Bảo đảm thông tin cho người
nghèo, vùng nghèo
Đảm bảo cho người dân ở mọi vùng
miền được thông tin kịp thời về các chính
sách của Đảng và Nhà nước, phát triển
kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội, khoa
học kỹ thuật nhằm rút ngắn khoảng cách
về thông tin giữa các vùng, miền; nâng
cao đời sống văn hóa tinh thần của người
dân ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng
xa, biên giới và hải đảo.
Ngày 18/01/2011, Thủ tướng Chính
phủ ban hành quyết định số 119/QĐ-TTg
về phê duyệt đề án phát triển thông tin,
truyền thông nông thôn giai đoạn 2011-
2020 với mục tiêu phát triển hệ thống viễn
thông, bưu điện, trung tâm thông tin, kênh
truyền hình, internet. góp phần thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản
xuất, dịch vụ, xoá đói giảm nghèo, nâng cao
dân trí khu vực nông thôn.
Ngày 5/9/2012, Thủ tướng Chính phủ
ban hành quyết định số 1212/QĐ- TTg về
Chương trình mục tiêu quốc gia đưa thông
tin về cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa,
biên giới, hải đảo giai đoạn 2012-2015
nhằm rút ngắn khoảng cách về thông tin
giữa các vùng miền, nâng cao đời sống
văn hóa, tinh thần của người dân; ngăn
chặn, góp phần đảm bảo an ninh, quốc
phòng ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng
xa, biên giới và hải đảo.
Tuy nhiên, một bộ phận người nghèo,
nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số ở các
huyện nghèo, vùng sâu, vùng cao chưa
tiếp cận được thông tin; gần 90% hộ gia
đình chưa có máy thu thanh và khoảng
75% hộ gia đình chưa có máy thu hình;
còn 1.800 xã (chiếm 16,4% số xã, phường
cả nước) chưa có đài truyền thanh; nhiều
xã chưa thu được tín hiệu hoặc thu được
tín hiệu của đài phát thanh, truyền hình
nhưng chất lượng tín hiệu chưa đảm bảo.
15 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 203 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thể chế hóa quy định Công dân có quyền được bảo đảm về an sinh xã hội trong Hiến pháp năm 2013 và một số đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 38/Quý I- 2014
29
Thể chế hóa quy định
Công dân có quyền được bảo đảm về an sinh xã hội
trong Hiến pháp năm 2013 và một số đề xuất, kiến nghị
hoàn thiện pháp luật
TS. Nguyễn Thị Lan Hương
Ths. Nguyễn Bích Ngọc
Viện Khoa học Lao động và Xã hội
Tóm tắt: Điều 34 của Hiến pháp 2013 quy định “Công dân có quyền được bảo đảm an
sinh xã hội” đã thể hiện rõ quan điểm tôn trọng quyền con người, quyền cơ bản của công dân.
Đây là cơ sở hiến định để công dân được bảo đảm có thu nhập tối thiểu, thoát khỏi tình trạng
nghèo đói khi gặp phải các rủi ro liên quan đến nhu cầu cơ bản nhất của con người: rủi ro về
sức khỏe, thiếu hoặc mất việc làm, tuổi già, tàn tậtdẫn đến không có thu nhập tạm thời hoặc
vĩnh. Nghiên cứu sau rà soát từng nhóm chính sách an sinh xã hội hiện hành và đề xuất khuyến
nghị hoàn thiện pháp luật để phù hợp với quy định của Hiến pháp mới.
Từ khoá: quyền được bảo đảm an sinh xã hội, thể chế, hỗ trợ việc làm, giảm nghèo,
trợ giúp xã hội, dịch vụ xã hội cơ bản.
Abstract: Article 34 of The 2013 Constitution regulates that “The national has the
right to be social protection guaranteed” showed the perspective of respecting human right,
basic right of the nationals. This is the constitutional basis for the people to be ensured about
the minimum income, lifted out of poverty while facing risks related to the most basic needs:
health risks, job lost or lacking, aging, disability, which might lead to temporary or
permanent income lost. The following research reviews the eac current social protection
policy group and proposes the recommendation to complete the law and regulation suitable
with the new constitution.
Keywords: Social Protection guaranteed right, constitutional, employment support,
poverty reduction, social assistance, basic social service.
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 38/Quý I- 2014
30
iến pháp 2013 đã thể hiện sự
phù hợp với hệ thống pháp
luật quốc tế, đáp ứng yêu cầu
hội nhập, đặc biệt đã thể hiện rõ quan
điểm tôn trọng quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân. Một điểm
rất quan trọng đó là Điều 34 của Hiến
pháp quy định: Công dân có quyền được
bảo đảm an sinh xã hội.
Quyền được an sinh xã hội có nghĩa
là quyền được nhà nước và xã hội hỗ trợ
bảo đảm an toàn thu nhập ở mức tối thiểu
khi không may gặp phải các rủi ro liên quan
đến nhu cầu cơ bản nhất của con người: rủi
ro về sức khỏe, thiếu hoặc mất việc làm,
tuổi già, tàn tậtdẫn đến không có thu nhập
tạm thời hoặc vĩnh viễn.
Thể chế hoá quyền được an sinh xã
hội là luật hóa hoặc qui định sự bảo đảm
an toàn thu nhập ở mức tối thiểu thông qua
hệ thống các chính sách can thiệp nhằm
quản lý rủi ro tốt liên quan đến nhu cầu cơ
bản nhất của con người: rủi ro về sức
khỏe, thiếu hoặc mất việc làm, tuổi già,
tàn tậtdẫn đến không có thu nhập tạm
thời hoặc vĩnh viễn. Thể chế hoá quyền
được an sinh xã hội đóng vai trò quan
trọng trong hệ thống an sinh xã hội. Nội
dung cơ bản của thể chế này là xác định
khuôn khổ pháp lý (luật, các văn bản dưới
luật), phạm vi các chính sách/chế độ, đối
tượng tham gia, tiêu chí, điều kiện tham
gia, cơ chế đóng góp (tuỳ từng hình thức,
chế độ), quyền lợi hưởng thụ và những
điều kiện ràng buộc. Thể chế chính sách
còn xác định trách nhiệm của bộ, ngành
địa phương trong việc thực hiện chính
sách, chế độ đề ra. Ngoài ra còn cơ chế
tham gia của các tổ chức xã hội, cộng
đồng và thị trường trong việc tổ chức thực
hiện và cung cấp dịch vụ an sinh xã hội.
