- Cách hiểu về việc thế chấp quyền tài sản phát
sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hiện đang được
hiểu và thực hiện một cách đại trà mà không có
sự xem xét, tính toán chi tiết đến nội dung của
từng bản hợp đồng mua bán đó được ghi nhận ra
sao để thiết lập bản hợp đồng thế chấp cho phù
hợp. Việc này chỉ có thể khắc phục khi có sự tham
gia của những người có sự am hiểu về mặt pháp lý
mới có thể góp phần hạn chế các rủi ro.
- Các quy phạm pháp luật hiện tại, tuy có thừa
nhận nhưng không rõ ràng giữa thế chấp tài sản
hình thành trong tương lai và thế chấp quyền tài
sản phát sinh từ hợp đồng mà hiện đang xây dựng
nguyên tắc có tính chất kế thừa giữa hai loại hợp
đồng này khi thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm
và xác lập quyền ưu tiên thanh toán. Tuy nhiên, cần
phải thấy rằng, cho dù dưới hình thức nào thì vẫn
chỉ tồn tại một tài sản mà chính các bên hướng tới,
do vậy hình thức thế chấp tài sản hình thành trong
tương lai cần chú trọng nhiều hơn, ở hình thức này
thì sẽ chỉ tồn tại duy nhất một tài sản mà chính các
bên đang hướng tới.
- Nếu thừa nhận việc thế chấp quyền tài sản
phát sinh từ hợp đồng, thì cần có một cơ chế để
phong tỏa toàn bộ các giao dịch có liên quan tới
bản hợp đồng này, mặc dù việc này có thể cứng
nhắc, nhưng lại là cần thiết cho hiện tại và đảm
bảo ổn định cho tương lai sau này.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 278 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở - Pháp luật và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
46
THẾ CHẤP QUYỀN TÀI SẢN PHÁT SINH TỪ HỢP ĐỒNG
MUA BÁN NHÀ Ở - PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN
Nguyễn Hoài Thanh1
Phạm Thị Thúy Hồng2
Tóm tắt: Thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở là một trong những hợp
đồng bảo đảm hiện đang gây ra nhiều quan điểm trái chiều, kể cả trong giới học thuật cũng như
trong giới hành nghề công chứng, luật sư, pháp chế các ngân hàng. Tuy nhiên, các tổ chức tín dụng
cũng có những đánh giá và những lý do nhất định để lựa chọn loại hợp đồng này trong hoạt động
cấp tín dụng. Mà điển hình chính là việc các tổ chức tín dụng có thể thực hiện đăng ký giao dịch bảo
đảm rất thuận lợi, nhanh chóng, nhằm giành được và có được quyền ưu tiên thanh toán trước tiên
từ tài sản. Tuy nhiên, về phương diện pháp lý thì dạng hợp đồng này còn nhiều vấn đề phát sinh mà
chưa có câu trả lời thỏa đáng. Bài viết nghiên cứu, trao đổi trên cả phương diện pháp lý và thực tiễn
về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở.
Từ khóa: Thế chấp, quyền tài sản, hợp đồng mua bán nhà ở, Bộ luật dân sự.
Nhận bài: 10/05/2018; Hoàn thành biên tập: 13/06/2018; Duyệt đăng: 24/07/2018
Summary: Mortgage of property rights arising from sale contracts of houses is one of secured
contracts that face controversial views, including those views from the academic, notary, lawyer
practicing sectors as well as legal departments of banks. However, credit institutions have certain
assessments and reasons to choose this type of contract in their credit granting activities. One of the
typical reasons is that credit institutions can register their secured transactions in a convenient,
quick manner in order to obtain and enjoy the right to priority of payment from property. From the
legal aspect, there are still many issues arising from this type of contract that not yet have satisfied
answers. This study shall discuss from both legal and practical aspects of mortgage of property
rights arising from sale contracts of houses.
Key words: Mortgage, property rights, sale contracts of houses, Civil Code.
