt động rửa tiền 
của các tổ chức tội phạm, các quan chức 
tham nhũng, giúp tăng thu ngân sách nhà 
nước.
Thứ ba, huy động thêm vốn cho 
nền kinh tế, giúp đồng vốn luân chuyển 
nhanh hơn. Tiền mặt để trong két không 
tham gia quá trình lưu thông, còn để 
trong ngân hàng sẽ tạo ra nguồn vốn và 
tiếp tục tái đầu tư. Thanh toán không tiền 
mặt giảm tỷ lệ chủ thể thanh toán trữ tiền, 
có tác dụng huy động tích tụ các nguồn 
vốn tạm thời chưa sử dụng của khách 
hàng vào cơ quan tín dụng, tạo nguồn cho 
tài khoản để thực hiện thanh toán. Loại 
tiền gửi này cũng là một nguồn vốn cung 
cấp cho các nghiệp vụ sinh lời của ngân 
hàng thương mại, gửi và thanh toán phải 
trả lãi, do vậy, giảm giá đầu vào của đi 
vay để cho vay. Khi ngân hàng tăng được 
tỷ trọng thanh toán không tiền mặt cũng 
là lúc ngân hàng thu hút được nhiều hơn 
nguồn vốn trong xã hội. Trên cơ sở đó, 
ngân hàng có điều kiện mở rộng cho vay, 
tăng vốn cho nền kinh tế. Ngoài ra, quá 
trình thanh toán không tiền mặt rút ngắn 
thời gian thanh toán, tăng đáng kể quá 
trình quay vòng của tiền.
2. Thực trạng thanh toán không 
dùng tiền mặt tại Việt Nam năm 2019
Năm 2019, tại Việt Nam, tiền mặt 
vẫn là phương thức thanh toán chủ yếu, 
chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực công, 
doanh nghiệp và dân cư. Tuy nhiên, hoạt 
động thanh toán không tiền mặt đã có 
bước chuyển biến mạnh mẽ. 
Theo Ngân hàng Nhà nước Việt 
Nam, đến 31/3/2019, thanh toán nội địa 
qua thẻ ngân hàng đạt hơn 65 triệu giao 
dịch và tổng giá trị hơn 171 ngàn tỷ đồng, 
tăng tương ứng 18,45% và 18,82% so với 
cùng kỳ năm 2018; qua Internet đạt hơn 
101 triệu giao dịch và khoảng 4,5 triệu tỷ 
đồng, tăng tương ứng 65,81% và 13,46% 
so với cùng kỳ năm 2018; qua kênh điện 
thoại di động đạt hơn 76 triệu giao dịch 
và hơn 924.000 tỷ đồng, tăng tương ứng 
97,75% và 232,3% so với cùng kỳ năm 
2018. Ngoài ra, thanh toán dịch vụ công 
qua ngân hàng cũng được đẩy mạnh. 
Hiện có khoảng 50 ngân hàng đã thỏa 
thuận phối hợp thu thuế điện tử với ngành 
thuế, hải quan trên phạm vi 63 tỉnh, thành 
và 768 quận, huyện trong cả nước. Tới 
30/6/2019, giao dịch không tiền mặt tăng 
30% về số lượng và 18% về giá trị; có 76 
tổ chức triển khai dịch vụ thanh toán qua 
internet và 44 tổ chức – qua điện thoại di 
động. Tổng lượng giao dịch qua internet 
đạt 204,22 triệu lượt và 9.506 nghìn tỷ 
đồng, tăng 60,64% và 18,5% so với cùng 
kỳ năm 2018; điện thoại di động đạt 
169,86 triệu lượt và 1.761 nghìn tỷ đồng, 
tăng 109,48% và 160,5% so với cùng kỳ 
năm 2018. Tuy vậy, việc không dùng tiền 
mặt vẫn chưa đồng đều trong nhiều lĩnh 
vực, chẳng hạn, trong thương mại điện tử 
hiện nay vẫn chủ yếu dùng tiền mặt để 
giao dịch. Đến hết tháng 9/2019, khoảng 
một nửa (45,8 triệu) dân số có tài khoản 
ngân hàng, 32 tổ chức không phải ngân 
hàng được cấp phép cung ứng dịch vụ 
trung gian thanh toán, trong đó, phần lớn 
cung cấp dịch vụ ví điện tử, cổng thanh 
toán điện tử, hỗ trợ thu hộ chi hộ, chuyển 
tiền điện tử. 