Thể chế hoá quyền được an sinh xã hội
hướng đến mọi thành viên trong xã hội,
bảo đảm cho mọi thành viên được bình
đẳng về tiếp cận an sinh xã hội, trong đó
ưu tiên đến nhóm đối tượng yếu thế.
Thể chế hoá quyền an sinh xã hội của
Việt Nam gồm 4 nhóm chính sách cơ bản
sau đây:
- Nhóm chính sách việc làm đảm bảo
thu nhập tối thiểu
- Nhóm chính sách bảo hiểm xã hội
- Nhóm chính sách trợ giúp xã hội:
- Nhóm chính sách dịch vụ xã hội cơ
bản nhằm tăng cường cho người dân tiếp
cận hệ thống dịch vụ cơ bản ở mức tối
thiểu
Nghiên cứu sau rà soát từng nhóm
chính sách an sinh xã hội hiện hành và đề
xuất khuyến nghị hoàn thiện pháp luật để
phù hợp với quy định tại điều 34 của Hiến
pháp “Công dân có quyền được bảo đảm
an sinh xã hội”.
I. Nhóm chính sách việc làm đảm
bảo thu nhập tối thiểu và giảm nghèo
H
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 38/Quý I- 2014
31
1. Nhóm chính sách việc làm đảm
bảo thu nhập tối thiểu
Nhóm chính sách việc làm đảm bảo
thu nhập tối thiểu bao gồm hệ thống luật
pháp, các quy định, chương trình, đề án và
các giải pháp phát triển thị trường lao động
do Nhà nước hoặc các tổ chức thực hiện
nhằm chủ động hỗ trợ người lao động nâng
cao cơ hội tìm việc làm, tham gia thị
trường lao động để có thu nhập, từng bước
bảo đảm thu nhập tối thiểu cho người dân,
đặc biệt là người nghèo, thanh niên, lao
động nông thôn và các nhóm lao động dễ
bị tổn thương khác, cải thiện cuộc sống cho
người dân.
Các chính sách hỗ trợ việc làm bao
gồm những chính sách cơ bản sau: Chính
sách phát triển thị trường lao động; Chính
sách tín dụng ưu đãi hỗ trợ phát triển sản
xuất kinh doanh, tạo việc làm; Chính sách
hỗ trợ đào tạo nghề; Chính sách đưa lao
động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài
theo hợp đồng và Chính sách hỗ trợ lao
động di chuyển.
Hệ thống các văn bản pháp luật về
phát triển thị trường lao động được hình
thành đã tăng cường về kỹ năng và cơ hội
việc làm của người lao động; người lao
động ngày càng được đảm bảo quyền tự
do lao động và quyền có việc làm gồm:
Bộ Luật Lao động ban hành năm 1994
(sửa đổi, bổ sung qua các năm 2002, 2004
và 2006 và sửa đổi toàn diện và ban hành
năm 2012); Luật Người lao động Việt
Nam làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
(2006); Luật Việc làm (2013) với các nghị
định, thông tư liên quan và các Chương
trình việc làm quốc gia trong thời gian từ
1992 đến năm 2011, Chiến lược về Việc
làm.
Chính sách hỗ trợ tín dụng có mục
đích khuyến khích phát triển sản xuất hộ
gia đình, doanh nghiệp phát triển sản xuất
kinh doanh, thu hút lao động; người lao
động tham gia xuất khẩu lao động nhằm
tăng thu nhập, giảm nghèo, vay vốn theo
Chương trình Mục tiêu quốc gia về Việc
làm, chương trình Mục tiêu Quốc gia về
xóa đói, giảm nghèo, Đề án hỗ trợ các
huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao
động để giảm nghèo bền vững, tín dụng
học sinh, sinh viên.
Hệ thống luật pháp về giáo dục, đào
tạo và dạy nghề tương đối đầy đủ nhằm
tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ đào
tạo và dạy nghề cho người lao động. Công
tác đào tạo, đặc biệt là đào tạo nghề nhằm
đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động của các
doanh nghiệp, tăng cường cơ hội việc làm
cho các nhóm yếu thế ngày càng được chú
trọng. Đề án Đào tạo nghề cho lao động
nông thôn thực hiện từ năm 2009 đã góp
phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
đặc biệt là lao động qua đào tạo nghề, lao
động khu vực nông thôn và khả năng tạo
việc làm phi nông nghiệp.
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 38/Quý I- 2014
32
Chính phủ đã thực hiện các chương
trình hỗ trợ di cư đến các vùng kinh tế mới,
biên giới, hải đảo; hỗ trợ di dân thực hiện
định canh định cư đối với đồng bào dân tộc
thiểu số; Chương trình di dân gắn với xóa
đói giảm nghèo qua các giai đoạn, đã
đáp ứng một phần về tái phân bố nguồn lao
động, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế
vùng, góp phần ổn định đời sống cho đồng
bào dân tộc thiểu số và bảo vệ an ninh quốc
phòng.
Thể chế pháp luật về thị trường lao
động mặc dù đã phát triển, song vẫn còn
tồn tại nhiều bất cập:
Hệ thống luật pháp về thị trường lao
động chưa đầy đủ, đồng bộ. Vai trò và
trách nhiệm của các chủ thể trên thị
trường lao động chưa được phát huy, sự
phân định giữa vai trò của thị trường và
vai trò của Nhà nước chưa rõ, chưa đúng
chức năng. Nhiều chính sách mới chủ yếu
hướng tới điều chỉnh quan hệ lao động
trong khu vực nhà nước và khu vực kinh
tế chính thức. Một bộ phận lao động thiếu
việc làm hoặc việc làm không ổn định, lao
động làm việc trong khu vực nông nghiệp,
khu vực phi kết cấu, trong các nghề giản
đơn, lao động không đòi hỏi chuyên môn
kỹ thuật chưa được bảo vệ trong thị
trường lao động.
