TÓM TẮT
Đặt vấn đề - Mục tiêu: Làm dính màng phổi là một trong những chọn lựa tốt nhất để điều trị cho bệnh nhân tràn dịch màng phổi ác tính tái phát có triệu chứng. Mục đích của nghiên cứu này là xác định các yếu tố tiên đoán thất bại làm dính màng phổi bằng iodopovidone hoặc talc nhũ tương ở bệnh nhân tràn dịch màng phổi ác tính thứ phát lượng nhiều.
Đối tượng - Phương pháp NC: 216 bệnh nhân tràn dịch màng phổi ác tính thứ phát lượng nhiều được thu dung vào nghiên cứu từ tháng 6/2005 đến tháng 6/2008 tại khoa C6, bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. Bệnh nhân được nhận ngẫu nhiên hoặc 20mL iodopovidone 10% hoặc 5g talc hòa tan trong 60mL NaCl 0,9% bơm qua ống dẫn lưu màng phổi. Bệnh nhân được đánh giá 48 giờ sau đưa tác nhân vào khoang màng phổi. Làm dính màng phổi được đánh giá thành công nếu lượng dịch thoát qua ống dẫn lưu màng phổi < 150mL/24 giờ. Tất cả các kết quả khác được xem là thất bại.
Kết quả: Tỷ lệ thành công của làm dính màng phổi lần đầu bằng iodopovidone và talc nhũ tương theo thứ tự là 71% và 80,2%. Yếu tố tiên đoán độc lập của thất bại làm
THẤT BẠI LÀM DÍNH MÀNG PHỔI BẰNG IODOPOVIDONE
18 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2066 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thất bại làm dính màng phổi bằng iodopovidone, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THẤT BẠI LÀM DÍNH MÀNG PHỔI
BẰNG IODOPOVIDONE
TÓM TẮT
Đặt vấn đề - Mục tiêu: Làm dính màng phổi là một trong những chọn lựa tốt nhất để
điều trị cho bệnh nhân tràn dịch màng phổi ác tính tái phát có triệu chứng. Mục đích
của nghiên cứu này là xác định các yếu tố tiên đoán thất bại làm dính màng phổi bằng
iodopovidone hoặc talc nhũ tương ở bệnh nhân tràn dịch màng phổi ác tính thứ phát
lượng nhiều.
Đối tượng - Phương pháp NC: 216 bệnh nhân tràn dịch màng phổi ác tính thứ phát
lượng nhiều được thu dung vào nghiên cứu từ tháng 6/2005 đến tháng 6/2008 tại khoa
C6, bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. Bệnh nhân được nhận ngẫu nhiên hoặc 20mL
iodopovidone 10% hoặc 5g talc hòa tan trong 60mL NaCl 0,9% bơm qua ống dẫn lưu
màng phổi. Bệnh nhân được đánh giá 48 giờ sau đưa tác nhân vào khoang màng phổi.
Làm dính màng phổi được đánh giá thành công nếu lượng dịch thoát qua ống dẫn lưu
màng phổi < 150mL/24 giờ. Tất cả các kết quả khác được xem là thất bại.
Kết quả: Tỷ lệ thành công của làm dính màng phổi lần đầu bằng iodopovidone và
talc nhũ tương theo thứ tự là 71% và 80,2%. Yếu tố tiên đoán độc lập của thất bại làm
dính màng phổi bằng talc nhũ tương là glucose dịch màng phổi < 3,3mmol/L (p =
0,02). Yếu tố tiên đoán độc lập của thất bại làm dính màng phổi bằng iodopovidone là
bệnh nhân dưới 60 tuổi (p = 0,02), thể tích tràn dịch màng phổi > 2,8L (p = 0,01), ung
thư phổi nguyên phát (p = 0,03).
Kết luận: Nồng độ glucose dịch màng phổi < 3,3mmol/L là yếu tố tiên đoán thất bại
làm dính màng phổi bằng talc nhũ tương ở bệnh nhân tràn dịch màng phổi ác tính thứ
phát lượng nhiều. Bệnh nhân dưới 60 tuổi, thể tích tràn dịch màng phổi > 2,8L, ung
thư phổi nguyên phát tiên đoán thất bại làm dính màng phổi bằng iodopovidone ở
bệnh nhân tràn dịch màng phổi ác tính thứ phát lượng nhiều.