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
41Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 08/2020
Bên cạnh các công ty fintech, các 
ngân hàng cũng tích cực đẩy mạnh hoạt 
động thanh toán trên nền tảng công nghệ 
mới. Cụ thể, có 24 ngân hàng cung cấp 
dịch vụ thanh toán QR code với 50.000 
điểm chấp nhận thanh toán QR code, 76 
tổ chức triển khai dịch vụ thanh toán qua 
internet và 44 tổ chức thanh toán qua di 
động. Thực tế cho thấy xu hướng ngân 
hàng số và sự trỗi dậy của các công ty 
fintech đang thúc đẩy thanh toán không 
tiền mặt ở Việt Nam. Tuy nhiên, về tổng 
quan, các chuyên gia cho rằng, tỷ lệ giao 
dịch thanh toán không tiền mặt trên tổng 
mức bán lẻ vẫn còn thấp. Theo kết quả 
khảo sát của IDG ASEAN, tỷ lệ thanh 
toán bằng tiền mặt ở Việt Nam vẫn còn 
khá cao: 79%; thanh toán qua thẻ (Credit/
Debit card) chiếm 38%, qua Mobile 
banking – 30% và qua ví điện tử – 28,4% 
tổng giao dịch. Chính phủ đặt mục tiêu 
đến năm 2020 tỷ lệ thanh toán không tiền 
mặt phải chiếm hơn 30% tổng phương 
tiện thanh toán. Đến thời điểm này, Việt 
Nam vẫn là một trong những quốc gia có 
tỷ lệ thanh toán không tiền mặt thấp trong 
khu vực. 
3. Nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ thanh 
toán không tiền mặt còn thấp
Tuy tốc độ tăng thanh toán điện tử 
của Việt Nam thuộc loại số một thế giới, 
nhưng do xuất phát thấp, “tiền mặt vẫn là 
vua”, chiếm 90% giao dịch. Nguyên nhân 
như sau:
3.1. Còn nhiều bất cập khi thanh 
toán không tiền mặt
Đầu tiên, còn nhiều khó khăn để có 
được một tài khoản thanh toán hay thẻ 
ngân hàng. Cách thanh toán vẫn bất tiện, 
mà giá trị thanh toán cho mỗi đơn hàng 
thường chỉ vài trăm ngàn. Nhiều người 
chưa biết sử dụng máy ATM, đổi mã PIN, 
hoặc đi rút tiền. Do đó, một số bệnh viện 
thuộc Bộ Y tế đã không thể duy trì thanh 
toán viện phí bằng thẻ sau một thời gian 
áp dụng, vì quá ít người tham gia. Mặt 
khác, quy trình xây dựng ví điện tử còn 
nhiều rào cản. Chẳng hạn, nếu tích hợp ví 
điện tử theo quy định trên ứng dụng (app), 
thì phải trải qua nhiều bước, thách thức sự 
kiên nhẫn của khách hàng. Chi phí phát 
hành, sử dụng thẻ ngân hàng hiện cũng 
khá cao, bình quân khoảng 5USD/thẻ 
(thế giới: 1 USD). Lãi suất cho vay qua 
thẻ cao, cộng thêm các khoản phí dịch 
vụ theo thẻ, như phí thường niên, phí in 
sao kê, phí chậm thanh toán, phí rút tiền 
mặt tại ATM, phí chuyển đổi ngoại tệ, phí 
giao dịch, góp phần hạn chế thanh toán 
không tiền mặt.
Số người hưởng lương hưu hoặc trợ 
cấp xã hội ở Việt Nam rất lớn. Đa phần là 
người lớn tuổi, có thói quen sử dụng tiền 
mặt và không muốn rút tiền tại các máy 
ATM, sợ rủi ro, trục trặc.
3.2. Truyền thông về thanh toán 
không tiền mặt còn hạn chế
Tuyên truyền, quảng bá về các hình 
thức thanh toán không tiền mặt chưa 
được quan tâm, chú trọng. Vì vậy, không 
chỉ người dân, mà cả các doanh nghiệp 
cũng còn hiểu biết ít hoặc mơ hồ về các 
dịch vụ và phương tiện thanh toán không 
tiền mặt.
3.3. Hạ tầng kỹ thuật thanh toán 
không tiền mặt chưa đáp ứng nhu cầu 
và thiếu đồng bộ
Năm 2019, Việt Nam có trên 2.200 
máy ATM, máy POS, phân bổ chủ yếu ở 
các thành phố lớn, các khu công nghiệp, 
tập trung trong các siêu thị, trung tâm 
thương mại, nhà hàng, khách sạn, 
Trong khi dân cư nông thôn, miền núi khá 
đông, thanh toán bằng tiền mặt vẫn lớn, 
hạ tầng kỹ thuật phục vụ của các ngân 
hàng thương mại chưa đáp ứng được.
