Như đã đề cập, đái tháo đường là bệnh
lý phổ biến trên thế giới [8] cũng như tại
Việt Nam [4], được coi là gánh nặng y tế
toàn cầu, việc điều trị đòi hỏi lâu dài và tuân
thủ tốt chế độ điều trị của người bệnh giữ
vai trò quan trọng trong kiểm soát đường
máu, hạn chế các biến chứng và tử vong
[1]. Song kết quả nghiên cứu cho thấy thực
hành tuân thủ điều trị của người bệnh còn
nhiều hạn chế với điểm trung bình tuân
thủ đạt 11,76 ± 2,69 điểm trên tổng số 20
điểm của thang đo, thậm chí có người
bệnh chỉ đạt 7 trên 20 điểm (Bảng 3.1). Kết
quả nghiên cứu cũng phản ánh thực trạng
chung về tuân thủ điều trị thấp đã được ghi
nhận trong các nghiên cứu [10]. Sau can
thiệp, mặc dù không một nghiên cứu sử
dụng thang đo; cách tính điểm hoặc can
thiệp giáo dục tương tự để so sánh, song
can thiệp giáo dục đã áp dụng trong nghiên
cứu đã cho thấy có sự cải thiện tích cực với
tăng điểm trung bình thực hành của cả mẫu
ngiên cứu lên 15,20 ± 2,85 điểm và ở thời
điểm 3 tháng sau can thiệp còn duy trì với
14,48 ± 3,27 điểm. Mức chênh điểm so với
trước can thiệp tuy không quá lớn song sự
khác biệt về cải thiện điểm sau can thiệp so
với trước can thiệp có ý nghĩa thống kê với
p < 0,001.
Tuân thủ trong điều trị đái tháo đường
là một tiếp cận đa chiều, người bệnh cần
phải tuân thủ đầy đủ các nội dung, cùng
với tuân thủ sử dụng thuốc, người bệnh
cần tuân thủ các yêu cầu về chế độ ăn,
hạn chế đồ uống có cồn, không hút thuốc,
chế độ tập thể dục và tự theo dõi đường
máu [6]. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
tỷ lệ người bệnh đạt tuân thủ điều trị theo
6 nội dung được khuyến cáo trước can
thiệp khá thấp, chỉ có 5 trên tổng số 100
người bệnh tham gia nghiên cứu tuân thủ
cả 6 nội dung và sau can thiệp 1 tháng đã
có thêm 23 người tuân thủ cả 6 nội dung
nâng tổng số lên 28 người và còn duy trì
ở 26 người sau khi kết thúc can thiệp 3
tháng (Bảng 3.2). Đây là những con số
có ý nghĩa thực tiễn lâm sàng khi có thêm
một người bệnh tuân thủ điều trị cũng có
nghĩa có thêm cơ hội để người đó hạn
chế nguy cơ bị các biến chứng nguy hiểm
của bệnh đái tháo đường. Việc tự theo dõi
đường máu tại nhà phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ
người bệnh tự theo dõi đường máu tại
nhà trong nghiên cứu của chúng tôi khá
thấp chỉ có 16,0% người bệnh thực hiện
so với 42,2% trong một nghiên cứu mô tả
trên 102 người bệnh tại Bồ Đào Nha của
Carlos năm 2015 [6].
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thay đổi thực hành tuân thủ điều trị của người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện nội tiết tỉnh Sơn La, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
50
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
Thạc sỹ y tế công cộng, Trường Đại học Y
tế công cộng.
3. Nguyễn Thị Khánh (2016). Thay đổi
kiến thức và thực hành về tuân thủ điều
trị của người bệnh lao tại bệnh viện lao
và bệnh phổi tỉnh Nam Định sau can thiệp
giáo dục năm 2016, Luận văn Thạc sỹ điều
dưỡng, Trường Đại học Điều dưỡng Nam
Định.
4. Nguyễn Viết Nhung (2017). Định
hướng công tác phòng chống bệnh lao tiến
đến kết thúc bệnh lao ở Việt Nam. Kỷ yếu
Hội nghị khoa học bệnh phổi toàn quốc lần
thứ VII, Bệnh viện Lao và bệnh phổi trung
ương, tr. 32.
5. Nguyễn Kim Soạn (2014). Thực trạng
và các yếu tố liên quan đến tuân thủ các
nguyên tắc điều trị lao của bệnh nhân lao
mới đang được quản lý tại các trạm y tế
xã thuộc huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh
Hòa năm 2014, Luận văn Thạc sỹ y tế công
cộng,Trường Đại học y tế công cộng.
6. Trung tâm y tế huyện Cao Lộc (2018).
Báo cáo kết quả điều trị lao, Cao lộc.
7. Lưu Thanh Tùng (2015). Thực trạng
tuân thủ điều trị và các yếu tố liên quan của
bệnh nhân lao được quản lý tại các trạm
y tế của thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp
năm 2015, Luận văn Thạc sỹ y tế công
cộng, Trường Đại học y tế công cộng.
8. Trần Văn Ý (2017). Thực trạng tuân
thủ điều trị và một số yếu tố liên quan ở
bệnh nhân lao được quản lý tại các trạm y
tế huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định năm 2017,
Luận văn Thạc sỹ y tế công cộng, Trường
Đại học y tế công cộng.