ABSTRACT
PREDICTIVE FACTORS OF FAILURE IN IODOPOVIDONE OR TALC
SLURRY PLEURODESIS
IN MASSIVE SECONDARY MALIGNANT PLEURAL EFFUSIONS PATIENTS
Nguyen Huu Lan, Dang Van Phuoc
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 - Supplement of No 1 - 2009: 108 - 115
Background - objectives: Pleurodesis is the one of the best options for the
management of symptomatic, recurent patients with malignant pleural effusion. The
study’s purpose is to determination of predictive factors in iodopovidone or talc slurry
pleurodesis failure in massive secondary malignant pleural effusions patients.
Methods: 216 patients with massive malignant pleural effusions were prospectively
assessed from June 2005 to June 2008 in C6 ward, Phạm Ngọc Thạch Hospital. The
patients were randomized to receive either 20mL 10% iodopovidone or 5g talc diluted
in 60mL saline solution 0.9% through the chest tube. Patients were evaluated 48h after
instillation of sclerosing agents. The intervention was scored as “successful” if pleural
fluid output from the chest tube is < 150mL in 24h. All other outcomes were scored
as “unsuccessful”.
Results: The successful rates of initial iodopovidone and talc slurry pleurodesis were
71% and 80.2% respectively. The independent prognosticator of talc slurry
pleurodesis failure was pleural fluid glucose < 3.3mmol/L (p = 0.02). Those of
iodopovidone pleurodesis failure were age < 60-year-old (p = 0.02), pleural effusion
volume > 2,8L (p = 0.01), and primary lung cancer (p = 0.03).
Conclusions: Pleural fluid glucose concentration < 3.3mmol/L is the predictor of talc
slurry pleurodesis failure in massive secondary malignant pleural effusions patients.
Age 2.8L, and primary lung cancer are the
predictives of iodopovidone pleurodesis failure in massive secondary malignant
pleural effusions patients.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tràn dịch màng phổi ác tính là vấn đề lâm sàng thường gặp(Error! Reference source not found.,
Error! Reference source not found.). Khoảng 50% ung thư di căn màng phổi phát triển tràn dịch
màng phổi ác tính (Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source
not found.). Hầu hết tràn dịch màng phổi ác tính không đáp ứng với hóa trị liệu toàn thân
(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference
source not found.). Chọc tháo dịch hay đặt ống dẫn lưu màng phổi làm giảm nhanh triệu
chứng khó thở, đau ngực, ho do tràn dịch màng phổi gây nên, nhưng tỷ lệ tái phát tràn
dịch màng phổi có thể lên đến 100% sau 1 tháng (Error! Reference source not found.,Error! Reference
source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.). Chọc tháo dịch màng
phổi nhiều lần gây cạn kiệt protein, dịch, điện giải, làm xấu dần tổng trạng của bệnh
nhân(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error!
Reference source not found.), làm tăng nguy cơ xuất hiện các biến chứng như tràn mủ màng
phổi, tràn khí màng phổi(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference
source not found.). Làm dính màng phổi dường như là điều trị chọn lựa tốt nhất hiện nay để
ngăn ngừa tái phát tràn dịch màng phổi ác tính (Error! Reference source not found.). Tuy nhiên,
làm dính màng phổi là thủ thuật có biến chứng(Error! Reference source not found.). Có nhiều
hoá chất được sử dụng làm dính màng phổi. Talc là chất được các hướng dẫn quốc tế
khuyến cáo sử dụng(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.), được sử dụng
nhiều nhất (Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.), dễ tìm(Error! Reference source
not found.,Error! Reference source not found.), rẻ tiền (Error! Reference source not found.,Error! Reference source not
found.), có chi phí-hiệu quả điều trị tốt nhất (Error! Reference source not found.). Iodopovidone
hiện được quan tâm nhiều nhờ tính hiệu quả trong kiểm soát tràn dịch màng phổi ác
tính, an toàn, dễ tìm, rẻ tiền(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error!
Reference source not found.), có khả năng là chất làm dính màng phổi hiệu quả- an toàn tốt
nhất (Error! Reference source not found.), có nhiều khả năng trở thành tác nhân chọn lựa làm
dính màng phổi (Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.). Tiên lượng của
bệnh nhân tràn dịch màng phổi ác tính rất xấu(Error! Reference source not found.,Error! Reference
source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not
found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.). Trung vị thời gian sống thêm
sau làm dính màng phổi thay đổi theo từng nghiên cứu(Error! Reference source not found.,Error!
Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source
not found.). Thời gian sống thêm của bệnh nhân làm dính màng phổi thành công tốt hơn
bệnh nhân làm dính màng phổi thất bại(Error! Reference source not found.). Nhưng cho đến nay,
không có tham số lâm sàng hay sinh hóa nào đáng tin cậy, để dự báo trước kết quả
làm dính màng phổi ở từng cá thể(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.).
Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố tiên đoán thất
bại làm dính màng phổi bằng iodopovidone hoặc talc ở bệnh nhân tràn dịch màng
phổi ác tính thứ phát lượng nhiều.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi thực hiện thử nghiệm lâm sàng chứng ngẫu nhiên không mù, cho 216
bệnh nhân ≥ 18 tuổi, nhập bệnh viện Phạm Ngọc Thạch từ tháng 6.2005 đến tháng
6.2008, bị tràn dịch màng phổi ác tính thứ phát lượng nhiều (thể tích tràn dịch
màng phổi ≥ 1L), không có khả năng hóa trị ung thư và/hoặc xạ trị hay vẫn còn
tràn dịch màng phổi sau hóa trị ung thư và/hoặc xạ trị. Sau khi tháo hết dịch qua
ống dẫn lưu màng phổi, phổi nở ra hoàn toàn, triệu chứng lâm sàng giảm so vơí
trước khi đặt ống dẫn lưu màng phổi, chỉ số Karnofsky ≥ 60%, PaO2 ≥ 60 mmHg,
hoặc SpO2 ≥ 90%, không có thai và/hoặc đang cho con bú.
Ở lần chọc tháo dịch màng phổi đầu tiên sau nhập viện, làm xét nghiệm LDH, protid,
albumin, glucose, công thức tế bào, tìm tế bào lạ trong dịch màng phổi. Đồng thời lấy
máu làm xét nghiệm LDH, protid, albumin, glucose. Thực hiện các xét nghiệm chẩn
đoán như chụp X quang lồng ngực, sinh thiết màng phổi kín, soi phế quản, sinh thiết
niêm mạc phế quản tại vị trí nghi có tổn thương, sinh thiết hạch ngoại vi phì đại nếu
có, siêu âm bụng tổng quát.
Tại các lần khám khi nhập viện, sau tháo hết dịch qua ống dẫn lưu màng phổi, trước
khi bơm thuốc làm dính màng phổi, ghi nhận thân nhiệt, mạch, huyết áp, SpO2, nhịp
thở, đánh giá mức độ đau ngực bằng thang điểm hiển thị số (Visual Analog
Scale:VAS), mức độ khó thở bằng thang điểm Borg, thang điểm Sadoul, tình trạng
hoạt động cơ thể (Performance status) của bệnh nhân theo thang điểm Karnofsky và
thang điểm WPS (WHO’Performance Scale).
Bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên vào hai nhóm điều trị: hoặc bơm talc nhũ tương (đã
được tiệt trùng bằng nhiệt 132oC trong 6 giờ) hoặc, bơm iodopovidone qua ống dẫn
lưu màng phổi. Sau đặt ống dẫn lưu tháo hết dịch màng phổi, khi X quang lồng ngực
cho thấy phổi đã nở ra hoàn toàn, sử dụng midazolam 5mg (tiêm tĩnh mạch),
paracetamol 1g (truyền tĩnh mạch). 15 phút sau, bơm 5g bột talc y khoa đã được hấp
vô trùng và lidocain 2mg/kg cân nặng, pha trong 60mL nước muối sinh lý hoặc,
20mL iodopovidone 10% vô trùng và lidocain 2mg/kg cân nặng, pha trong 60mL
nước muối sinh lý để bơm vào khoang màng phổi. Sau khi bơm tác nhân gây dính
vào khoang màng phổi, ống dẫn lưu được kẹp lại, bệnh nhân xoay trở theo 6 hướng
(nằm ngửa, nằm sấp, nằm nghiêng phải, nằm nghiêng trái, ngồi thẳng lưng, nằm đầu
thấp), mỗi 10 phút, trong vòng 2 giờ. Sau khi tháo kẹp ống dẫn lưu, duy trì áp lực hút
qua ống dẫn lưu là –20cmH2O. 4 giờ sau bơm thuốc, truyền tĩnh mạch paracetamol
1g. 48 giờ sau khi bơm hóa chất vào khoang màng phổi, nếu lượng dịch chảy ra qua
ống dẫn lưu màng phổi < 150mL/24 giờ, kẹp ống dẫn lưu màng phổi trong 24 giờ,
chụp X quang lồng ngực thẳng kiểm tra không có tràn khí màng phổi, sẽ tiến hành rút
ống dẫn lưu màng phổi.