Date of receipt: 10/05/2018; Date of revision: 13/06/2018; Date of approval: 24/07/2018
1. Quy định của pháp luật về thế chấp
quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán
nhà ở
Có thể thấy rằng, có rất nhiều văn bản pháp
luật điều chỉnh, ghi nhận vấn đề này như: Bộ luật
dân sự năm 2015 (Các Bộ luật dân sự trước cũng
có ghi nhận vấn đề bảo đảm bằng quyền tài sản);
Luật Nhà ở năm 2014; Nghị định 99/2015/NĐ-
CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Nhà ở và các thông tư hướng dẫn của Bộ Tư
pháp, Ngân hàng nhà nước, Bộ xây dựng.... Nhìn
chung, nội dung của các văn bản này còn gây
nhiều tranh cãi do quy định chưa rõ ràng, thiếu
thống nhất, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau.
Cụ thể:
Khoản 8 Điều 81 Nghị định số 99/2015/NĐ-
CP quy định:
“Kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi
hành, việc thế chấp dự án đầu tư xây dựng nhà
ở, nhà ở hình thành trong tương lai, thế chấp
quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán,
thuê mua nhà ở, hợp đồng chuyển nhượng dự án
và các quyền tài sản khác liên quan đến nhà ở,
dự án đầu tư xây dựng nhà ở thuộc diện được thế
chấp theo quy định của pháp luật phải thực hiện
1 Công chứng viên, Văn phòng công chứng Hà Thành.
2 Thạc sỹ, Phó Trưởng khoa, phụ trách Khoa Đào tạo công chứng viên và các chức danh tư pháp khác, Học viện
Tư pháp
Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
47
theo quy định của Luật Nhà ở và Nghị định này;
các trường hợp thế chấp dự án đầu tư xây dựng
nhà ở, nhà ở hình thành trong tương lai và các
quyền tài sản liên quan đến nhà ở, dự án đầu tư
xây dựng nhà ở quy định tại khoản này không
đúng với quy định của Luật Nhà ở và Nghị định
này thì không có giá trị pháp lý và không được
pháp luật công nhận.
Việc đăng ký thế chấp dự án đầu tư xây
dựng nhà ở, nhà ở hình thành trong tương lai và
các quyền tài sản liên quan đến nhà ở, dự án
đầu tư xây dựng nhà ở quy định tại khoản này
được thực hiện theo quy định của pháp luật về
đăng ký giao dịch bảo đảm; việc xử lý các tài
sản thế chấp quy định tại Khoản này được thực
hiện theo quy định của pháp luật về dân sự và
pháp luật có liên quan”.
Tại khoản 2 Điều 1 Thông tư số 26/2015/TT-
NHNN ngày 09/12/2015 của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam hướng dẫn trình tự, thủ tục thế
chấp và giải chấp tài sản là dự án đầu tư xây dựng
nhà ở, nhà ở hình thành trong tương lai cũng quy
định: “Việc thế chấp quyền tài sản phát sinh
từ hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở, hợp đồng
chuyển nhượng dự án và các quyền tài sản khác
liên quan đến nhà ở hình thành trong tương lai,
dự án đầu tư xây dựng nhà ở thuộc diện được thế
chấp theo quy định của pháp luật phải được thực
hiện theo quy định của Luật nhà ở, Nghị định số
99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Nhà ở và các quy định pháp luật
có liên quan”.
Tuy nhiên, qua rà soát cho thấy, trong Luật nhà
ở năm 2014 và Nghị định số 99/2015/NĐ-CP mới
chỉ nhắc đến việc thế chấp quyền tài sản liên quan
đến nhà ở mà không hề có quy phạm nào quy định
hay hướng dẫn việc thế chấp quyền tài sản phát
sinh từ Hợp đồng mua bán nhà ở, dự án đầu tư xây
dựng nhà ở. Còn các quy định pháp luật có liên
quan thì có Thông tư 05/2011/TT-BTP ngày
16/02/2011 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số vấn
đề về đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo
đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên tài sản thi
hành án theo phương thức trực tiếp, bưu điện, fax,
thư điện tử tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài
sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm
thuộc Bộ Tư pháp và Thông tư số 22/2010/TT-
BTP ngày 06/12/2010 của Bộ Tư pháp hướng dẫn
về đăng ký, cung cấp thông tin trực tuyến giao
dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên
tài sản thi hành án là các văn bản pháp luật đăng
ký giao dịch bảo đảm đang điều chỉnh việc đăng
ký thế chấp quyền tài sản phát sinh từ Hợp đồng
mua bán nhà ở, dự án đầu tư xây dựng nhà ở (hai
Thông tư này đều được sửa đổi bổ sung bởi
Thông tư số 08/2014/TT-BTP và Thông tư số
11/2015/TT-BTP).