9. Lee, S.Khan, O. F.Seo, J. H, at el
(2013). Impact of Physician’s Education
on Adherence to Tuberculosis Treatment
for Patients of Low Socioeconomic Status
in Bangladesh. Chonnam Med J, 49 (1), p.
27 – 30.
10. Alipanah N, Jarlsberg L, Miller C,
at el (2018). Adherence interventions and
outcomes of tuberculosis treatment: A
systematic review and meta-analysis of
trials and observational studies. PLoS Med,
15(7).
11. WHO (2018). Global Tuberculosis
Report. [online] Available at: https: // www.
who.int/tb/publications/global_report/
en/ [Accessed 2 December 2018]
THAY ĐỔI THỰC HÀNH TUÂN THỦ ĐIỀU TRỊ CỦA NGƯỜI BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
TYPE 2 ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN NỘI TIẾT TỈNH SƠN LA
Ngô Huy Hoàng1, Đoàn Thị Hồng Thuý2
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định,
2Trường Cao đẳng Y tế Sơn La
Người chịu trách nhiệm: Ngô Huy Hoàng
Email: ngohoang64@ndun.edu.vn
Ngày phản biện: 12/02/2020
Ngày duyệt bài: 26/02/2020
Ngày xuất bản: 16/3/2020
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi thực hành
tuân thủ điều trị của người bệnh đái tháo
đường type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện
Nội tiết tỉnh Sơn La năm 2019 sau can thiệp
giáo dục sức khỏe. Đối tượng và phương
pháp nghiên cứu: Thiết kế can thiệp một
nhóm có so sánh trước - sau được thực hiện
với 100 người bệnh đái tháo đường type 2
đang điều trị ngoại trú tại Khoa khám bệnh -
Bệnh viện Nội tiết tỉnh Sơn La từ 25/02/2019
đến 25/06/2019. Kết quả: Trước can thiệp,
thực hành tuân thủ điều trị đái tháo đường
type 2 của người bệnh tham gia nghiên cứu
51
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
Kết luận: Thực hành tuân thủ điều trị của
người bệnh đái tháo đường type 2 tham gia
nghiên cứu còn hạn chế trước can thiệp và
đã được cải thiện đáng kể sau can thiệp
giáo dục sức khỏe. Kết quả nghiên cứu
cho thấy tác dụng và sự cần thiết của việc
thường xuyên giáo dục sức khỏe cho người
bệnh để duy trì tuân thủ điều trị đái tháo
đường type 2.
Từ khóa: người bệnh, tuân thủ điều trị,
đái tháo đường type 2
CHANGES IN ADHERENCE TO THERAPIES IN OUTPATIENTS WITH TYPE 2
DIABETES MELLITUS MANAGED BY SON LA PROVINCIAL ENDOCRINE HOSPITAL
ABSTRACT
Objective: To assess changes in the
adherence to therapies in outpatients with
type 2 diabetes mellitus managed by Sonla
Provincial Endocrine Hospital after a health
educational intervention. Method: One-
group pre-test and post-test design was
conducted among 100 outpatients with
diabetes mellitus type 2, being managed in
the Outpatient Ward of the Son La Endocrine
Provincial Hospital from February 25,
2019 to June 25, 2019. Results: Before
the intervention, the patients’ adherence
to therapies of diabetes mellitus type 2
was limited with the mean score of 11.76
± 2.69 points per the total 20 points of the
scale. After completing the intervention one
month, the mean score went up to 15.20 ±
2.85 points and retained with 14.48 ± 3.27
points at three months later completing
the intervention (p values of 0.001). The
patients who performed properly all 6
contents of adherence was only 5% before
the intervention, then increased to 28% after
the intervention one month and maintained
at 26% at three months later. Conclusion:
The patients’ adherence to therapies of
diabetes mellitus type 2 was limited before
the educational intervention and improved
significantly after the intervention. The
results of this study show clearly effects
of the health educational program applied
in the study for the patients and should be
conducted regularly.
Keywords: patients, adherence to
therapies, type 2 diabetes
còn hạn chế với điểm trung bình thực hành
là 11,76 ± 2,69 điểm trên tổng 20 điểm
của thang đo. Sau can thiệp 1 tháng, điểm
trung bình thực hành tăng lên đạt 15,20 ±
2,85 điểm và duy trì ở 14,48 ± 3,27 điểm
ở 3 tháng sau can thiệp so với trước can
thiệp, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p < 0,001. Tỷ lệ người bệnh thực hành đạt
cả 6 nội dung trước can thiệp thấp với 5%
đã tăng lên 28% sau can thiệp 1 tháng và
duy trì với tỷ lệ 26% sau can thiệp 3 tháng.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) type 2 hiện
đang được ghi nhận như là đại dịch trong
thế kỷ 21 với ảnh hưởng đến hàng trăm
triệu người trên toàn thế giới. Theo thống
kê của Hiệp hội ĐTĐ Quốc tế đến năm
2017 [8], trên thế giới có khoảng 451 triệu
người trong độ tuổi 18-99 mắc bệnh ĐTĐ
trong đó có khoảng 49,7% số người chưa
được chẩn đoán, khoảng 374 triệu người
bị suy giảm dung nạp glucose đây là nhóm
có nguy cơ cao phát triển thành bệnh. Ước
tính đến năm 2045 số người bị bệnh ĐTĐ
sẽ tăng lên 693 triệu người, chi phí y tế tiếp
tục tăng 7% chi phí toàn cầu dành riêng cho
điều trị bệnh đái tháo đường trong đó đa
số là cho điều trị các biến chứng. Tại Việt
Nam, năm 2012 điều tra tại 6 vùng trên cả
nước tỷ lệ này đã tăng 5,7% dân số, sau 10
52
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
năm, tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ ở nước ta tăng
211,1% [4].