Tiêu chí đánh giá kết quả làm dính màng phổi sau 48 giờ bơm chất gây dính vào
khoang màng phổi:
Thất bại: nếu lượng dịch chảy ra qua ống dẫn lưu màng phổi ≥ 150mL/24 giờ.
Thành công: nếu lượng dịch chảy ra qua ống dẫn lưu màng phổi < 150mL/24 giờ.
Chúng tôi sử dụng phép kiểm chi bình phương để so sánh tỉ lệ khác biệt cho các biến
định tính, và phép kiểm Mann-Whitney cho các biến định lượng. Tất cả các phương
pháp kiểm định giả thuyết được thực hiện bằng cách sử dụng kiểm định 2 bên (two-
sided alternatives). Ngưỡng ý nghĩa là 0,05 (p < 0,05) để chấp nhận hay bác bỏ giả
thuyết thống kê. Phân tích đa biến để tìm các yếu tố tiên đoán nguy cơ thất bại làm
dính màng phổi dựa vào mô hình hồi quy logistic. Tất cả các biến có liên quan ý
nghĩa thống kê trong phân tích đơn biến hoặc p < 0,25 được đưa vào mô hình đa biến,
được hiệu chỉnh với tuổi, và giới tính. Ước tính nguy cơ được biểu diễn bằng tỉ số
chênh và khoảng tin cậy 95%. Tất cả phân tích được thực hiện bằng phần mềm thống
kê STATA 8.0
KẾT QUẢ
Tham gia vào nghiên cứu có 107 (49,5%) bệnh nhân nam, 109 (50,5%) bệnh nhân nữ,
tuổi trung bình 63 ± 13 tuổi (từ 31 tuổi đến 91 tuổi), 116 (53,7%) bệnh nhân làm dính
màng phổi bằng talc nhũ tương, 100 (46,3%) bệnh nhân làm dính màng phổi bằng
iodopovidone. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê của các tham số nghiên cứu
trong nhóm làm dính màng phổi lần 1 bằng talc hay iodopovidone, ngoại trừ số lượng
tế bào đơn nhân trong dịch màng phổi của nhóm bệnh nhân làm dính màng phổi bằng
talc thấp hơn nhóm bệnh nhân làm dính màng phổi bằng iodopovidone (185 ±
421/mm3 so với 205 ± 288/mm3, p < 0,05). Có 52 bệnh nhân thất bại sau bơm thuốc
lần 1, bao gồm 23 bệnh nhân làm dính màng phổi bằng talc, 29 bệnh nhân làm dính
màng phổi bằng iodopovidone. Tỷ lệ thành công của làm dính màng phổi lần 1 bằng
iodopovidone và talc nhũ tương theo thứ tự là 71% và 80,2% (p = 0,12). Bảng 1, 2, 3
theo thứ tự trình bày kết quả phân tích đa biến các yếu tố nguy cơ thất bại làm dính
màng phổi lần 1, các yếu tố nguy cơ thất bại làm dính màng phổi lần 1 bằng talc và
bằng iodopovidone.
Bảng 1: Phân tích đa biến các yếu tố dự đoán thất bại LDMP lần 1
Đặc tính lâm sàng và
cận lâm sàng
RR
khoảng
tin cậy
95%
p
LDMP bằng talc 0,5
0,25 -
0,97
0,046
Bệnh nhân < 60 tuổi 2,5
1,28 -
5,04
0,008
Giới tính nam 1,6
0,79 -
3,16
0,19
Thể tích tràn dịch màng
phổi > 2,8L
3,1
1,55 -
6,28
0,001
Thứ phát sau ung thư phế
quản-phổi
7,2
1,59 -
32,94
0,01
Talc: talc nhũ tương, RR: nguy cơ tương đối, LDMP: làm dính màng phổi.