2. Thực tiễn thực hiện, vướng mắc, quan
điểm tiếp cận về thế chấp quyền tài sản phát
sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở
Theo các văn bản pháp luật liệt kê ở trên thì
có rất nhiều quan điểm cho rằng cuối năm 2015
và đầu năm 2016, pháp luật đã gián tiếp không
công nhận việc “thế chấp quyền tài sản phát sinh
từ hợp đồng mua bán nhà ở” mà chỉ công nhận
việc thế chấp “nhà ở hình thành trong tương
lai”. Bởi hình thức thế chấp “quyền tài sản”
chưa được hướng dẫn cụ thể nên nhiều ngân
hàng lúng túng, không tiếp tục nhận thế chấp loại
tài sản này. Luật sư Lê Trọng Dũng, Trưởng
phòng Pháp chế Vietcombank, đã chỉ ra hàng loạt
rủi ro mà các ngân hàng có thể gặp phải. Ông cho
hay: “Hiện việc đăng ký giao dịch này thực hiện
dưới hình thức là quyền tài sản phát sinh từ hợp
đồng mua bán nhà ở (như quyền được mua tiếp,
quyền nhận lại tiền, quyền nhận bồi thường và
tái định cư). Nhưng nếu hợp đồng mua bán bị
chấm dứt vì nhiều lý do thì các quyền tài sản đi
kèm cũng bị chấm dứt theo, khi đó ngân hàng
không có cơ sở để xử lý thu hồi nợ”3.
Tuy nhiên, ngày 23/02/2016, Bộ Tư pháp đã
có công văn số 475/BTP-ĐKGDBĐ trả lời các
ngân hàng về việc đăng ký giao dịch bảo đảm
bằng quyền tài sản, nhà ở hình thành trong tương
lai. Theo Công văn trả lời này thì các ngân hàng
được phép nhận thế chấp bằng quyền tài sản phát
sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở: “....Căn cứ vào
các quy định nêu trên, Bộ Tư pháp cho rằng, việc
tổ chức, cá nhân ký kết hợp đồng thế chấp quyền
3 Cẩm Tú, “Thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai: Đầy rủi ro!” Pháp luật TPHCM - 14/4/2014.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
48
tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán, thuê mua
nhà ở, hợp đồng chuyển nhượng dự án và các
quyền tài sản khác liên quan đến nhà ở, dự án
đầu tư xây dựng nhà ở là phù hợp quy định của
pháp luật dân sự. Hiện nay, các Trung tâm Đăng
ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia
giao dịch bảo đảm, Bộ Tư pháp vẫn đang thực
hiện việc đăng ký giao dịch bảo đảm đối với loại
tài sản nêu trên...”.
Ngày 23/6/2016 Bộ Tư pháp và Bộ Tài
nguyên & Môi Trường đã ban hành Thông tư liên
tịch số 09/2016/TTLT-BTP-BTNMT hướng dẫn
việc đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản
gắn liền với đất. Trong đó có đề cập đến việc
chuyển tiếp đăng ký thế chấp đối với các hợp
đồng thế chấp quyền tài sản phát sinh từ Hợp
đồng mua bán nhà ở, dự án phát triển nhà ở. Như
vậy, sau nhiều tranh luận thì vẫn thừa nhận và
chấp thuận cho dạng hợp đồng thế chấp quyền
tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở.
Tuy nhiên, xin được đưa ra một số phân tích
sau đây:
Thứ nhất, hợp đồng mua bán nhà ở, nội dung
căn bản của nó và quyền tài sản phát sinh từ Hợp
đồng mua bán nhà ở có thể được coi là tài sản.