Đái tháo đường type 2 là một bệnh mạn
tính nên người bệnh phải điều trị hàng
ngày trong suốt cuộc sống của họ. Quá
trình điều trị ĐTĐ là một quá trình lâu dài,
gây gánh nặng bệnh tật cho gia đình người
bệnh cũng như cho xã hội. Các nghiên cứu
đã cho thấy muốn giảm tỷ lệ tử vong cũng
như các biến chứng do ĐTĐ gây ra thì
tuân thủ tốt chế độ điều trị như chế độ dinh
dưỡng, chế độ hoạt động thể lực, chế độ
dùng thuốc, chế độ kiểm soát đường huyết
và khám sức khỏe định kỳ theo hướng dẫn
của nhân viên y tế [1] giữ vai trò quan trọng.
Song thực tế cho thấy sự tuân thủ điều trị
của người bệnh đái tháo đường còn nhiều
hạn chế.
Giáo dục sức khỏe (GDSK) được xem
là một giải pháp hữu hiệu trong cải thiện
tuân thủ điều trị các bệnh mạn tính không
lây nhiễm nói chung cũng như tuân thủ
điều trị đái tháo đường nói riêng. GDSK
cũng là một trong những nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu được qui định trong chăm
sóc người bệnh tại bệnh viện [2]. Tại Việt
Nam, đã có một số nghiên cứu mô tả thực
trạng tuân thủ điều trị của người bệnh ĐTĐ
type 2 nhưng các nghiên cứu được công
bố chính thức liên quan đến can thiệp giáo
dục, đặc biệt là can thiệp giáo dục sức
khoẻ do điều dưỡng thực hiện, nhằm cải
thiện tuân thủ điều trị (TTĐT) cho người
bệnh còn khá khiêm tốn. Sơn La là một
tỉnh miền núi có nhiều dân tộc sinh sống
và chủ yếu là dân tộc ít người, mặc dù
tỷ lệ mắc bệnh có thể không tương đồng
với các khu vực khác. Song chưa có một
nghiên cứu chính thức nhằm đánh giá thực
trạng và thực hiện một chương trình can
thiệp giáo dục sức khỏe để nâng cao khả
năng tuân thủ điều trị cho người bệnh đái
tháo đường type 2. Xuất phát từ thực tế
này, nhóm nghiên cứu đã thực hiện đề tài:
“Thay đổi thực hành tuân thủ điều trị của
người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị
ngoại trú tại Bệnh viện Nội tiết tỉnh Sơn
La sau can thiệp giáo dục” với mục tiêu:
Đánh giá sự thay đổi thực hành tuân thủ
điều trị của người bệnh đái tháo đường
type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Nội
tiết tỉnh Sơn La năm 2019 sau can thiệp
giáo dục sức khỏe.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Người bệnh đang được điều trị ngoại trú
đái tháo đường type 2 tại Khoa Khám bệnh
- Bệnh viện Nội tiết tỉnh Sơn La.
- Tiêu chuẩn chọn
Những người bệnh đái tháo đường type
2 đáp ứng các tiêu chuẩn sau sẽ được chọn
vào nghiên cứu:Đã điều trị ngoại trú đái
tháo đường type 2 tại khoa Khám bệnh từ
ít nhất 01 tháng trở lên (để có đủ thời gian
trải nghiệm tối thiểu cho đánh giá trước can
thiệp). Có khả năng giao tiếp tiếng Kinh
bằng lời (hoặc có người thân đi cùng giao
tiếp được bằng tiếng Kinh). Đồng ý tham
gia nghiên cứu.
- Tiêu chuẩn loại
Người bệnh đến khám ngoại trú có diễn
biến nặng phải vào điều trị nội trú. Người
bệnh đã từng tham gia một chương trình
can thiệp GDSK tương tự về tuân thủ điều
trị đái tháo đường type 2. Người bệnh
không tham gia đủ các hoạt động can thiệp
GDSK và các lần đánh giá trong nghiên
cứu (sẽ không đưa vào phân tích số liệu).
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 01/2019
- 06/2019. Thời gian thu thập số liệu và can
thiệp GDSK: từ 25/02/2019 - 25/06/2019.
Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được
tiến hành tại Khoa Khám bệnh - Bệnh viện
Nội tiết tỉnh Sơn La.
2.3. Thiết kế nghiên cứu
Can thiệp một nhóm có so sánh trước
– sau (One-group pre-test and post-test
design).