Quá nhiều quy định về tín dụng ưu đãi
cho phát triển sản xuất ở nhiều chính sách
khác nhau dẫn đến tình trạng chồng chéo,
khó áp dụng. Quy định về chính sách hỗ
trợ tín dụng cho người nghèo, người dân
tộc thiểu số đi lao động ở nước ngoài chưa
thống nhất, đồng bộ về mức vay và lãi suất
cho vay. Thiếu gắn kết giữa hoạt động cho
vay vốn và hoạt động tư vấn cho đối tượng
về sản xuất kinh doanh. Các chương trình
vay vốn tạo việc làm chủ yếu mới dừng lại
ở việc tăng cường hỗ trợ vốn để củng cố
việc làm hiện hành, chưa tạo ra nhiều việc
làm mới.
Chính sách hỗ trợ xuất khẩu lao động
chưa hiệu quả. Các chính sách và chương
trình hỗ trợ người đi làm việc ở nước
ngoài trở về tái hòa nhập thị trường lao
động trong nước còn hạn chế. Chưa có
chính sách khuyến khích người lao động
đi làm việc ở nước ngoài và gia đình họ
đầu tư sản xuất, kinh doanh, sử dụng hiệu
quả thu nhập có được từ việc đi lao động
ở nước ngoài.
Về chính sách đào tạo và dạy nghề
chưa gắn với sản xuất và thị trường lao
động; chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của
chủ sử dụng lao động; đặc biệt thiếu các
cơ sở đào tạo ở các vùng nông thôn khó
khăn. Các chính sách hỗ trợ các nhóm lao
động dễ bị tổn thương (thanh niên không
có tay nghề lần đầu tham gia thị trường
lao động; đối tượng bị tác động của cải
cách kinh tế xã hội: mất đất, cổ phần hóa,
khủng hoảng kinh tế, người thất nghiệp;
người lao động trong khu vực phi chính
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 38/Quý I- 2014
33
thức; người khuyết tật, v.v) tham gia thị
trường lao động mặc dù đã được cải thiện
nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu thực
tiễn.
Chính sách hỗ trợ lao động di chuyển:
hệ thống chính sách hỗ trợ lao động dịch
chuyển đến các khu công nghiệp, khu đô
thị còn yếu và thiếu; đa số người di cư
không tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ
bản tại nơi đến. Chưa có giải pháp hỗ trợ
tạo việc làm tạm thời, ổn định cuộc sống
với qui mô lớn do nhà nước thực hiện đối
với những đối tượng mất việc làm hàng
loạt khi bị tác động của khủng hoảng kinh
tế, thiên tai và dịch bệnh.
Kiến nghị
Nhằm hỗ trợ người lao động nâng cao
cơ hội tìm việc làm, tham gia thị trường
lao động từng bước bảo đảm thu nhập tối
thiểu cho người dân, hệ thống pháp luật
hiện hành cần sửa đổi, bổ sung như sau:
- Xây dựng nghị định tín dụng về ưu
đãi trên cơ sở hợp nhất các văn bản quy
định rõ ràng đối với từng đối tượng hưởng
chính sách;
- Xây dựng các Nghị định, thông tư
hướng dẫn Luật việc làm trên cơ sở hoàn
thiện các chính sách hiện hành về hỗ trợ
dịch chuyển việc làm cho người lao động
đi chuyển ở khu vực nông thôn; hỗ trợ đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng; Hỗ trợ tạo việc làm cho
thanh niên; hỗ trợ phát triển thị trường lao
động; bảo hiểm thất nghiệp;
- Xây dựng Nghị định hướng dẫn Luật
việc làm về chính sách việc làm công.
2. Chính sách giảm nghèo
Thực hiện mục tiêu giảm nghèo là
một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước
nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần của người nghèo, góp phần thu hẹp
khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa
nông thôn và thành thị, giữa các vùng, các
dân tộc và các nhóm dân cư; thể hiện
quyết tâm trong việc thực hiện Mục tiêu
thiên niên kỷ của Liên hợp quốc mà Việt
Nam đã cam kết.
Trong 25 năm qua, với mục tiêu giảm
nghèo nhanh, Chính phủ đã ban hành hệ
thống chính sách, chương trình xóa đói
giảm nghèo khá đầy đủ, có tính hệ thống
và phù hợp với tình hình phát triển kinh tế
xã hội của đất nước. Các thể chế pháp luật
về giảm nghèo gồm: Các Chương trình
mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo
giai đoạn 1998-2000; Chiến lược toàn
diện về tăng trưởng và xoá đói giảm
nghèo (2002)", chương trình 134(2004)
về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất,
đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng
bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó
khăn; Chương trình mục tiêu quốc gia
giảm nghèo giai đoạn 2006-2010 (2006);
Nghị quyết số 80/NQ-CP về Định hướng
giảm nghèo bền vững thời kỳ 2011-2020
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 38/Quý I- 2014
34
(2011); Chương trình mục tiêu quốc gia
Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2012-
2015 (2012); Quyết định số 551/QĐ-TTg
phê duyệt Chương trình 135 về hỗ trợ đầu
tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất
cho các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới,
xã an toàn khu, các thôn, bản đặc biệt khó
khăn và nhiều quyết định, thông tư hướng
dẫn.
Chính sách giảm nghèo đã thực hiện
hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các
chính sách tín dụng ưu đãi, đất sản xuất
cho hộ nghèo dân tộc thiểu số, khuyến
nông – lâm - ngư, phát triển ngành nghề,
xuất khẩu lao động; Nâng cao vốn nhân
lực của người nghèo thông qua tăng
cường tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục,
dạy nghề, trợ giúp pháp lý, nhà ở và nước
sinh hoạt; Giảm bất bình đẳng giữa các
vùng thông qua phát triển cơ sở hạ tầng
thiết yếu cho các xã đặc biệt khó khăn, các
xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Tuy nhiên, chính sách giảm nghèo
còn một số bất cập: Số lượng chính sách
nhiều, chồng chéo, trùng lắp phân tán,
thiếu sự phối hợp, gắn kết các chính sách
với nhau. Các chính sách hỗ trợ giảm
nghèo thiên về hỗ trợ trực tiếp bằng tiền
mặt hoặc hiện vật hơn là tạo cơ hội và điều
kiện để người nghèo tự nâng cao năng lực
vươn lên thoát nghèo bền vững. Mức hỗ
trợ về giáo dục, y tế đối với hộ nghèo còn
nhỏ so với nhu cầu chi của hộ gia đình.