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
42Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 08/2020
Mặt khác, nhiều khi hệ thống máy 
móc, nhất là POS, vẫn thường xảy ra tình 
trạng quá tải, bị kẹt thẻ,... nên tác động 
tiêu cực tới tâm lý của người tiêu dùng 
khi sử dụng các phương thức thanh toán 
không tiền mặt.
Chìa khóa đầu tiên để ngân hàng, 
fintech cung cấp dịch vụ số là phải cho phép 
khách hàng định danh điện tử, tức là phải 
có khách hàng số. Tuy nhiên, quy định hiện 
hành vẫn yêu cầu khách hàng đến trực tiếp 
ngân hàng để mở tài khoản (KYC), muốn 
mở ví phải có tài khoản ngân hàng. Điều 
này khiến không chỉ Fintech mà ngay cả 
các ngân hàng cũng rất khó khăn trong việc 
mở rộng hoạt động, tìm kiếm khách hàng.
Thanh toán không tiền mặt ở Việt 
Nam còn thấp một phần là do hiện chưa có 
hệ sinh thái. Chẳng hạn, địa chỉ giao hàng 
chưa đúng, số điện thoại của người mua 
chưa chính xác, chưa có điểm giao hàng 
trung gian,... Có thể có các điểm nhận 
hàng tại các địa chỉ của doanh nghiệp đó 
để người tiêu dùng đến nhận thay vì giao 
hàng trực tiếp đến địa chỉ người mua.
3.4. Hành lang pháp lý chưa hoàn thiện 
Hành lang pháp lý trong lĩnh vực 
thanh toán điện tử, mặc dù thời gian vừa 
qua đã được cải thiện nhiều, song chưa 
được đánh giá đầy đủ và đồng bộ. Giá trị 
giao dịch thanh toán thẻ qua POS chưa 
nhiều, nhất là thanh toán thẻ nội địa qua 
POS, việc triển khai POS vẫn còn những 
bất cập, vẫn còn một số đơn vị bán hàng 
thu phụ phí khi khách hàng thanh toán 
qua thẻ, một số đơn vị bán hàng còn chưa 
sử dụng việc thanh toán qua thẻ vì không 
muốn công khai doanh thu bán hàng. Hơn 
nữa, tâm lý người dùng xưa nay thường 
là thanh toán tiền mặt để có thể quản lý 
được, kiểu “tiền trao cháo múc”. Trong 
khi đó, đây là giao dịch phi vật lí nên chủ 
thể khó kiểm soát được. Vì vậy, cần gia 
tăng hơn nữa niềm tin cho cộng đồng, giải 
bài toán tâm lý e ngại, vấn đề bảo mật, an 
toàn bằng hành lang pháp lý.
4. Giải pháp thúc đẩy thanh toán 
không tiền mặt để đạt mục tiêu năm 2020
Chính phủ có kế hoạch giảm các 
giao dịch bằng tiền mặt xuống dưới 10% 
tổng số giao dịch thị trường (cá nhân và 
tổ chức) vào năm 2020 và ít nhất là 70% 
các nhà cung cấp nước, điện tử và dịch vụ 
viễn thông sẽ chấp nhận thanh toán không 
tiền mặt từ các cá nhân và hộ gia đình, 
50% tổng số hộ gia đình ở thành phố sử 
dụng thanh toán điện tử cho giao dịch 
hàng ngày, 70% công dân trên 15 tuổi có 
tài khoản ngân hàng vào năm 2020. Đề 
xuất cũng bao gồm phát triển phương thức 
thanh toán mới cho khu vực nông thôn để 
tăng khả năng tiếp cận với dịch vụ. Các 
hệ thống trợ cấp Chính phủ và phúc lợi 
xã hội cũng đang được phát triển để đảm 
bảo thanh toán điện tử. Mục tiêu đến năm 
2020 đạt 200 triệu giao dịch/năm và có ít 
nhất 300.000 POS lắp đặt trong cả nước.
Để có thể đạt được mục tiêu đề ra, 
cần có nhiều giải pháp thúc đẩy.