53
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
2.4. Mẫu và phương pháp chọn mẫu
- Cỡ mẫu: Toàn bộ người bệnh đến tái
khám trong khoảng thời gian từ 25 tháng
02 đến 25 tháng 3 năm 2019, đáp ứng tiêu
chuẩn chọn đã được chọn vào nghiên cứu.
Thực tế đã có 100 người bệnh ĐTĐ type 2
đến tái khám đáp ứng tiêu chuẩn chọn và
tham gia đầy đủ các hoạt động của nghiên
cứu.
- Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu
chủ đích (purposive samling).
2.5. Phương pháp thu thập số liệu
- Thu thập số liệu được thực hiện tại 3
thời điểm, sử dụng cùng một bộ công cụ
đánh giá: Đánh giá thực hành tuân thủ điều
trị của người bệnh đái tháo đường type 2
trước can thiệp giáo dục sức khoẻ (T1).
Đánh giá thực hành tuân thủ điều trị của
người bệnh đái tháo đường type 2 sau can
thiệp giáo dục sức khoẻ 1 tháng (T2) Đánh
giá thực hành tuân thủ điều trị của người
bệnh đái tháo đường type 2 sau can thiệp
giáo dục sức khoẻ 3 tháng (T3).
- Trước khi tiến hành nghiên cứu, người
bệnh được giải thích rõ ràng về mục đích
và các hoạt động sẽ tham gia, đồng ý và
cam kết tham gia đầy đủ các hoạt động của
nghiên cứu tránh tình trạng mất đối tượng
sau 01 hoặc 03 tháng. Nhóm nghiên cứu
cũng lấy thông tin để có thể liên lạc và nhắc
người bệnh tái khám đúng hẹn và bảo mật
thông tin này.
2.6. Can thiệp giáo dục sức khỏe
Đối tượng nhận can thiệp là người bệnh
ĐTĐ type 2 điều trị ngoại trú tại Khoa Khám
bệnh - Bệnh viện Nội tiết tỉnh Sơn La.
Người thực hiện GDSK: Để đảm bảo
tính nhất quán về nội dung và phương
pháp can thiệp GDSK về tuân thủ điều trị
đái tháo đường, người nghiên cứu trực tiếp
thực hiện GDSK cho người bệnh trong tất
cả các lần GDSK. Các cộng tác viên chỉ hỗ
trợ và thực hiện thu thập số liệu.
Thời điểm thực hiện can thiệp: Sau khi
thu thập số liệu trước can thiệp (T1), nhóm
người bệnh trong buổi khám được mời
sang tư vấn tại phòng quản lý bệnh mạn
tính. Thời lượng trung bình mỗi buổi can
thiệp là 40 phút, trong đó thời gian để người
bệnh đọc tài liệu là 10 phút, thời gian tư vấn
GDSK và giải đáp thắc mắc là 30 phút.
Nội dung GDSK được xây dựng dựa
theo Tài liệu chuyên môn “Hướng dẫn chẩn
đoán và điều trị Đái tháo đường type 2”
ban hành kèm theo Quyết định số 3280/
QĐ-BYT ngày 09 tháng 9 năm 2011, Quyết
định số 3319/QĐ-BYT ngày 19 tháng 7 năm
2017 của Bộ trưởng Bộ Y tế [1], khuyến cáo
của Liên đoàn Đái tháo đường Quốc tế [8].
Phương pháp can thiệp: Hoạt động can
thiệp được thực hiện trực tiếp bằng hình
thức tư vấn GDSK cho từng nhóm nhỏ từ
2 đến 3 người bệnh kết hợp các hình thức
phát vấn, giải thích và minh họa bằng hình
ảnh.
2.7. Công cụ thu thập số liệu và tiêu
chí đánh giá
- Công cụ thu thập số liệu
Phiếu khảo sát được thiết kế sẵn nhằm
thu thập các thông tin chung về người bệnh
tham gia nghiên cứu và đánh giá thực hành
tuân thủ điều trị ĐTĐ type 2.
Thông tin chung về người bệnh bao gồm:
+ Dữ liệu từ hồ sơ bệnh án: Điều tra viên
tham khảo để có thông tin chính xác nhất
về ĐTNC. Gồm 10 câu hỏi về thông tin NB
như mã hồ sơ bệnh án, họ và tên, tuổi, giới
tính, dân tộc, nơi ở, chiều cao, cân nặng,
chỉ số đường máu hiện tại, HbA1c, số năm
được chẩn đoán ĐTĐ, biến chứng ĐTĐ
hoặc các bệnh kèm theo.
+ Thông tin chung về đối tượng tham gia
nghiên cứu: gồm 8 câu hỏi về trình độ học
vấn, công việc hiện tại, tình trạng gia đình,
mong muốn được GDSK.
Đánh giá thực hành tuân thủ điều trị
ĐTĐ type 2 bao gồm:
Các câu hỏi theo 6 lĩnh vực thực hành
54
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
tuân thủ điều trị đái tháo đường type 2
được phát triển dựa trên tài liệu Hướng
dẫn chẩn đoán và điều trị ĐTĐ type 2 [1],
Khuyến cáo của Liên đoàn Đái tháo đường
Quốc tế [8], được thử nghiệm trên 30 người
bệnh không nằm trong mẫu can thiệp, kiểm
định độ tin cậy có hệ số Cronbachs’ alpha
là 0,815.