Kiến nghị:
Xây dựng nghị định của Chính phủ về
giảm nghèo theo phương pháp tiếp cận
nghèo đói đa chiều; điều chỉnh chuẩn
nghèo, tiến dần đến mức sống tối thiểu;
phân biệt người nghèo có khả năng vươn
lên và không có khả năng vươn lên thoát
nghèo; tích hợp các chính sách để đơn
giản hơn, tăng cường tính kết nối của các
chính sách; khuyến khích sự tham gia của
khu vực tư nhân vào cung cấp các dịch vụ
hỗ trợ giảm nghèo
II. Nhóm chính sách bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay
thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của
người lao động khi họ bị giảm hoặc mất
thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết
tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng
góp vào quỹ bảo hiểm xã hội.
Luật BHXH được ban hành và có
hiệu lực từ 1/1/2007. Luật có quy định về
BHXH tự nguyện cho những lao động
không thuộc diện BHXH bắt buộc tham
gia. Đồng thời, các quy định của Luật
BHXH hướng tới công bằng hơn giữa
đóng góp và thụ hưởng, chia sẻ rủi ro, góp
phần đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích của
người lao động.
Tuy nhiên, Luật BHXH hiện hành
vẫn còn một số điểm bất cập:
Chính sách Bảo hiểm xã hội bắt buộc:
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 38/Quý I- 2014
35
Chưa bao phủ tới mọi người lao động;
Quan hệ giữa mức đóng và mức hưởng
bảo hiểm xã hội còn mất cân đối, mức
đóng chưa tương ứng với mức hưởng; Cơ
chế và phương thức đầu tư quỹ bảo hiểm
xã hội chưa bảo tồn được giá trị của quỹ:
Chi phí quản lý bảo hiểm xã hội còn cao;
Chưa có quy định về chế độ mất sức lao
động trong Luật BHXH.
Chính sách bảo hiểm xã hội tự
nguyện: chưa phù hợp, với quy định số
năm đóng góp tối thiểu là 20 năm để được
hưởng lương hưu thì nhóm lao động nam
từ 45, nữ từ 40 tuổi trở lên mới tham gia sẽ
không được hưởng chế độ hưu trí khi đến
tuổi nghỉ hưu; sự chênh lệch giữa chế độ
bảo hiểm xã hội bắt buộc (5 chế độ) và tự
nguyện (2 chế độ) khiến người lao động
không muốn tham gia.
Bảo hiểm thất nghiệp mới chỉ giới hạn
trong nhóm lao động làm việc trong các
doanh nghiệp có sử dụng từ 10 lao động trở
lên.
Kiến nghị:
Nhằm bảo đảm thay thế hoặc bù đắp
một phần thu nhập của người lao động khi
họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên
cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội, cần
sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội trên cơ sở:
Hoàn thiện chính sách Bảo hiểm bắt
buộc theo hướng mở rộng đối tượng có
thời gian lao động 1 tháng; người sử dụng
lao động; bổ sung chế độ mất sức lao
động. Mặt khác cần tăng tuổi nghỉ hưu để
đảm bảo an toàn quỹ BHXH.
Sửa đổi chính sách bảo hiểm xã hội tự
nguyện như sau: Bổ sung chế độ hỗ trợ
thai sản, ốm đau, tai nạn lao động - bệnh
nghề nghiệp cho người lao động khi tham
gia bảo hiểm xã hội tự nguyện; Tạo điều
kiện cho lao động nam trên 45 tuổi và nữ
trên 40 tuổi tiếp tục tham gia bảo hiểm xã
hội để được hưởng lương hưu; Thực hiện
chính sách hỗ trợ một phần phí đóng bảo
hiểm xã hội tự nguyện cho lao động đặc
thù (người cận nghèo, người nghèo, lao
động có mức sống trung bình trở xuống
làm trong nông, lâm, ngư, diêm nghiệp).
Ngoài ra, cần xây dựng nghị định về
Bảo hiểm thất nghiệp theo hướng mở rộng
diện tham gia bảo hiểm thất nghiệp tới mọi
người lao động có hợp đồng lao động, hợp
đồng làm việc từ đủ 3 tháng trở lên.
III. Nhóm chính sách trợ giúp xã hội
Một bộ phận dân cư vì các lý do khác
nhau như tàn tật, khuyết tật, người già cô
đơn, người tâm thần, trẻ em mồ côi, người
nhiễm HIV, hoặc gặp các rủi ro do thiên
tai, không có khả năng tạo thu nhập,
cần được Nhà nước và cộng đồng hỗ trợ
thu nhập tối thiểu cho người dân, góp
phần ổn định cuộc sống, nâng cao năng
lực phòng chống rủi ro. Các chính sách trợ
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 38/Quý I- 2014
36
giúp xã hội nhằm bảo đảm thu nhập và các
điều kiện sinh sống ở mức tối thiểu (bằng các
hình thức và biện pháp khác nhau) đối với
các đối tượng gặp rủi ro, bất hạnh, nghèo đói,
thiệt thòi trong cuộc sống không đủ khả năng
tự lo được cuộc sống của bản thân và gia
đình thông qua sự trợ giúp của Nhà nước,
nhân dân và cộng đồng quốc tế. Trợ giúp xã
hội được gồm 2 nhóm là trợ giúp xã hội
thường xuyên và trợ giúp xã hội đột xuất.
Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục
Trẻ em (sửa đổi 2004) đã cụ thể hoá nhấn
mạnh quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng,
bảo vệ.
Luật về người khuyết tật (2010) nêu
rõ người khuyết tật được Nhà nước và xã
hội trợ giúp chăm sóc sức khoẻ, phục hồi
chức năng, tạo việc làm phù hợp và được
hưởng các quyền khác theo quy định của
pháp luật.
Luật Người cao tuổi (có hiệu lực thi
hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2010) quy
định về quyền và nghĩa vụ của người cao
tuổi; trách nhiệm của gia đình, Nhà nước
và xã hội trong việc phụng dưỡng, chăm
sóc và phát huy vai trò người cao tuổi.