Bảng 2: Phân tích đa biến các yếu tố dự đoán thất bại LDMP bằng talc nhũ tương lần
1
Đặc tính lâm sàng
và cận lâm sàng
RR
khoảng tin
cậy 95%
p
Giới tính nam 1,1 0,40 – 3,16 0,83
Bệnh nhân < 60 tuổi 1,4 0,52 - 3,59 0,53
Glucose DMP <
3,3mmol/L
3,6 1,23 - 10,48 0,02
Talc: talc nhũ tương, RR: nguy cơ tương đối, DMP: dịch màng phổi, LDMP: làm
dính màng phổi.
Bảng 3: Phân tích đa biến các yếu tố dự đoán thất bại LDMP bằng iodopovidone lần
1
Đặc tính lâm sàng
và cận lâm sàng
RR
khoảng tin
cậy 95%
p
Giới tính nam 1,6 0,59 - 4,25 0,36
Bệnh nhân < 60
tuổi
3,1 1,16 - 8,44 0,02
Thể tích tràn dịch
màng phổi > 2,8L
3,8 1,38 - 10,63 0,01
Thứ phát sau ung
thư phế quản-phổi
10,5 1,20 - 91,52 0,03
RR: nguy cơ tương đối, LDMP: làm dính màng phổi.
BÀN LUẬN
Mặc dù phân tích đơn biến cho thấy kết quả làm dính màng phổi lần 1 bằng
iodopovidone thấp hơn talc không có ý nghĩa thống kê (p = 0,12). Nhưng khi đưa
vào mô hình phân tích đa biến được hiệu chỉnh với các yếu tố khác, iodopovidone
là yếu tố làm tăng nguy cơ thất bại của làm dính màng phổi lần 1 lên 2 lần (p =
0,046). Điều này cho thấy talc hiệu quả hơn iodopovidone trong kiểm soát tràn
dịch màng phổi ác tính. Các yếu tố khác như bệnh nhân dưới 60 tuổi, thể tích tràn
dịch màng phổi trên 2,8L, ung thư phế quản phổi nguyên phát có tương quan độc
lập với kết quả làm dính màng phổi.
Theo y văn thế giới, nồng độ glucose dịch màng phổi < 3,3mmol/L, pH dịch màng
phổi < 7,2 là các giá trị tiên đoán tỷ lệ thành công thấp của phương pháp làm dính
màng phổi(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.). Thông thường, dịch
màng phổi có pH thấp cũng có glucose thấp và LDH cao(Error! Reference source not found.).
Một số nghiên cứu cho thấy khả năng thành công của phương pháp làm dính màng
phổi thấp khi pH dịch màng phổi thấp(Error! Reference source not found.,Error! Reference source
not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not
found.). Trong nhiều tình huống, đo glucose dịch màng phổi được sử dụng thay thế
cho đo pH dịch màng phổi(Error! Reference source not found.). Theo Shan, có mối liên hệ
trực tiếp giữa nồng độ glucose dịch màng phổi và pH dịch màng phổi trong tràn
dịch màng phổi ác tính. Khi nồng độ glucose dịch màng phổi thấp, pH dịch màng
phổi thấp. Khi nồng độ glucose dịch màng phổi bình thường, pH dịch màng phổi
bình thường. Trong hầu hết các truờng hợp, ngưỡng glucose dịch màng phổi
3,3mmol/L (60mg/dL) có thể được sử dụng tương tự ngưỡng pH dịch màng phổi
7,3 trong chẩn đoán, tiên lượng, thông tin điều trị cho bệnh nhân tràn dịch màng
phổi ác tính(Error! Reference source not found.).
Nồng độ glucose dịch màng phổi thấp có khả năng chỉ ra 2 bất thường đồng tồn
tại: màng phổi dày và thâm nhiễm dẫn đến suy yếu quá trình khuếch tán glucose đi
vào khoang màng phổi, cộng với gia tăng hoạt động chuyển hóa dẫn đến gia tăng
sử dụng glucose bên trong khoang màng phổi(Error! Reference source not found.). Bệnh
nhân tràn dịch màng phổi ác tính có glucose dịch màng phổi thấp thường luôn tìm
thấy tế bào ác tính trong dịch màng phổi(Error! Reference source not found.,Error! Reference source
not found.), hay có mô ác tính trong mẫu sinh thiết màng phổi hay cả hai xét nghiệm
này đều dương tính(Error! Reference source not found.). Theo Rodriguez-Panadero, nồng độ
glucose dịch màng phổi thấp (< 3,3mmol/L), pH dịch màng phổi thấp (< 7,35), có
tương quan mạnh với mức độ lan rộng của khối u, quan sát được qua soi lồng
ngực(Error! Reference source not found.). Theo Marchi, tế bào trung biểu mô, mặc dù bị tổn
thương bởi talc, có thể có vai trò tích cực trong phản ứng viêm màng phổi của quá
trình gây dính màng phổi bằng talc(Error! Reference source not found.). Khi có khối u xâm
lấn bao phủ trung biểu mô thì việc gây dính màng phổi kém hiệu quả, điều này
nhấn mạnh lại vai trò then chốt của tế bào trung biểu mô trong việc gây xơ hoá
màng phổi(Error! Reference source not found.). Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ
glucose dịch màng phổi thấp (< 3,3mmol/L), làm tăng nguy cơ thất bại làm dính
màng phổi bằng talc nhũ tương lên gấp 3,6 lần (p = 0,02).