Hợp đồng mua bán nhà ở phải tuân thủ và
đảm bảo các nội dung của một Hợp đồng mua
bán tài sản thông thường (theo quy định tại mục
I, chương XVI của BLDS năm 2015 (trước là
phần 2, mục 1, chương XVIII của BLDS năm
2005), cũng như đảm bảo các yêu cầu của điều
121; Mục 2, chương VIII Luật nhà ở năm 2014
và theo các điều khoản này cũng như các văn bản
hướng dẫn thì Hợp đồng mua bán nhà ở (đúng
cho cả trường hợp nhà độc lập tức là bao gồm cả
quyền sử dụng đất) thì Hợp đồng mua bán nhà ở
luôn là một hợp đồng song vụ mà ở đó, mỗi bên
đều có quyền và nghĩa vụ của mình đối với bên
kia (Điều 402 BLDS năm 2015) và theo đó, khi
các bên thực hiện Hợp đồng song vụ này được
hưởng mọi quyền và chịu mọi nghĩa vụ trước tiên
là thỏa thuận và thứ nữa là giới hạn mà pháp luật
cho phép (tiểu mục 2, Mục 7 BLDS). Về cơ bản,
các bản hợp đồng mua bán nhà ở đều thể hiện nội
dung chính và rõ nhất đó là: tài sản mua bán là gì,
giá trị, lịch trình thanh toán. Tuy nhiên, bên cạnh
đó còn nhiều quyền và nghĩa vụ khác các bên
phải thực hiện với nhau và nó có thể bị điều
chỉnh, sửa đổi, bổ sung, chấm dứt hoặc hủy bỏ,
trong đó đặc biệt là việc chấm dứt mà không phụ
thuộc ý chí của các bên.
Vậy quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng có
thể bao gồm những quyền nào: quyền được nhận
tài sản, quyền được trả lại tiền khi có vi phạm hợp
đồng hoặc chấm dứt hợp đồng theo thỏa thuận,
quyền khởi kiện để yêu cầu thực hiện đúng nội
dung hợp đồng, quyền được nhận tiền bồi
thường......, có thể có rất nhiều quyền năng mà
người mua nhà có được từ bản hợp đồng mua bán
nhà ở theo luật định, theo thỏa thuận giữa các bên
được xác lập. Tuy nhiên, như đã nêu tất cả các
quyền này được đặt trong một bản hợp đồng song
vụ, quyền của bên này là nghĩa vụ đối với bên kia
và ngược lại và luôn luôn song hành cùng nhau
mà không tồn tại quyền một cách độc lập. Ví dụ:
- Trường hợp tại thời điểm ký hợp đồng,
người mua thỏa thuận thanh toán tiền một lần
cho người bán, mặc dù tài sản mới đang được
xây dựng và chờ đợi được bàn giao nhà trong
tương lai (đã bị hạn chế bởi Luật nhà ở năm 2014
và luật kinh doanh bất động sản năm 2014). Như
vậy, mặc dù là hợp đồng song vụ, nhưng tại thời
điểm người mua đã thanh toán đủ tiền một lần
thì chúng ta thấy rằng, nghĩa vụ bàn giao và
chuyển quyền sở hữu tài sản thuộc về bên bán,
bên mua có chăng chỉ còn nghĩa vụ nhận nhà.
Trong trường hợp này thì người mua đang nắm
trong tay một quyền rất lớn là nhận bàn giao nhà
hoặc có thể trở thành quyền yêu cầu hoàn trả tiền
trong trường hợp bên bán không thể bàn giao nhà
đúng tiến độ (“quyền đòi nợ”). Tuy nhiên, quyền
yêu cầu bàn giao và chuyển quyền sở hữu nhà
hoàn toàn tách biệt với tài sản (đối tượng của hợp
đồng). Mặt khác, người bán có quyền sở hữu tài
sản là nhà ở cho đến khi bàn giao cho người mua.
- Trường hợp tại thời điểm ký hợp đồng, bên
bán đã có nhà hoàn thiện, và ký hợp đồng bán
cho người mua. Ở tình huống này có thể phát
sinh rất nhiều những trường hợp có thể xảy ra:
Bán có bảo lưu quyền sở hữu (theo Luật nhà ở
2014), bán trả chậm, trả góp, trả dần hoặc bán
lấy tiền một lần hoặc trả tiền nhiều lần và chuyển
Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
49
giao quyền sở hữu cho người mua (riêng đối với
bán có bảo lưu quyền sở hữu, cầm giữ tài sản
được coi là biện pháp bảo đảm theo BLDS năm
2015). Tùy từng trường hợp mà các thỏa thuận sẽ
rất khác biệt nhưng các hợp đồng trên vẫn là
những hợp đồng song vụ. Ở trường hợp này
khoản tiền đã nộp có được coi là quyền tài sản
của bên mua hay không? Điều này khó có thể
khẳng định, vì nó hoàn toàn phụ thuộc vào việc
bàn giao tài sản. Nếu bên bán bàn giao tài sản
ngay thì ngược lại, chính người mua trở thành
người có nghĩa vụ phải thanh toán tiếp, nói cách
khác thì người bán đang là người có quyền đòi
nợ đối với người mua.