Nghị định 67/2007/NĐ-CP ngày
13/4/2007 và Nghị định số 13/2010/NĐ-
CP ngày 27/02/2010 (sửa đổi một số điều
của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP) quy
định chế độ trợ giúp xã hội. Chính sách
trợ giúp xã hội đã thể hiện được quan
điểm bảo đảm công bằng: (i) đối tượng
càng yếu thế thì càng được hưởng mức
cao (mức cao nhất là không có khả năng
tự phục vụ sinh hoạt cần có người chăm
sóc, giúp đỡ hàng ngày); (ii) ưu tiên theo
độ tuổi, trẻ em và người cao tuổi được
hưởng mức cao hơn; (iii) các đối tượng
khác nhau có nhu cầu khác nhau được
hưởng mức khác nhau. Sự phân chia cũng
không tạo ra sự chênh lệch quá lớn giữa
các nhóm đối tượng thụ hưởng.
Hệ thống văn bản chính sách trợ giúp
xã hội ngày càng được hoàn thiện theo
hướng: i) mở rộng diện đối tượng thụ
hưởng; ii) tăng mức chuẩn trợ cấp xã hội;
và (iii) tiến tới bảo đảm mức thu nhập tối
thiểu và ổn định cuộc sống cho các đối
tượng yếu thế, tạo cho các đối tượng yếu
thế, góp phần đảm bảo ổn định xã hội và
thể hiện sự chăm lo của Đảng và Nhà
nước đến mọi người dân.
Tuy nhiên, các chính sách về trợ
giúp xã hội còn nhiều điểm hạn chế:
Về trợ giúp xã hội thường xuyên: Đối
tượng được quy định trong luật chỉ có
chính sách bảo trợ xã hội đối với trẻ em,
người cao tuổi, người khuyết tật, còn lại
các nhóm đối tượng khác như: người đơn
thân nuôi con thuộc diện hộ nghèo, người
nhiễm HIV/AIDS nghèo không còn khả
năng lao động, các đối tượng gặp rủi ro
thiên tai mới chỉ quy định ở Nghị định
của Chính phủ; còn một bộ phận dân cư
thật sự khó khăn chưa được hưởng chính
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 38/Quý I- 2014
37
sách người nghèo khi mắc bệnh hiểm
nghèo phải điều trị bệnh dài ngày (bệnh
K, chạy thận nhân tạo, tim bẩm sinh)...;
Quy định nguyên tắc, cơ chế, chế độ cũng
có sự khác nhau, dẫn đến nhiều văn bản
hướng dẫn gây khó khăn trong tổ chức
thực hiện; Mức hỗ trợ từ ngân sách Nhà
nước còn thấp, chưa đảm bảo mức sống
tối thiểu.
Về trợ giúp xã hội đột xuất: Phạm vi
trợ giúp còn hẹp, tập trung chủ yếu cho
đối tượng bị rủi ro do thiên tai, phần hỗ
trợ cho các đối tượng bị rủi ro kinh tế và
xã hội còn thấp; Mức trợ giúp đột xuất
thấp, mới chỉ bù đắp được khoảng 10%
thiệt hại của hộ gia đình.
Kiến nghị:
Nhằm bảo đảm thu nhập và các
điều kiện sinh sống ở mức tối thiểu (bằng
các hình thức và biện pháp khác nhau) đối
với các đối tượng gặp rủi ro, bất hạnh,
nghèo đói, thiệt thòi trong cuộc sống
không đủ khả năng tự lo được cuộc sống,
cần sửa đổi và hoàn thiện chính sách trợ
giúp xã hội như sau:
• Xây dựng Luật trợ giúp xã hội hướng
tới xây dựng một gói trợ cấp chung cho các
hộ gia đình, người dân thuộc diện thụ hưởng.
• Hoàn thiện sửa đổi Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em theo hướng xây
dựng đồng bộ và toàn diện chính sách hỗ
trợ trẻ em: tích hợp các chính sách hỗ trợ
trẻ em, kết hợp với chính sách giảm nghèo
để nâng cao điều kiện y tế, giáo dục cho
trẻ em.
• Sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp
luật về Người cao tuổi: giảm tuổi được nhận
trợ giúp xã hội đối với người cao tuổi không
có lương hưu/trợ cấp xã hội xuống còn 75
tuổi vào năm 2020).
IV. Bảo đảm mức tối thiểu các dịch
vụ xã hội cơ bản cho người dân
Bảo đảm mức tối thiểu các dịch vụ xã
hội cơ bản cho toàn dân là một trong
những mục tiêu quan trọng trong hệ thống
an sinh xã hội của Việt Nam. Các dịch vụ
xã hội cơ bản bao gồm: giáo dục, y tế, nhà
ở, nước sạch và thông tin.
1. Chính sách bảo đảm giáo dục tối
thiểu
Một trong những nguyên nhân cơ bản
của nghèo đói là do người lao động không
có trình độ giáo dục cơ bản và kỹ năng
nghề nghiệp để tìm việc làm tốt hơn.
Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong
việc hỗ trợ người dân có trình độ giáo dục
tối thiểu, tăng cường chất lượng nguồn
nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng xã
hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho
mọi công dân được học tập suốt đời. Giảm
chênh lệch về giáo dục cho người nghèo,
dân tộc thiểu số và trẻ em có hoàn cảnh
khó khăn.
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 38/Quý I- 2014
38
Luật Giáo dục (2010) quy định phổ
cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi,
phổ cập giáo dục tiểu học và giáo dục
trung học cơ sở”.
Chính phủ đã ban hành nhiều chính
sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ gạo, hỗ
trợ tiền ăn thông qua nhiều Nghị định,
thông tư nhằm tạo cơ hội và điều kiện cho
trẻ em trong các hộ gia đình nghèo, trẻ em
là người dân tộc thiểu số ở các vùng khó
khăn, trẻ em không nơi nương tựa tiếp
cận giáo dục cơ bản.
Công bằng xã hội trong giáo dục đã
được cải thiện, đặc biệt tăng cơ hội học
tập cho trẻ em gái, trẻ em dân tộc thiểu số,
con em gia đình nghèo và trẻ em khuyết
tật. Giáo dục ở vùng đồng bảo dân tộc
thiểu số, vùng sâu, vùng xa có tiến bộ rõ
rệt.