- Tiêu chí đánh giá
Đánh giá mức độ đạt về thực hành
TTĐT của từng biện pháp khi người bệnh
đạt từ trên 50% tổng số điểm của từng biện
pháp TTĐT gồm: Tuân thủ sử dụng thuốc,
Tuân thủ chế độ ăn, Tuân thủ chế độ luyện
tập, Tuân thủ không hút thuốc và hạn chế
rượu bia, và Tuân thủ tái khám định kỳ.
Tổng điểm tất cả các nội dung thực hành là
20 điểm. Người bệnh được đánh giá thực
hành TTĐT đạt: 1 chế độ, 2 chế độ, 3 chế
độ, 4 chế độ, 5 chế độ và đầy đủ 6 chế độ.
2.8. Phương pháp phân tích số liệu
Số liệu được nhập và phân tích trên
phần mềm SPSS 20.0, sử dụng các thống
kê phi tham số gồm tỷ lệ % và giá trị trung
bình để so sánh sự khác biệt trước và sau
can thiệp.
2.9. Vấn đề đạo đức
Đề tài nghiên cứu được thông qua bởi
Hội đồng khoa học, Hội đồng đạo đức
nghiên cứu Trường Đại học Điều dưỡng
Nam Định. Việc triển khai các hoạt động
can thiệp giáo dục, đánh giá kết quả trước
và sau can thiệp được sự đồng ý của Bệnh
viện Nội tiết tỉnh Sơn La và sự đồng thuận
của đối tượng nghiên cứu. Các thông tin có
thể nhận diện cá nhân người bệnh được
giữ bí mật, các kết quả đánh tuân thủ điều
trị của người bệnh chỉ phục vụ cho mục
đích khoa học.
3. KẾT QUẢ
3.1. Thông tin chung về người bệnh
tham gia nghiên cứu
Trong số 100 người bệnh đái tháo
đường type 2 tham gia nghiên cứu, 49%
người bệnh là nam.Tuổi trung bình của
người bệnh trong nghiên cứu là 57,95 ±
11,36 tuổi. Người bệnh thuộc 3 dân tộc
Thái, Kinh và Mông theo thứ tự là 51%,
45% và 4%. Có 41% người bệnh sinh sống
tại các khu vực thuộc thành thị, số còn lại
thuộc khu vực nông thôn ở các huyện trên
địa bàn tỉnh Sơn La.Có 31% người bệnh đã
học xong trung học cơ sở.
Thời gian mắc bệnh trung bình của đối
tượng nghiên cứu là 6,4 ± 4,69 năm, trong
đó lâu nhất là 20 năm, mới nhất là 1 năm
và phổ biến là từ 2 đến 5 năm. Phần lớn
người bệnh (70%) có chỉ số đường máu >
7,0 mmol/L.
Tất cả người bệnh tham gia nghiên cứu
đều cho biết đã từng được bác sĩ nhắc
nhở về TTĐT đái tháo đường type 2 trong
những lần khám trước. Tuy nhiên, khi được
hỏi 100% người bệnh đều trả lời mong
muốn được hướng dẫn cụ thể về TTĐT.
3.2. Kết quả nghiên cứu về thực hành
tuân thủ điều trị đái tháo đường type 2
Tổng hợp kết quả nghiên cứu có so
sánh trước - sau được biểu đạt qua các
điểm trung bình thực hành mà người bệnh
đạt được, tỷ lệ người bệnh tuân thủ các chế
độ thuộc tuân thủ điều trị tại các thời điểm
đánh giá và được thể hiện qua Bảng 1 và
2 dưới đây.
Bảng 3.1: Kết quả chung tuân thủ điều
trị dựa trên điểm thực hành (n=100)
Thời điểm
đánh giá
Điểm thực hành p
(t-test) Min Max
Mean ±
SD
Trước can
thiệp (T1) 7 18
11,76 ±
2,69
Sau can
thiệp 1
tháng (T2)
8 20
15,20 ±
2,85
p2-1 <
0,001
Sau can
thiệp 3
tháng (T3)
8 20
14,48 ±
3,27
p3-1 <
0,001
Trước can thiệp, thực hành tuân thủ
điều trị đái tháo đường type 2 của người
55
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
bệnh đạt 11,76 ± 2,69 điểm trên tổng 20
điểm của thang đo thực hành.
Sau can thiệp 1 tháng, điểm thực hành
tuân thủ điều trị của người bệnh tăng lên
đáng kể đạt 15,20 ± 2,85 điểm và còn duy
trì ở 14,48 ± 3,27 điểm sau can thiệp 3
tháng so với trước can thiệp, sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.