- Trường hợp mua bán nhà trong tương lai -
đây là trường hợp sẽ gặp khá phổ biến trong thực
tế bởi việc mua bán bằng con đường này có vẻ
đảm bảo an toàn cho cả hai bên mua bán cũng
như phù hợp với tình hình tài chính, triển khai
thực hiện trên thực tế cho cả bên mua và bên bán.
Các hợp đồng này thường có một khoảng thời
gian rất dài để các bên thực thi quyền và nghĩa vụ
của cả hai bên đan xen chặt chẽ, ràng buộc lẫn
nhau một cách rõ ràng, chi tiết. Tại thời điểm ký
hợp đồng mua bán, bên mua mới chỉ thanh toán
một phần giá trị tài sản sẽ được hình thành trong
tương lai cho người bán, và bên bán có nghĩa vụ
hoàn thành việc tạo dựng tài sản bán theo thỏa
thuận trong hợp đồng bán tài sản hình thành
trong tương lai. Trường hợp này, người mua sẽ
có các quyền yêu cầu đối với chủ đầu tư về việc
cam kết thực hiện tiến độ, bảo đảm dự án được
hoàn thiện theo đúng công bố, quyền đòi lại tài
sản đã giao nếu có thỏa thuận về việc bên bán có
sự vi phạm hợp đồng mua bán đã ký, bên bán vi
phạm các quy định của pháp luật dẫn tới việc tiếp
tục thực hiện dự án bị dừng, bên bán có sự sáp
nhập, giải thể, phá sản, có sự chuyển giao quyền
sở hữu hoặc quyền thực hiện dự án cho các đối
tác khác. Trong giai đoạn từ khi thanh toán tiền
lần thứ nhất cho đến trước khi thanh toán khoản
tiền cuối cùng, cả bên mua và bên bán đều có
quyền và nghĩa vụ tương xứng với nhau, theo đó
một nguyên tắc là càng thanh toán nhiều tiền thì
tài sản càng được thể hiện một cách rõ ràng hơn
trên thực tế. Nhưng không phải lúc nào cũng
đúng như vậy, có thể xảy ra nhiều khả năng mà
chính cả bên bán, bên mua đều có thể bị vi phạm
hợp đồng mua bán đã ký. Vấn đề chính là ở chỗ,
nếu người mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán thì
người bán là người có quyền yêu cầu, nếu người
bán vi phạm nghĩa vụ thì người mua là người có
quyền yêu cầu, nhưng bên nhận bảo đảm lại chỉ
phát sinh và có quyền yêu cầu khi người có nghĩa
vụ vi phạm nghĩa vụ đối với mình, mặt khác nếu
xét trong tổng thể thì về nguyên tắc, hợp đồng
mua bán thường có thời hạn thực hiện ngắn hơn
là hợp đồng vay.
Câu hỏi đặt ra là: Quyền tài sản phát sinh từ
Hợp đồng mua bán có thể trở thành tài sản bảo
đảm?
Điều 115 Bộ luật dân sự năm 2015 có quy
định quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng
quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các
quyền tài sản khác. Theo đó, một quyền tài sản
có những đặc điểm sau đây: phải gắn với một chủ
thể với tư cách là chủ sở hữu, phải có khả năng
thực hiện giao dịch một cách tự do mà không phụ
thuộc vào ý chí của ai khác; phải có thể định giá
được giá trị thành tiền, và có thể trao đổi ngang
giá với tài sản khác. Điều 295 BLDS năm 2015
ghi nhận: Tài sản bảo đảm trước tiên phải thuộc
quyền sở hữu của bên bảo đảm (trừ trường hợp
cầm giữ và bảo lưu quyền sở hữu), phải xác định
được chính xác và rõ ràng. Như vậy, quyền tài
sản phát sinh từ hợp đồng mua bán, như đã nói ở
trên có thể rất đa dạng và tùy thuộc thỏa thuận
của các bên, quá trình diễn biến, thực hiện hợp
đồng. Vậy liệu có thể xác định được chính xác
và rõ ràng các quyền này hay không, đặc biệt
trong trường hợp người mua trả tiền theo tiến độ.