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy không có mối tương quan có ý nghĩa thống kê
giữa nồng độ glucose dịch màng phổi với kết quả làm dính màng phổi bằng
iodopovidone. Trong các nghiên cứu bơm Corynebacterium parvum vào khoang
màng phổi bị di căn ác tính có triệu chứng, cũng ghi nhận glucose dịch màng phổi
thấp không có giá trị tiên đoán khả năng thất bại cao của phương pháp làm dính màng
phổi(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.). Chúng tôi ghi nhận các báo
cáo trong y văn thế giới liên quan đến giá trị tiên đoán thất bại làm dính màng phổi
của pH dịch màng phổi và glucose dịch màng phổi là các nghiên cứu làm dính màng
phổi bằng talc(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.), tetracycline(Error!
Reference source not found.), hay trong các nghiên cứu phân tích gộp không có
iodopovidone(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.). Ngay cả khi làm
dính màng phổi bằng bơm talc bột khô qua soi lồng ngực, Aelony và cộng sự nhận
thấy bơm talc bột khô qua soi lồng ngực làm dính màng phổi thành công trong 88%
trường hợp tràn dịch màng phổi ác tính cho dù pH dịch màng phổi thấp (≤ 7,3) (Error!
Reference source not found.). Trong nghiên cứu của Crnjac, khi pH dịch màng phổi > 7,3,
không có khác biệt về tỷ lệ làm dính màng phổi thành công bằng talc nhũ tương so
với cào xước màng phổi. Khi pH dịch màng phổi < 7,3, tỷ lệ làm dính màng phổi
thành công bằng talc nhũ tương và bằng cào xước màng phổi khác nhau (theo thứ tự
là 55% và 81%), nhưng không có ý nghĩa thống kê (p = 0,07)(Error! Reference source not
found.).
Haddad nhận thấy thể tích tràn dịch màng phổi < 0,9L, đánh giá trong lần đầu tiên
chọc tháo hay dẫn lưu dịch màng phổi, có tương quan độc lập với thời gian sống thêm
không có tràn dịch màng phổi tái phát sau làm dính màng phổi bằng talc nhũ tương
hay bleomycin(Error! Reference source not found.). Nghiên cứu của chúng tôi thu dung các
trường hợp tràn dịch màng phổi lượng nhiều > 1L và, chúng tôi ghi nhận có mối
tương quan độc lập giữa kết quả làm dính màng phổi và thể tích tràn dịch màng phổi,
nhưng với thể tích tràn dịch màng phổi lớn hơn ghi nhận trong nghiên cứu của
Haddad. Khi thể tích tràn dịch màng phổi > 2,8L, nguy cơ thất bại làm dính màng
phổi bằng iodopovidone lần 1 tăng lên gấp 3,8 lần (p = 0,01). Ngược lại, mặc dù thực
hiện làm dính màng phổi bằng talc nhũ tương cho một số lượng bệnh nhân lớn hơn
(116 bệnh nhân), nhưng chúng tôi không thấy có mối tương quan độc lập giữa thể
tích tràn dịch màng phổi và kết quả làm dính màng phổi bằng talc nhũ tương.
Rodriguez-Panadero không thấy có mối tương quan giữa thể tích tràn dịch màng phổi
và mức độ lan rộng của tổn thương di căn ác tính trong khoang màng phổi(Error!