Bảng 3.2: Kết quả thực hành tuân
thủ điều trị theo 6 nội dung (n=100)
Nội dung thực hành
Người bệnh
thực hành đạt
T1
%
T2
%
T3
%
1. Tuân thủ sử dụng
thuốc điều trị đái
tháo đường
69,0 88,0 84,0
2. Tuân thủ chế độ ăn
trong bệnh đái tháo
đường
58,0 89,0 75,0
3. Tuân thủ bỏ hút
thuốc, hạn chế
uống rượu, bia
64,0 83,0 81,0
4. Tuân thủ chế độ
hoạt động thể lực
49,0 75,0 68,0
5. Tuân thủ tự theo
dõi đường máu
16,0 49,0 43,0
6. Tuân thủ tái khám
định kỳ
82,0 100,0 99,0
• Tuân thủ đạt cả 6
nội dung
05,0 28,0 26,0
Tỷ lệ người bệnh đạt thực hành tuân thủ
điều trị đạt ở tất cả các nội dung tại các thời
điểm sau can thiệp giáo dục đều cao hơn
so với trước can thiệp. Tỷ lệ người bệnh
thực hành tuân thủ đạt cả 6 nội dung tăng
lên 28% sau can thiệp 1 tháng và duy trì ở
26% sau can thiệp 3 tháng sơ với 5% trước
can thiệp.
Một số kết quả cụ thể về tự theo dõi
đường máu và một số chỉ số liên quan
đến kiểm soát đường máu của người bệnh
được thể hiện trong các Bảng 3.3 & 3.4 và
các Biểu đồ 3.1 & 3.2 dưới đây.
Bảng 3.3: Kết quả thực hành tự theo
dõi đường máu (n=100)
Mức độ thực hiện
tự theo dõi đường
máu của bản thân
tại nhà
Người bệnh đã
thực hiện
T1 % T2 % T3 %
Thường xuyên thực
hiện 02,0 21,0 11,0
Thỉnh thoảng thực
hiện 16,0 28,0 32,0
Hiếm khi thực hiện 18,0 03,0 9,0
Không thực hiện 64,0 48,0 48,0
Ghi kết quả vào sổ
theo dõi 24,0 52,0 52,0
Tỷ lệ người bệnh tăng tần suất thực hiện
tự theo dõi đường máu của bản thân sau
can thiệp cao hơn so với trước can thiệp.
Trong đó, đặc biệt tỷ lệ người bệnh thực
hiện ghi kết quả đường máu tự đo vào sổ
theo dõi cao hơn gấp đôi ở các thời điểm
sau can thiệp so với trước can thiệp.
Bảng 3.4: Chỉ số glucose máu lúc đói
của người bệnh trước và
sau can thiệp (n=100)
Chỉ số đường
máu lúc đói
Người bệnh đạt
T1 % T2 % T3 %
Tốt
(< 6,1 mmol/L) 21,0 48,0 38,0
Chấp nhận
(6,2 – 7,0
mmol/L)
09,0 13,0 20,0
Kém
(> 7,0 mmol/L) 70,0 39,0 42,0
Mean ± SD
[Min – Max]
8,24 ±
2,16
[3,94 –
14,65]
6,55 ±
1,71
[3,72 –
14,39]
7,17 ±
2,06
[4,00 –
13,74]
p (t-test)
p2-1 <
0,001
p3-1 <
0,001
56
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
Tỷ lệ người bệnh có kết quả xét nghiệm
đường máu ở mức tốt tăng lên tại các thời
điểm sau can thiệp so với trước can thiệp.
Giá trị trung bình mức đường máu của
người bệnh tham gia nghiên cứu sau can
thiệp 1 tháng và sau can thiệp 3 tháng lần
lượt là 6,55 ± 1,71 mmol/L và 7,17 ± 2,06
mmol/L giảm có ý nghĩa thống kê so với
mức đường máu 8,24 ± 2,16 mmol/L trước
can thiệp (p < 0,001).
Biểu đồ 3.1: Chỉ số HbA1c của người
bệnh sau can thiệp 3 tháng (n=100)
Mặc dù không ghi nhận được kết quả
xét nghiệm HbA1c trước can thiệp, sau can
thiệp 3 tháng tất cả người bệnh tham gia
nghiên cứu được xét nghiệm HbA1c với tỷ
lệ người bệnh theo mức HbA1c được thể
hiện ở Biểu đồ 1 với 26% người bệnh có
HbA1c ở mức tốt (≤ 6,5%).
26%
46%
28%
0
10
20
30
40
50
HbA1c TỐT (≤ 6,5%) HbA1c CHẤP NHẬN
(> 6,5% – ≤ 7,5%)
HbA1c KÉM (> 7,5%)
23.0% 24.0%
26.0%
35.0%
36.0%
41.0%42.0%
40.0%
33.0%
0
10
20
30
40
50
T1 T2 T3
Bình thường (18,0 - 22,9) Thừa cân (23,0 - 24,0) Béo phì (> 25,0)
Biểu đồ 3.2: Chỉ số BMI của người
bệnh trước và sau can thiệp (n=100)
Tại các thời điểm sau can thiệp 1 tháng
và 3 tháng, tỷ lệ người bệnh tham gia nghiên
cứu có chỉ số khối cơ thể (BMI) trong giới
hạn bình thường tăng lên từ 23% tăng lên
26% và tỷ lệ người bệnh có BMI mức béo
phì giảm đi từ 42% xuống 33%.