Tuy nhiên, chính sách bảo đảm giáo
dục tối thiểu vẫn còn hạn chế: nhiều văn
bản chính sách chồng chéo trên cùng một
đối tượng; mức hỗ trợ cho một số đối
tượng học sinh chính sách còn thấp. Việc
triển khai xây dựng, hướng dẫn thực hiện
chính sách vẫn còn chậm, thủ tục phức tạp
làm hạn chế hiệu quả chính sách.
Kiến nghị:
Hoàn thiện Luật giáo dục, chú ý đến
nhu cầu phát triển giáo dục và đặc điểm
của vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số,
đặc biệt là các yếu tố về văn hoá và nhân
học của người dân tộc thiểu số.
Tăng cường các chế độ ưu đãi, học
bổng, giảm giá sách giáo khoa, học phẩm
và đồ dung học tập; nâng cao hiệu quả
thực hiện chính sách tín dụng đối với học
sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn; ưu
tiên đầu tư cho các trường phổ thông dân
tộc nội trú.
2. Chính sách bảo đảm y tế tối thiểu
Nhà nước chăm lo, bảo vệ và tăng
cường sức khoẻ nhân dân; đảm bảo mọi
người dân được hưởng các dịch vụ chăm
sóc sức khoẻ ban đầu, đặc biệt là những
người thuộc nhóm yếu thế, nhóm dễ bị tổn
thương (người nghèo, người dân sống ở
vùng đặc biệt khó khăn, người cao tuổi,
trẻ em, phụ nữ); thực hiện bảo hiểm y tế
toàn dân; mở rộng tiếp cận và sử dụng các
dịch vụ y tế có chất lượng; người dân
được sống trong cộng đồng an toàn, phát
triển tốt về thể chất và tinh thần, giảm tỷ
lệ mắc bệnh, tật, nâng cao thể lực, tăng
tuổi thọ, nâng cao chất lượng dân số.
Về chăm sóc sức khoẻ ban đầu
Quyền được đảm bảo chăm sóc sức
khỏe ban đầu được thể chế hóa trong các
văn bản: Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân
(1989); Quyết định số 122/QĐ-TTg, ngày
10/01/2013 về Phê duyệt Chiến lược quốc
gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe
nhân dân giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 38/Quý I- 2014
39
đến năm 2030; Các chương trình mục tiêu
quốc gia liên quan đến y tế và chăm sóc
sức khoẻ cộng đồng như: Chương trình
mục tiêu quốc gia về phòng chống các
bệnh lây nhiễm, không lây nhiễm, tiêm
chủng mở rộng, chăm sóc sức khỏe sinh
sản và cải thiện tình trạng dinh dưỡng trẻ
em, y tế học đường; Chương trình mục tiêu
quốc gia vệ sinh an toàn thực phẩm;
Chương trình mục tiêu quốc gia phòng,
chống HIV/AIDS
Tuy nhiên, các văn bản quy phạm
pháp luật về chất lượng dịch vụ y tế chưa
hoàn thiện. Thiếu các tiêu chí đánh giá chất
lượng, hiệu quả. Hoạt động kiểm tra giám
sát còn hạn chế, thiếu hệ thống giám sát
mang tính chất dự phòng.
Kết quả chăm sóc sức khỏe toàn dân
chưa đồng đều. Có sự chênh lệch lớn về
tình trạng sức khỏe giữa các vùng miền.
Công tác y tế dự phòng còn nhiều thách
thức. Công tác tuyên truyền chưa đến được
mọi người dân; các yếu tố liên quan đến
sức khỏe như nước sạch, môi trường, nghề
nghiệp, thực phẩm, lối sống.. có nguy cơ
gia tăng. Dịch vụ khám chữa bệnh còn
nhiều hạn chế, đặc biệt là các vùng khó
khăn. Chưa triển khai việc kiểm định chất
lượng khám chữa bệnh.
Kiến nghị:
Để mọi người có quyền được bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc
sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ
thực hiện các quy định về phòng bệnh,
khám bệnh, chữa bệnh, cần xây dựng nghị
định của Chính phủ về Chăm sóc sức khoẻ
ban đầu với định hướng sau:
- Tiếp tục củng cố và hoàn thiện mạng
lưới trạm y tế xã, trung tâm y tế huyện;
- Phát triển đội ngũ nhân viên y tế thôn
bản nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa,
khu vực biên giới;
- Tăng cường hoạt động bác sỹ gia
đình;
- Ưu tiên chăm sóc sức khoẻ nhân dân
miền núi, vùng sâu, vùng xa, nhất là đồng
bào các dân tộc thiểu số, nâng cao khả năng
tiếp cận dịch vụ y tế có chất lượng cho
nhân dân vùng nghèo, dân tộc thiểu số,
vùng đặc biệt khó khăn.
Về Bảo hiểm y tế
Nhà nước chăm lo, bảo vệ và tăng
cường sức khoẻ nhân dân thông qua việc
thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân.
Luật Bảo hiểm y tế có hiệu lực từ ngày
01/7/2009 với mục tiêu thực hiện bảo hiểm
y tế toàn dân vào năm 2014, trong đó Nhà
nước đảm bảo ngân sách để thực hiện các
chương trình cấp thẻ bảo hiểm y tế và hỗ
trợ toàn bộ, một phần mức đóng bảo hiểm
y tế đối với trẻ em dưới 6 tuổi, người
nghèo, cận nghèo, người dân tộc thiểu số,
hộ gia đình làm nghề nông, lâm, ngư, diêm
nghiệp có mức sống trung bình trở xuống;
Quyết định 705/QĐ-TTg ngày 08/5/2013
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 38/Quý I- 2014
40
của Thủ tướng Chính phủ về việc nâng
mức hỗ trợ đóng BHYT cho một số đối
tượng người thuộc hộ gia đình cận nghèo;
Quyết định số 538/QĐ-TTg ngày
29/3/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Đề án thực hiện lộ trình BHYT toàn
dân giai đoạn 2012-2015 và 2020.