Reference source not found.). Theo Shan, xâm lấn ác tính hệ thống dẫn lưu bạch huyết hoặc
của màng phổi thành và/hoặc của trung thất, là cơ chế chính gây tràn dịch ở khoang
màng phổi bị di căn ung thư(Error! Reference source not found.). Light gợi ý vai trò của gia tăng
tạo dịch màng phổi, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh đến giảm khả năng thoát dịch
màng phổi qua dẫn lưu mạch bạch huyết trong quá trình tích tụ dịch màng phổi (Error!
Reference source not found.). Nghĩa là thể tích tràn dịch màng phổi phụ thuộc chủ yếu vào tổn
thương hệ thống dẫn lưu bạch huyết của màng phổi thành và/hoặc của trung thất do di
căn ác tính, chứ không phải mức độ lan rộng của tổn thương di căn ác tính trong
khoang màng phổi. Chúng tôi giả thuyết rằng cơ chế làm dính màng phổi bằng
iodopovidone khác với talc, vì thế không phụ thuộc vào nồng độ glucose dịch màng
phổi (hay mức độ lan rộng của tổn thương di căn ác tính trong khoang màng phổi).
Do đó, kết quả làm dính màng phổi bằng iodopovidone cho bệnh nhân tràn dịch màng
phổi ác tính không phụ thuộc vào nồng độ glucose dịch màng phổi (hay mức độ lan
rộng của tổn thương di căn ác tính trong khoang màng phổi).
Chúng tôi ghi nhận nguy cơ thất bại làm dính màng phổi lần 1 được đánh giá sau 48
giờ bơm iodopovidone vào khoang màng phổi tăng gấp 10,5 lần (p = 0,03), nếu bệnh
nhân bị tràn dịch màng phổi thứ phát sau ung thư phế quản-phổi. Trong nghiên cứu
phân tích gộp của Agarwal, các tác giả cho rằng kết quả làm dính màng phổi bằng
iodopovidone không phụ thuộc vào loại bệnh lý màng phổi (p = 0,17). Tuy nhiên, tác
giả chỉ so sánh giữa bệnh lý tràn dịch màng phổi với tràn khí màng phổi(Error! Reference
source not found.). Dresler và cộng sự có ghi nhận bệnh nhân tràn dịch màng phổi ác tính
do ung thư phổi hay ung thư vú, tỷ lệ làm dính màng phổi thành công sau 1 tháng đối
với nhóm talc bột khô cao hơn nhóm bơm talc nhũ tương (p=0,02). Tuy nhiên, tác giả
không so sánh trên cùng một tác nhân giống nhau, tỷ lệ làm dính màng phổi thành
công có khác nhau giữa các loại ung thư nguyên phát khác nhau(Error! Reference source not
found.).
Tuổi bệnh nhân được đề cập đến trong những nghiên cứu làm dính màng phổi bằng
Corynebacterium parvum(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.), talc(Error!
Reference source not found.,Error! Reference source not found.) hay tetracycline(Error! Reference source not
found.). Không thấy các tác giả nói đến các yếu tố này như những giá trị tiên đoán kết
quả làm dính màng phổi(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference
source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.). Các nghiên cứu làm
dính màng phổi bằng iodopovidone cũng không thấy đề cập đến yếu tố tiên đoán kết
quả làm dính màng phổi(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference
source not found.).
Kết quả làm dính màng phổi bằng talc hay bằng iodopovidone có các yếu tố tiên đoán
kết quả làm dính màng phổi khác nhau. Điều này sẽ giúp chọn lựa tác nhân làm dính
màng phổi cho từng trường hợp cụ thể. Khi bệnh nhân có nồng độ glucose dịch màng
phổi < 3,3mmol/L, iodopovidone được chọn làm tác nhân gây dính màng phổi. Khi
bệnh nhân dưới 60 tuổi, thứ phat sau ung thư phổi, có thể tích tràn dịch màng phổi >
2,8L, nên sử dụng talc gây dính màng phổi. Khi bệnh nhân không có các yếu tố nguy
cơ thất bại làm dính màng phổi với talc lẫn iodopovidone, chúng tôi cho rằng nên
chọn bơm talc vào khoang màng phổi bị tràn dịch ác tính.