4. BÀN LUẬN
Như đã đề cập, đái tháo đường là bệnh
lý phổ biến trên thế giới [8] cũng như tại
Việt Nam [4], được coi là gánh nặng y tế
toàn cầu, việc điều trị đòi hỏi lâu dài và tuân
thủ tốt chế độ điều trị của người bệnh giữ
vai trò quan trọng trong kiểm soát đường
máu, hạn chế các biến chứng và tử vong
[1]. Song kết quả nghiên cứu cho thấy thực
hành tuân thủ điều trị của người bệnh còn
nhiều hạn chế với điểm trung bình tuân
thủ đạt 11,76 ± 2,69 điểm trên tổng số 20
điểm của thang đo, thậm chí có người
bệnh chỉ đạt 7 trên 20 điểm (Bảng 3.1). Kết
quả nghiên cứu cũng phản ánh thực trạng
chung về tuân thủ điều trị thấp đã được ghi
nhận trong các nghiên cứu [10]. Sau can
thiệp, mặc dù không một nghiên cứu sử
dụng thang đo; cách tính điểm hoặc can
thiệp giáo dục tương tự để so sánh, song
can thiệp giáo dục đã áp dụng trong nghiên
cứu đã cho thấy có sự cải thiện tích cực với
tăng điểm trung bình thực hành của cả mẫu
ngiên cứu lên 15,20 ± 2,85 điểm và ở thời
điểm 3 tháng sau can thiệp còn duy trì với
14,48 ± 3,27 điểm. Mức chênh điểm so với
trước can thiệp tuy không quá lớn song sự
khác biệt về cải thiện điểm sau can thiệp so
với trước can thiệp có ý nghĩa thống kê với
p < 0,001.
Tuân thủ trong điều trị đái tháo đường
là một tiếp cận đa chiều, người bệnh cần
phải tuân thủ đầy đủ các nội dung, cùng
với tuân thủ sử dụng thuốc, người bệnh
cần tuân thủ các yêu cầu về chế độ ăn,
hạn chế đồ uống có cồn, không hút thuốc,
57
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
chế độ tập thể dục và tự theo dõi đường
máu [6]. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
tỷ lệ người bệnh đạt tuân thủ điều trị theo
6 nội dung được khuyến cáo trước can
thiệp khá thấp, chỉ có 5 trên tổng số 100
người bệnh tham gia nghiên cứu tuân thủ
cả 6 nội dung và sau can thiệp 1 tháng đã
có thêm 23 người tuân thủ cả 6 nội dung
nâng tổng số lên 28 người và còn duy trì
ở 26 người sau khi kết thúc can thiệp 3
tháng (Bảng 3.2). Đây là những con số
có ý nghĩa thực tiễn lâm sàng khi có thêm
một người bệnh tuân thủ điều trị cũng có
nghĩa có thêm cơ hội để người đó hạn
chế nguy cơ bị các biến chứng nguy hiểm
của bệnh đái tháo đường. Việc tự theo dõi
đường máu tại nhà phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ
người bệnh tự theo dõi đường máu tại
nhà trong nghiên cứu của chúng tôi khá
thấp chỉ có 16,0% người bệnh thực hiện
so với 42,2% trong một nghiên cứu mô tả
trên 102 người bệnh tại Bồ Đào Nha của
Carlos năm 2015 [6]. Và so với 26,1%
trong nghiên cứu mô tả của Lê Thị Nhật
Lệ năm 2017 trên 257 người bệnh ĐTĐ
type 2 tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương
[3]. Có nhiều lý do khiến cho tỷ lệ người
bệnh tự theo dõi đường máu tại nhà trong
nghiên cứu của chúng tôi không cao, có
lẽ điều kiện kinh tế của người bệnh sinh
sống tại một tỉnh miền núi là một trong
những lý do. Tại các thời điểm đánh giá
lại sau can thiệp, tỷ lệ người bệnh thực
hiện tự theo dõi đường máu với mức độ
thường xuyên hơn cũng như ghi kết quả
vào sổ theo dõi tăng lên đáng kể, đây là
những thay đổi hành vi có giá trị góp phần
chứng minh cho việc mặc dù có thể hạn
chế về điều kiện sống, nhưng khi đã nhận
thức được tầm quan trọng của hành vi có
lợi cho sức khoẻ, người bệnh có thể khắc
phục được những khó khăn về điều kiện.