Tuy nhiên, tỷ lệ bao phủ BHYT
trong khu vực lao động chính thức thấp do
thiếu giải pháp bảo đảm tính tuân thủ, mức
hỗ trợ từ NSNN chưa phù hợp với khả
năng đóng góp của người dân. Quỹ BHYT
chưa được sử dụng có hiệu quả do chưa có
các giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm an
toàn, hiệu quả, chất lượng trong lựa chọn
thuốc, các dịch vụ y tế và vật tư y tế. Người
có BHYT vẫn có nguy cơ phải chi trả tiền
túi vượt quá khả năng chi trả do cùng chi
trả không trần giới hạn, tự chi trả cho nhiều
thuốc, dịch vụ ngoài danh mục, cho các chi
phí khá tốn kém ngoài điều trị.
Kiến nghị
Để mọi người có quyền được bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc
sử dụng các dịch vụ y tế cần sửa đổi Luật
Bảo hiểm y tế theo hướng bắt buộc đối với
mọi người dân; tăng hỗ trợ chi trả đối với
người bệnh hiểm nghèo (tim, ung thư); xây
dựng cơ chế, chính sách khuyến khích khu
vực tư nhân tham gia vào việc cung cấp các
dịch vụ khám chữa bệnh.
3. Chính sách bảo đảm mức tối thiểu
về nhà ở
Đa số người nghèo, người có thu nhập
thấp không có khả năng để có nhà ở ổn
định mà phải cần sự hỗ trợ của Nhà nước
về đất ở, tài chính. Các chính sách bảo đảm
mức tối thiểu về nhà ở nhằm cải thiện điều
kiện ở cho người dân, đặc biệt là người
nghèo, người có thu nhập thấp ở đô thị;
từng bước giải quyết nhu cầu về nhà ở cho
người lao động tại các khu công nghiệp,
học sinh, sinh viên các trường đại học, cao
đẳng, trung cấp, trung học và dạy nghề để
ổn định cuộc sống, tăng cường sức khỏe,
góp phần giảm nghèo bền vững.
Chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo
Chính phủ đã ban hành Quyết định số
167/2008/QĐ-TTg ngày 12/12/2008 về
chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở và
Quyết định số 67/2010/QĐ-TTg về việc
sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết
định 167/2008/QĐ-TTg ngày 12/12/2008
về chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở.
Tuy nhiên, đảm bảo mục tiêu về
quyền được ở trong các căn nhà an toàn
vẫn còn là một thách thức đối với một bộ
phận dân cư. Đến cuối năm 2011, vẫn còn
5,6% số hộ gia đình ở nhà đơn sơ (tỷ lệ
này trong nhóm người nghèo là 53,3%);
hơn 900 nghìn hộ nghèo đang ở nhà tạm
cần hỗ trợ khẩn cấp, trong đó có gần 400
nghìn hộ dân tộc thiểu số; ở những vùng
thường xuyên xảy ra thiên tai lũ lụt, nhà ở
chưa đảm bảo an toàn; khoảng 800.000 hộ
có diện tích nhà ở bình quân đầu người
dưới 5 m2 và hơn 4,6 triệu hộ có diện tích
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 38/Quý I- 2014
41
nhà ở bình quân đầu người 6-10 m2.
Chính sách hỗ trợ nhà ở cho người có
thu nhập thấp
Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế,
chính sách hỗ trợ nhà ở cho người thu
nhập thấp theo phương châm Nhà nước,
cộng đồng và người dân cùng tham gia:
Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 20/4/2009
của Chính phủ về đẩy mạnh phát triển nhà
ở cho học sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo
và nhà ở cho công nhân lao động tại các
khu công nghiệp tập trung, người có thu
nhập thấp tại khu vực đô thị.
Tuy nhiên, cón có những rào cản
trong việc thực hiện chính sách hỗ trợ nhà
ở cho người có thu nhập thấp; các doanh
nghiệp được hưởng các chính sách ưu đãi
cho đầu tư xây dựng nhà ở cho người thu
nhập thấp vẫn gặp rất nhiều khó khăn khi
vay vốn và đầu tư; người thu nhập thấp
mặc dù được hỗ trợ vẫn không đủ khả
năng mua nhà.
Chính sách hỗ trợ nhà ở cho công
nhân lao động tại các khu công nghiệp tập
trung
Quyết định số 66/2009/QĐ-TTg ngày
24/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban
hành cơ chế ưu đãi về đất sử dụng, thuế,
vay vốn tín dụng cho các chủ đầu tư các
dự án nhà ở cho công nhân lao động tại
các khu công nghiệp.
Tại các khu công nghiệp, còn 80% số
công nhân ngoại tỉnh phải thuê nhà trọ tư
nhân, diện tích sử dụng bình quân từ 2-
3m2/người, không bảo đảm những điều
kiện tối thiểu về vệ sinh, điện, nước và các
dịch vụ chăm sóc trẻ em. Các chương
trình nhà ở vẫn còn nhiều bất cập về cơ
chế, chính sách và lộ trình thực hiện đòi
hỏi sự phối kết hợp tốt hơn giữa các
ngành, các cấp, doanh nghiệp và người lao
động.
Chính sách phát triển nhà ở cho học
sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo
Quyết định số 65/2009/QĐ-TTg ngày
24/04/2009 của Thủ tướng Chính phủ Ban
hành cơ chế, chính sách hỗ trợ vay vốn
phát triển nhà ở cho thuế đối với sinh viên
các trường đại học, cao đẳng, trung cấp
chuyên nghiệp và dạy nghề.
Tuy nhiên, số lượng nhà cho sinh viên
thuê mới đáp ứng khoảng 22% nhu cầu;
cơ chế chính sách chưa rõ ràng.
Kiến nghị:
Về cơ bản những nhược điểm trên đã
được khắc phục tại Nghị định số
188/2013/NĐ-CP về phát triển và quản lý
nhà ở xã hội đã tạo hành lang pháp lý cho
các chủ thể tham gia phát triển nhà ở xã
hội.
Sửa đổi Quyết định 167/2008/QĐ-
TTg; điều chỉnh mức hỗ trợ theo hệ số
trượt giá; đảm bảo sự công bằng, công
khai, dân chủ và đúng đối tượng.