Ngày nay, phản ứng của tế bào ác tính với bột talc không được quan tâm trong các
nghiên cứu làm dính màng phổi. Bởi vì vai trò của bơm talc vào khoang màng phổi
chỉ là điều trị triệu chứng. Một tác nhân hoá trị lý tưởng sẽ tác động trên những tế bào
ác tính nhưng không làm hại tế bào bình thường. Người ta đã tìm thấy bằng chứng bột
talc gây quá trình tự tiêu tế bào hoặc cái chết được lên chương trình của những tế bào
trung biểu mô ác tính(Error! Reference source not found.), và tế bào ung thư phổi loại biểu mô
tuyến (Error! Reference source not found.), nhưng không gây hại đối với tế bào trung biểu mô
màng phổi bình thường(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.). Phản ứng
này thú vị, do một số tác nhân được dùng trong hóa trị, có tác dụng tiêu diệt tế bào
ung thư bởi cơ chế gây tự tiêu tế bào. Cơ chế này và hình thái chết tế bào đóng vai trò
quan trọng trong điều trị bệnh lý ác tính. Talc là chất hóa học không độc hại, là tác
nhân gây dính màng phổi, có đặc tính gây ra hiện tượng tự tiêu của tế bào trung biểu
mô ác tính, và tế bào ung thư phổi loại biểu mô tuyến. Vì vậy, bột talc có tác dụng
ngăn chặn và giảm kích thước của khối u. Những thuốc chống tế bào ung thư có tác
dụng làm dính màng phổi như doxorubicin, cisplatin và cyclophosphamide cũng có
thể dẫn đến quá trình tự tiêu của những tế bào ác tính. Có thể ở những giai đoạn sớm
của bệnh lý màng phổi, diện tích và kích thước của khối u còn nhỏ, talc có thể bao
phủ một vùng tương đối rộng trên khối u. Khi kích thước khối u lớn, talc không có
hiệu quả ở vùng sâu của khối u. Vì vậy, quá trình tự tiêu sẽ diễn ra ở phần nông hơn
của khối u(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.). Theo Agarwal, cách
thức tác động của iodopovidone trong quá trình làm dính màng phổi chưa được biết
rõ, có thể liên quan đến pH thấp của dung dịch gây dính màng phổi, có thể liên quan
đến đặc tính oxy hoá mạnh và độc tế bào của iodine, vốn là một chất có thể tạo ra
phản ứng viêm mạnh. Về mặt lý thuyết, trong tác dụng làm dính màng phổi, cơ chế
hoạt động của iodopovidone có thể tương tự như talc, nghĩa là tạo ra yếu tố tăng
trưởng nguyên bào sợi. Cũng có khả năng iodopovidone hoạt động như tác nhân độc
tế bào trên những loại tế bào ác tính(Error! Reference source not found.). Vì vậy, xét riêng đặc
tính đã được biết rõ của talc về khả năng tiêu diệt tế bào ung thư và không làm hại tế
bào trung biểu mô bình thường, chúng tôi ưu tiên chọn talc làm dính màng phổi cho
bệnh nhân tràn dịch màng phổi ác tính lượng nhiều. Ngoài ra, xét trên tổng 2 lần bơm
thuốc vào khoang màng phổi, talc hiệu quả hơn iodopovidone trong tác dụng kiểm
soát tràn dịch màng phổi ác tính. Tỷ lệ làm dính màng phổi thành công bằng talc cao
hơn iodopovidone một cách có ý nghĩa thống kê vào tháng thứ 1 và tháng thứ 6 (theo
thứ tự p < 0,04 và p < 0,03). Vì vậy, xét trên hiệu quả điều trị, chúng tôi nhận thấy
nên ưu tiên chọn talc làm chất gây dính màng phổi cho bệnh nhân tràn dịch màng
phổi ác tính lượng nhiều.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng chứng ngẫu nhiên không mù trên 216 bệnh
nhân tràn dịch màng phổi ác tính thứ phát lượng nhiều, được làm dính màng phổi
bằng talc nhũ tương (116 bệnh nhân) hoặc iodopovidone (100 bệnh nhân), chúng tôi
nhận thấy các yếu tố tiên đoán thất bại làm dính màng phổi bằng talc nhũ tương là
glucose dịch màng phổi < 3,3mmol/L. Các yếu tố tiên đoán thất bại làm dính màng
phổi bằng iodopovidone là tràn dịch màng phổi ở bệnh nhân dưới 60 tuổi, thứ phát
sau ung thư phổi, thể tích tràn dịch màng phổi > 2,8L. Talc nhũ tương hiệu quả hơn
iodopovidone trong tác dụng làm dính màng phổi cho bệnh nhân tràn dịch màng phổi
ác tính thứ phát lượng nhiều.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 68_3334.pdf