4.1. Nâng cấp, đồng bộ hóa công 
nghệ và hệ thống thanh toán
Xây dựng hệ thống thanh toán hiện 
đại là mục tiêu dài hạn của ngành ngân 
hàng Việt Nam. Hệ thống thanh toán 
được tổ chức tốt hơn, an toàn, ít rủi ro 
hơn không chỉ làm tăng doanh số, dịch 
vụ thanh toán ngày càng hoàn thiện hơn, 
mà còn góp phần hỗ trợ tích cực các dịch 
vụ khác phát triển. Hiện đại hoá hệ thống 
thanh toán điện tử của ngân hàng sẽ giúp 
ngân hàng xây dựng được kết cấu hạ tầng 
hiện đại để cung cấp các sản phẩm dịch 
vụ đa dạng, ngày càng thoả mãn tốt hơn 
các nhu cầu của khách hàng, giảm chi phí 
vận hành, tăng cường hiệu quả quản lý và 
tăng hiệu quả kinh doanh.
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
43Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 08/2020
Hiện nay, không có một ngân hàng 
nào ở Việt Nam phục vụ những thanh 
toán nhỏ lẻ, như: cốc trà đá, vé gửi xe, 
hay cốc café, Người dân cũng không 
có thói quen dùng thẻ ngân hàng để chi 
trả cho những thanh toán lặt vặt này. Với 
thế mạnh về công nghệ, các nhà mạng có 
thể giúp người dân quen dần với những 
món chi tiêu vài chục, vài trăm ngàn. Do 
đó, các công ty Fintech phải phát triển 
đồng loạt nhiều hình thức thanh toán nhỏ 
để người dân có thể tiếp cận được. 
Cần nâng cấp, mở rộng hệ thống 
thanh toán điện tử liên ngân hàng, đẩy 
mạnh thanh toán điện tử trong khu vực 
Chính phủ, dịch vụ hành chính công, như 
thuế, điện nước, học phí, viện phí (Quyết 
định số 241/QĐ-TTg ngày 23/02/2018). 
Hệ thống ngân hàng cần cung cấp nhiều 
dịch vụ sử dụng thẻ thanh toán hơn, đẩy 
mạnh số lượng và triển khai rộng hơn 
mạng lưới máy ATM, máy POS,
4.2. Hoàn thiện hành lang pháp lý, 
tạo niềm tin cho người dân
Một là, những quy định về KYC, các 
chuẩn chung kết nối kỹ thuật hay các đầu 
mối quản lý hiện còn chồng chéo. Cần 
quy hoạch lại hệ thống thanh toán tập 
trung, đồng bộ và có một chính sách đủ 
độ “mở”. 
Hai là, rà soát, ban hành, bổ sung, 
hoàn chỉnh khuôn khổ pháp lý và cơ chế 
chính sách cho phát triển thanh toán điện 
tử, như khung pháp lý rõ ràng, minh bạch; 
tăng cường sự giám sát của Ngân hàng 
Nhà nước đối với hệ thống ngân hàng. 
Thực tiễn phát triển nhanh và mạnh các 
hoạt động thanh toán không dùng tiền 
mặt như vậy đã đặt ra các yêu cầu đòi hỏi 
nhất định về cơ sở pháp lý điều chỉnh các 
hoạt động, dịch vụ thanh toán mới. Những 
nội dung cần hoàn thiện không chỉ là hệ 
thống các văn bản pháp quy liên quan đến 
các hoạt động thanh toán nói chung trong 
nền kinh tế, cả bằng tiền mặt và không 
tiền mặt, mà còn cần tạo lập môi trường 
cạnh tranh công bằng, bảo đảm khả năng 
tiếp cận thị trường, tiếp cận dịch vụ đối 
với các chủ thể có chức năng tương tự 
như nhau; hình thành cơ chế bảo vệ khách 
hàng hữu hiệu và bảo đảm quy trình giải 
quyết tranh chấp hiệu quả và khách quan; 
phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của 
các chủ thể hoạt động thanh toán. Trên cơ 
sở đó, kiểm soát rủi ro pháp lý thích hợp 
và đảm bảo phù hợp với các chuẩn mực, 
thông lệ quốc tế được các định chế tài 
chính, tiền tệ quốc tế khuyến nghị hoặc 
được áp dụng chung ở nhiều quốc gia.
Ba là, hoàn thiện dự thảo và ban 
hành mới Nghị định thay thế Nghị định 
101/2012/NĐ-CP, bởi vì, nếu hạn chế đầu 
tư nước ngoài vào trung gian thanh toán có 
thể vi phạm các cam kết quốc tế của Việt 
Nam tại WTO, CPTPP. Nếu Chính phủ 
hoặc nhà đầu tư nước ngoài khởi kiện, Việt 
Nam có thể đối mặt với hậu quả tốn kém 
và gây dư luận tiêu cực nếu thua kiện. 