4. Bảo đảm nước sạch cho người dân
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 38/Quý I- 2014
42
Nước sạch là yếu tố quan trọng, ảnh
hưởng đến sức khoẻ và môi trường sống
của mỗi người dân.Việc đảm bảo nước
sạch sẽ giảm được gánh nặng của các
bệnh truyền nhiễm, tăng cường sức khoẻ
và nâng cao chất lượng sống của người
dân. Các chính sách bảo đảm nước sách
cho người dân nhằm cải thiện cơ bản tình
hình sử dụng nước sạch của dân cư, đặc
biệt là dân nông thôn, vùng dân tộc thiểu
số, vùng khó khăn, vùng núi cao. Chính là
giảm thiểu tác động xấu do điều kiện nước
kém vệ sinh gây ra đối với sức khoẻ của
người dân.
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt
Chiến lược Quốc gia về nước sạch và vệ
sinh môi trường nông thôn đến năm 2020
và Chương trình mục tiêu quốc gia nước
sạch và vệ sinh môi trường nông thôn giai
đoạn 2012-2015 với ba dự án: (1) Cấp
nước sinh hoạt và môi trường nông thôn;
(2) Vệ sinh nông thôn và (3) Nâng cao
năng lực, truyền thông và giám sát, đánh
giá thực hiện Chương trình. Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số
134/2004/QĐ-TTg về một số chính sách
hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước
sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu
số nghèo, đời sống khó khăn.
Tuy nhiên, cơ chế lồng ghép các
chương trình, dự án trên địa bàn nông thôn
còn nhiều thách thức, đặc biệt là sự có mặt
của nhiều dự án, chương trình trên cùng
một địa bàn.
Kiến nghị:
Xây dựng Nghị định về cơ chế lồng
ghép các chương trình, dự án trên địa bàn
nông thôn theo hướng tăng cường phân
cấp tối đa cho chính quyền địa phương,
đến đối tượng thụ hưởng chính sách xã
hội; thí điểm trao quyền cho người dân,
cộng đồng trong triển khai các công trình
nước sạch.
5. Bảo đảm thông tin cho người
nghèo, vùng nghèo
Đảm bảo cho người dân ở mọi vùng
miền được thông tin kịp thời về các chính
sách của Đảng và Nhà nước, phát triển
kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội, khoa
học kỹ thuật nhằm rút ngắn khoảng cách
về thông tin giữa các vùng, miền; nâng
cao đời sống văn hóa tinh thần của người
dân ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng
xa, biên giới và hải đảo.
Ngày 18/01/2011, Thủ tướng Chính
phủ ban hành quyết định số 119/QĐ-TTg
về phê duyệt đề án phát triển thông tin,
truyền thông nông thôn giai đoạn 2011-
2020 với mục tiêu phát triển hệ thống viễn
thông, bưu điện, trung tâm thông tin, kênh
truyền hình, internet... góp phần thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản
xuất, dịch vụ, xoá đói giảm nghèo, nâng cao
dân trí khu vực nông thôn.
Ngày 5/9/2012, Thủ tướng Chính phủ
ban hành quyết định số 1212/QĐ- TTg về
Chương trình mục tiêu quốc gia đưa thông
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 38/Quý I- 2014
43
tin về cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa,
biên giới, hải đảo giai đoạn 2012-2015
nhằm rút ngắn khoảng cách về thông tin
giữa các vùng miền, nâng cao đời sống
văn hóa, tinh thần của người dân; ngăn
chặn, góp phần đảm bảo an ninh, quốc
phòng ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng
xa, biên giới và hải đảo.
Tuy nhiên, một bộ phận người nghèo,
nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số ở các
huyện nghèo, vùng sâu, vùng cao chưa
tiếp cận được thông tin; gần 90% hộ gia
đình chưa có máy thu thanh và khoảng
75% hộ gia đình chưa có máy thu hình;
còn 1.800 xã (chiếm 16,4% số xã, phường
cả nước) chưa có đài truyền thanh; nhiều
xã chưa thu được tín hiệu hoặc thu được
tín hiệu của đài phát thanh, truyền hình
nhưng chất lượng tín hiệu chưa đảm bảo.
Kiến nghị:
Đẩy mạnh thực hiện Đề án phát triển
thông tin, truyền thông nông thôn 2011-
2020 và Chương trình mục tiêu quốc gia
đưa thông tin về cơ sở miền núi, vùng sâu,
vùng xa, biên giới, hải đảo giai đoạn
2011-2015 và những năm sau; Ưu tiên
đầu tư, nâng cấp các trạm phát thanh,
truyền hình địa phương./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết trung ương số 15/NQ-
TW ban hành ngày 1/6/2012 về một số vấn
đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020
2. Nghị quyết số 70/NQ-CP ban hành
ngày 1/11/2012 về chương trình hành động
của Chính phủ thực hiện Nghị quyết
15/NQ/TW một số vấn đề chính sách xã hội
giai đoạn 2012-2020
3. Báo cáo quốc gia kiểm điểm định kỳ
quyền con người ở Việt nam, 2013
4. Bộ Lao động -Thương binh và Xã
hội, Báo cáo kết quả một năm thực hiện Nghị
quyết 15/NQ/TW một số vấn đề chính sách
xã hội giai đoạn 2012-2020, 2013
5. Bộ Lao động -Thương binh và Xã
hội, Báo cáo đánh giá chính sách an sinh xã
hội và tình hình thực hiện chính sách an sinh
xã hội giai đoạn 1994-2013, 2013
6. Bộ Lao động -Thương binh và Xã
hội, Đề án an sinh xã hội giai đoạn 2012-
2020, 2012
AN SINH XÃ HỘI CHO LAO ĐỘNG DI CƯ TRONG NƯỚC
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Ths. Nguyễn Thị Hồng Hạnh
Viện Khoa học Lao động và Xã hội
Tóm tắt: Bên cạnh những lợi ích mà lao động di cư trong nước mang lại thì hiện nay
họ cũng đang phải đối mặt với hàng loạt vấn đề như bị phân biệt giữa lao động di cư và lao
động địa phương, vi phạm hợp đồng lao động của chủ sử dụng. Vì thế, trong cuộc sống họ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- the_che_hoa_quy_dinh_cong_dan_co_quyen_duoc_bao_dam_ve_an_si.pdf