Tình trạng tăng đường huyết kéo dài
làm gia tăng sự phát triển biến chứng
mạch máu nhỏ, gây tổn thương bệnh lý
bao gồm bệnh võng mạc, bệnh thận và
bệnh thần kinh [6]. Trước can thiệp, giá trị
trung bình chỉ số đường máu của người
bệnh tham gia nghiên cứu là 8,24 ± 2,16
mmol/L, sau can thiệp 1 tháng và 3 tháng
các giá trị trung bình chỉ số đường máu
của người bệnh tham gia nghiên cứu lần
lượt là 6,55 ± 1,71 mmol/L và 7,17 ± 2,06
mmol/L, giảm có ý nghĩa thông kê so với chỉ
số này trước can thiệp (p < 0,001). HBA1c
được xem là tiêu chuẩn vàng cho kiểm soát
đường máu trong khoảng 3 tháng [9]. Do
điều kiện của một tỉnh miền núi, trước can
thiệp nhóm nghiên cứu không ghi nhận
được kết quả xét nghiệm HbA1c của người
bệnh. Khi thực hiện nghiên cứu này, đề
nghị xét nghiệm HbA1c cho người bệnh ở
thời điểm sau can thiệp 3 tháng được chấp
thuận và kết quả được trình bày ở Biểu đồ
3.1 cho thấy 26% và 46% người bệnh có
HbA1c ở mức tốt (≤ 6,5%) và mức chấp
nhận (> 6,5% - ≤ 7,5%) kết hợp với tỷ lệ
người bệnh có chỉ số đường máu lúc đói ở
mức tốt (< 6,1 mmol/L) và chấp nhận được
(6,2 – 7,0 mmol/L) lần lượt là 38% và 20%
tại thời điểm 3 tháng sau can thiệp (Bảng
3.4) góp phần chứng minh thêm can thiệp
giáo dục đã có tác động tích cực đến tuân
thủ điều trị của người bệnh. Chỉ số khối cơ
thể (BMI), một chỉ số có liên quan thuận
với mức đường máu [5], thay đổi về BMI
giúp phản ánh liệu người bệnh có thực sự
thực hiện chế độ ăn uống cũng như hoạt
động thể lực hợp lý, góp phần kiểm soát
bệnh tháo đường type 2. Kết quả ở Biểu
đồ 3.2 cho thấy xu hướng người bệnh có
BMI trong giới hạn bình thường tăng lên và
tỷ lệ người bệnh có BMI mức béo phì giảm
đi sau can thiệp, phản ánh khách quan việc
người bệnh đã thực sự tuân thủ kiểm soát
58
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
cân nặng của mình thông qua tuân thủ chế
độ ăn uống và hoạt động thể lực hợp lý hơn.
Mặc dù thực hành tuân thủ điều trị của
người bệnh đái tháo đường type 2 sau can
thiệp có sự cải thiện rõ rệt và có ý nghĩa
thống kê so với trước can thiệp. Song mức
độ cải thiện chưa phải là lý tưởng sau 1
tháng và có sự suy giảm nhẹ sau 3 tháng
một lần nữa cho thấy thay đổi hành vi là
không dễ dàng và sự cần thiết phải thường
xuyên tư vấn giáo dục cho người bệnh.
5. KẾT LUẬN
Thực hành tuân thủ điều trị đái tháo
đường type 2 của người bệnh tham gia
nghiên cứu còn hạn chế và đã có những
thay đổi tích cực sau khi tham gia chương
trình trình giáo dục sức khoẻ của nghiên
cứu. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy
can thiệp giáo dục nhằm tăng cường tuân
thủ điều trị cho người bệnh đái tháo đường
cần được thực hiện thường xuyên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2011). Tài liệu chuyên môn
hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh đái
tháo đường type 2. Quyết định số 3280/
QĐ-BYT ngày 09/9/2011 của Bộ trưởng Bộ
Y tế.
2. Bộ Y tế (2011b). Hướng dẫn công tác
điều dưỡng về chăm sóc người bệnh trong
bệnh viện. Thông tư 07/2011/TT-BYT ngày
26/11/2011 của Bộ Y tế.
3. Lê Thị Nhật Lệ (2017). Tuân thủ điều
trị và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân đái
tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại bệnh
viện Nguyễn Tri Phương năm 2017. Tạp
chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 22(1), tr.88-93.
4. Lê Văn Trụ, Đỗ Trung Thành, Nguyễn
Vinh Quang và các cộng sự (2012). Thực
trạng đái tháo đường và rối loạn dung nạp
glucose máu tại 6 vùng sinh thái của Việt
Nam năm 2012. Tạp chí Y học thực hành,
1013, tr.104-107.
5. Agrawal et al (2017). Correlation
between Body Mass Index and Blood
Glucose Levels in Jharkhand Population.
International Journal of Contemporary
Medical Research. Volume 4 | Issue 8:
p.1633-1636
6. Carlos A., Carla C., and Manuela
F. (2015). Adherence to the therapeutic
regime in person with type 2 diabetes.
Procedia - Social and Behavioral Sciences,
171: p.350-358
7. Carlos Campos (2015). Chronic
Hyperglycemia and Glucose Toxicity:
Pathology and Clinical Sequelae. Journal
of Posgraduate Medicine. Published online:
13 Mar 2015. Pages 90-97. 2018 Impact
Factor 2.237 https://doi.org/10.3810/
pgm.2012.11.2615
8. Cho NH., Shaw JE., Karuranga S et al
(2018). IDF Diabetes Atlas: Global estimates of
diabetes prevalence for 2017 and projections
for 2045. Diabetes Res Clin Pract, 138, p.271-
281.
9. Klonoff DC (2005). Continuous
glucose monitoring: roadmap for 21st
century diabetes therapy. Diabetes Care.
2005; 28: p.1231-1239.
10. Smita S., Mayur J., Sonali P., et
al (2015), “Evaluation of Adherence to
Therapy in Patients of Type 2 Diabetes
Mellitus”, Journal of Young Pharmacists
7(4), p.462-469
Các file đính kèm theo tài liệu này:
thay_doi_thuc_hanh_tuan_thu_dieu_tri_cua_nguoi_benh_dai_thao.pdf