Bốn là, muốn thực hiện thanh toán 
không tiền mặt, phải có tài khoản ngân 
hàng. Hiện chỉ có khoảng 30% dân số Việt 
Nam có tài khoản ngân hàng, 70% dân số 
vẫn ở vùng sâu, vùng xa không có điều 
kiện tiếp cận với dịch vụ ngân hàng. Đây 
là bài toán khó cho cả ngân hàng và fintech 
trong việc thúc đầy thanh toán không tiền 
mặt. Để đẩy nhanh lộ trình phi tiền mặt 
hóa các giao dịch, cần đáp ứng hai vấn đề: 
(i) Chính phủ tạo điều kiện bằng các hành 
lang pháp lý, các định hướng chiến lược 
để ngân hàng, các công ty fintech, bigtech 
có thể tham gia và cùng đưa ra giải pháp 
thúc đẩy chi tiêu không tiền mặt; và (ii) 
Nâng cao ý thức người dân về thanh toán 
không tiền mặt, để họ thấy lợi ích và lựa 
chọn phương thức thanh toán điện tử.
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
44Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 08/2020
4.3. Tuyên truyền, tạo niềm tin cho 
người dân
Thứ nhất, tăng cường công tác thanh 
tra, kiểm tra tuân thủ các quy định về an 
toàn, bảo mật tại các tổ chức tín dụng, tổ 
chức trung gian thanh toán để chủ động 
phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi vi 
phạm. Hơn 50% người dùng lo ngại về 
các vấn đề an ninh khi giao dịch trên 
mạng. Cần có biện pháp trấn áp một cách 
có hiệu quả vấn đề gian lận trong hoạt 
động này, chủ yếu liên quan đến gian lận 
tài khoản thẻ và thẻ giả, sau nữa là mất 
cắp, thất lạc thẻ, Gian lận tài khoản thẻ 
thường xảy ra với các giao dịch không 
xuất trình thẻ và chiếm tỷ lệ cao hơn đáng 
kể so với gian lận thẻ giả. 
Cần tuyên truyền về phòng, chống tội 
phạm công nghệ cao trong lĩnh vực ngân 
hàng, cảnh báo kịp thời những phương 
thức, thủ đoạn mới của tội phạm để có 
biện pháp phòng, chống hiệu quả. 
Thứ hai, phổ biến kiến thức, giúp 
người dân hiểu rõ những tiện ích của thanh 
toán không tiền mặt, khiến họ nắm được 
ưu, nhược điểm của nó, rồi tự quyết định, 
sẽ cảm thấy an toàn và thoải mái hơn khi 
sử dụng dịch vụ ngân hàng cung cấp. Như 
vậy, mới thực sự xuất phát từ nhu cầu tự 
thân, khiến khách hàng bỏ thói quen và 
tập quán thanh toán bằng tiền mặt.
Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước cũng 
như các ngân hàng thương mại cần có 
giải pháp cụ thể về việc thanh toán không 
dùng tiền mặt. Cần tích hợp các loại thẻ 
để giảm thủ tục đăng ký mở thẻ và có thể 
sử dụng trong nhiều hệ thống ngân hàng. 
Cần đầu tư công nghệ tốt hơn, hạn chế 
các lỗi kết nối, thủ tục thực hiện cần đơn 
giản, dễ áp dụng./.
Tài liệu tham khảo
1. Chính phủ (2012), Nghị định 101/2012/NĐ-CP
2. Chính phủ (2018), Quyết định số 241/QĐ-TTg ngày 23/02/2018.
3. Bộ Tài chính (2013), Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013;
4. Bộ Tài chính (2014), Thông tư số 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014;
5. Bộ Tài chính (2015), Thông tư số 25/2018/TT-BTC ngày 16/3/2018;
6. Bộ Tài chính (2017), Thông tư số 93/2017/TT-BTC ngày 19/9/2017;
7. Ngân hàng Nhà nước (2017), Thông tư số 21/2017/TT-NHNN ngày 29/12/2017;
8. Năm lợi ích khi bạn thanh toán không dùng tiền mặt. https://plo.vn/ban-doc/5-loi-ich-
khi-ban-thanh-toan-khong-dung-tien-mat-841678.html.
Ngày nhận bài: 13/03/2020
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
thanh_toan_khong_dung_tien_mat_thuc_trang_nam_2019_va_giai_p.pdf