Và vì các quyền này không chỉ giới hạn và cố
định, mà có thể phát sinh tùy thuộc vào quá trình
thực hiện hợp đồng giữa các bên, vì cơ bản nó là
hợp đồng song vụ và có sự biến chuyển theo thời
gian hoàn toàn phụ thuộc vào hành vi của mỗi
bên. Điều đó sẽ dẫn tới việc khó có thể định giá
được bằng tiền của các quyền này, việc này hoàn
toàn có cơ sở vì không thể nói, quyền tài sản phát
sinh từ hợp đồng mua bán nhà chính là số tiền
mà họ đã thanh toán, điều này là vô lý. Quyền tài
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
50
sản trong trường hợp này chỉ là một tài sản vô
hình, chứ không phải là một tài sản hữu hình.
Vấn đề cơ bản và cốt yếu của hợp đồng mua
bán nhà ở là sự chuyển giao quyền sở hữu nhà ở
từ người bán (người bán vẫn là chủ sở hữu cho
đến khi chuyển giao) cho người mua, và đối tượng
mà các bên hướng tới là ngôi nhà. Nhưng quyền
sở hữu không phải là một quyền tài sản, mà quyền
tài sản là một loại tài sản, theo pháp luật Việt Nam,
thì tài sản phải được gắn với một chủ thể nhất định
có xác lập sở hữu. Mục đích cuối cùng người mua
và người bán hướng tới là chuyển quyền sở hữu và
xác lập quyền sở hữu đối với ngôi nhà được mô tả
trong hợp đồng, nếu như người bán không thể đảm
bảo hoặc vi phạm điều này, lúc này quyền tài sản
phát sinh từ hợp đồng có được hiểu là quyền đòi
nhà không, mà quyền đòi nhà không đương nhiên
là quyền sở hữu nhà, hơn nữa quyền đòi nhà thuộc
về người mua, chứ không thuộc về người cho vay,
người cho vay chỉ có quyền khi mà người có nghĩa
vụ vi phạm, nhưng người có nghĩa vụ mà vi phạm
nghĩa vụ đối với người bán thì chính người bán
mới là người có quyền.
Ngoài ra, có một vấn đề mà chính bản Hợp
đồng mua bán nhà đã thể hiện rất rõ, đó là quyền
đi đôi với nghĩa vụ (hợp đồng song vụ), không thể
nào tách biệt được quyền và nghĩa vụ của người
mua đối với người bán và ngược lại (Xem Điều
352 BLDS năm 2015 và Mục 5 chương XV của
BLDS năm 2015, Mục 2 chương VIII Luật nhà ở
năm 2014, và nội dung mẫu xác nhận việc chuyển
nhượng hợp đồng được thực hiện tại chủ đầu tư
dự án theo thông tư 19/2016/TT-BXD), theo đó
người mua hay bất kỳ một chủ thể nào kế thừa
người mua trong bản hợp đồng ký với người bán
đều phải xác lập và thực hiện đầy đủ mọi quyền và
nghĩa vụ đối với người bán và ngược lại. Như vậy,
nếu người mua thế chấp quyền phát sinh từ hợp
đồng thì phần nghĩa vụ theo nội dung của hợp
đồng ai sẽ phải thực hiện. Khó có thể nói rằng,
người mua tiếp tục thực hiện vì bản thân quyền
của họ tại hợp đồng mua bán không còn, mà nghĩa
vụ thì không thể đem ra thế chấp được.
Thứ hai, nếu là quyền tài sản phát sinh từ hợp
đồng, cần phải khẳng định rằng nó là một động
sản và nó được hưởng mọi chế định, nguyên tắc
pháp lý được áp dụng cho động sản như không
phải đăng ký sở hữu, thẩm quyền để cơ quan công
chứng chứng nhận các bản hợp đồng này không
còn bị ràng buộc bởi nguyên tắc địa hạt.... Như đã
nêu, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng không
đồng nghĩa với tài sản là đối tượng của hợp đồng
mua bán, càng không phải là quyền sở hữu, sử
dụng đối với tài sản là đối tượng của hợp đồng
mua bán. Bên cạnh đó, nếu thừa nhận quyền tài
sản phát sinh từ hợp đồng thì khi đó, chúng ta có
thêm một tình huống khá đặc biệt đó là quyền sử
dụng đất cũng được coi là một quyền tài sản, vậy
nếu nhà ở là đối tượng của hợp đồng mua bán là
dạng nhà riêng lẻ, biệt thự... thì liệu có phải chăng
quyền sử dụng đất không là quyền tài sản. Việc
đăng ký giao dịch bảo đảm đối với trường hợp này
sẽ phải được thực hiện tại cục đăng ký giao dịch
bảo đảm quốc gia.
Thứ ba, nếu quyền tài sản phát sinh từ hợp
đồng mua bán nhà ở được tiếp cận theo cách hiểu
như trên, thì lúc đó chúng ta lại thấy rằng, cùng
một bản hợp đồng sẽ cho chúng ta hai loại tài sản
khác nhau, một tài sản là động sản, một tài sản là
bất động sản, tồn tại ở hai loại hình thái vật chất
khác nhau hoàn toàn, một tài sản hữu hình và
một tài sản vô hình (không có quyền bề mặt và
quyền hưởng dụng trong hợp đồng mua bán nhà
ở). Nhưng mục đích hướng tới của chính các bên,
và bảo đảm quyền lợi của người cấp tín dụng ở
đây chính là bất động sản, chứ không phải là
động sản. Đây cũng chính là cách hiểu thống
nhất tại Thông tư liên tịch số 09/2016/TTLT-
BTP-BTNMT về việc thừa nhận tính chuyển tiếp
của việc đăng ký. Như vậy, phải chăng có sự
nhầm lẫn giữa quyền tài sản phát sinh từ hợp
đồng với đối tượng của hợp đồng mua bán nhà ở.
Thứ tư, như đã đề cập ở phần trên, quyền tài
sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở trong
một số trường hợp có giá trị là không đồng, vì
nếu tiếp cận với tư cách là quyền thì đương nhiên
sẽ có nghĩa vụ từ người bán, nhưng nếu người
bán đã thực hiện đủ nghĩa vụ thì quyền sẽ không
còn giá trị nữa, mà ngược lại chính người mua
trở thành người có nghĩa vụ. Và người cho vay,
không phải trong mọi trường hợp đều có thể yêu
cầu người bán phải thực hiện nghĩa vụ đối với
Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
51
mình, mà có thể chính người cho vay phải tiếp
nhận toàn bộ các quyền và nghĩa vụ của người
mua thì mới có thể yêu cầu người bán thực hiện
nghĩa vụ đối với mình. Đến thời điểm nhất định,
chính quyền tài sản này đã bị tiêu biến mất theo
tự nhiên của nó.
Thứ năm, nếu chúng ta thừa nhận có tồn tại
quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà
ở, thì điều đó sẽ không chỉ đúng với người bán là
doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, mà còn
phải đúng với cả trường hợp người bán là các cá
nhân, doanh nghiệp không kinh doanh bất động
sản. Nhưng trong các văn bản pháp lý hiện tại,
cũng như trước đây hình như có sự thiên vị cho
người bán là tổ chức mà không có một thiết chế
có tính công bằng cho tất cả các chủ thể trong xã
hội trong việc này. Tuy nhiên, nếu thừa nhận và
chấp thuận với điều này thì có thể tạo ra một kẽ
hở rất lớn trong kiểm soát việc thẩm định, cho
vay và tính hợp lý của khoản vay, biện pháp bảo
đảm, điều này càng dẫn đến các rủi ro lớn hơn.
Thứ sáu, với tư cách là một động sản, là
quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà
ở mà chúng ta thừa nhận tính sở hữu của chủ thể
đem thế chấp thì không có lý do gì để hạn chế
việc họ đem tài sản đó thế chấp, bảo đảm cho bên
thứ ba vay vốn. Pháp luật chỉ hạn chế đối với
trường hợp thế chấp tài sản hình thành trong
tương lai thì nghĩa vụ được bảo đảm đương nhiên
và chỉ được chấp nhận nếu nghĩa vụ đó nhằm
mục đích thanh toán, tạo dựng cho chính tài sản
thế chấp (theo cách hiểu trước đây là thế chấp tài
sản hình thành từ vốn vay). Chính các quy phạm
hiện tại đang hướng và nhằm mục tiêu cho việc
phải kiểm soát được dòng tiền tạo dựng tài sản
thế chấp, nhằm hạn chế việc sử dụng tiền cấp tín
dụng vào các mục đích khác mà không nhằm tạo
dựng tài sản được tạo dựng nên, các quy phạm
này nhằm hạn chế các bất hợp lý và kẽ hở trước
đây trong quản lý thị trường bất động sản. Nhất
là trong hoàn cảnh, chính ngân hàng nhà nước
còn phải kiểm soát chính các tổ chức tín dụng khi
phát hành bảo lãnh cho người mua nhà.
Qua đó có thể thấy rằng, với các quy định
hiện tại cũng như cách tiếp cận về khái niệm
“quyền tài sản” của BLDS như hiện nay, rất khó
có thể giải quyết một cách triệt để về việc thế
chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua
bán nhà ở. Nó tiềm ẩn những kẽ hở và những rủi
ro pháp lý cho tất cả các bên, không chỉ là tổ
chức tín dụng (với tư cách là người cho vay,
người bảo lãnh), mà còn tác động tới chính thị
trường bất động sản, người mua và các quan hệ
pháp luật sẽ khó có thể giải quyết, tiềm ẩn những
sự tranh chấp không có hồi kết. Điều này là do:
- Cách hiểu về việc thế chấp quyền tài sản phát
sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hiện đang được
hiểu và thực hiện một cách đại trà mà không có
sự xem xét, tính toán chi tiết đến nội dung của
từng bản hợp đồng mua bán đó được ghi nhận ra
sao để thiết lập bản hợp đồng thế chấp cho phù
hợp. Việc này chỉ có thể khắc phục khi có sự tham
gia của những người có sự am hiểu về mặt pháp lý
mới có thể góp phần hạn chế các rủi ro.
- Các quy phạm pháp luật hiện tại, tuy có thừa
nhận nhưng không rõ ràng giữa thế chấp tài sản
hình thành trong tương lai và thế chấp quyền tài
sản phát sinh từ hợp đồng mà hiện đang xây dựng
nguyên tắc có tính chất kế thừa giữa hai loại hợp
đồng này khi thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm
và xác lập quyền ưu tiên thanh toán. Tuy nhiên, cần
phải thấy rằng, cho dù dưới hình thức nào thì vẫn
chỉ tồn tại một tài sản mà chính các bên hướng tới,
do vậy hình thức thế chấp tài sản hình thành trong
tương lai cần chú trọng nhiều hơn, ở hình thức này
thì sẽ chỉ tồn tại duy nhất một tài sản mà chính các
bên đang hướng tới.
- Nếu thừa nhận việc thế chấp quyền tài sản
phát sinh từ hợp đồng, thì cần có một cơ chế để
phong tỏa toàn bộ các giao dịch có liên quan tới
bản hợp đồng này, mặc dù việc này có thể cứng
nhắc, nhưng lại là cần thiết cho hiện tại và đảm
bảo ổn định cho tương lai sau này.
Tóm lại, cần phải dựa vào các nguyên tắc pháp
lý cơ bản, có tính hệ thống, và phù hợp với các
nguyên tắc chung của thị trường tiền tệ với mục
tiêu đảm bảo tính an toàn cho hoạt động cấp tín
dụng và bảo đảm tính hệ thống, phù hợp của pháp
luật để điều chỉnh thị trường bất động sản, thị
trường tín dụng phục vụ cho hoạt động bất động
sản để xây dựng các cơ chế pháp lý cho phù hợp
với một hình thức bảo đảm khá đặc biệt này./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- the_chap_quyen_tai_san_phat_sinh_tu_hop_dong_mua_ban_nha_o_p.pdf