Bên cạnh đó, việc xây dựng hệ thống pháp luật về kinh doanh
của Đức nằm trong một tổng thể xây dựng nền kinh tế nhất định,
đó là “kinh tế thị trường xã hội” mà trong đó yếu tố cạnh tranh
lành mạnh được xem là yếu tố hàng đầu và chi phối tất cả các
lĩnh vực lập pháp khác. Vì vậy, khi xây dựng các văn bản pháp
luật chuyên ngành, mục tiêu của nhà làm luật là chỉ hướng tới
mục tiêu duy nhất: bảo đảm yếu tố tự do cạnh tranh lành mạnh.
Ngay cả sự tham gia của Nhà nước cũng được xem xét trên yếu
tố này. Do đó, mặc dù số lượng các văn bản pháp luật kinh doanh
của Đức không phải là ít nhưng các quy định pháp luật đều nằm
trong một chỉnh thể thống nhất vì chúng đều hướng tới bảo đảm
một nền kinh tế tự do cạnh tranh và lành mạnh.
Mặt khác, pháp luật kinh doanh của Đức cũng cho thấy đây
không phải là hệ thống pháp luật đóng khung mà luôn có tính
mở để phù hợp với sự vận động của nền kinh tế. Có thể lấy một
ví dụ đó là quy định về các loại hình công ty tại Đức phù hợp với
đa dạng các mục tiêu đầu tư, quy mô đầu tư của nhà đầu tư, nhà
đầu tư có thể thành lập công ty tại Đức chỉ với một EUR. Khi quy
mô kinh doanh lớn hơn thì nhà đầu tư bắt buộc phải chuyển sang
hình thức công ty tương ứng với quy mô lớn hơn Pháp luật kinh
doanh tại Đức không phải là hệ thống pháp luật “áp đặt” lên đời
sống kinh tế mà là để “phục vụ” nền kinh tế. Các quy định của
pháp luật chỉ đóng vai trò cung cấp các “phương tiện” - các hình
thức pháp lý cụ thể để nhà đầu tư công khai và minh bạch hoạt
động kinh doanh của mình. Điều này cũng là nằm trong mục tiêu
chung của định hướng phát triển nền “kinh tế thị trường xã hội”
mà Cộng hòa Liên bang Đức thực hiện.
299 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 259 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đăng ký thương mại phải được lập
bởi tất cả các thành viên hợp danh, được xác nhận và ký trước sự
Chương III: Thể chế pháp luật kinh tế Úc
275
chứng kiến của công chứng viên. Chi phí cho việc thành lập nhìn
chung khoảng 400EUR.
Công ty hợp danh hữu hạn (Limited Partnership - Komman-
ditgesellschaft - KG) là hình thức gần giống như công ty hợp danh
thương mại nhưng trách nhiệm của các thành viên hợp danh bị
giới hạn hơn. Hình thức công ty phù hợp với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ mong muốn tìm thêm các nguồn vốn tại thời điểm mới
thành lập nhưng giới hạn trách nhiệm của các thành viên. Công
ty hợp danh hữu hạn thường linh hoạt hơn so với các hình thức
công ty hợp danh khác như vốn có thể được gia tăng bằng cách
thêm các thành viên trách nhiệm hữu hạn.
Khác với công ty hợp danh thương mại, công ty hợp danh
hữu hạn có hai loại thành viên là thành viên hợp danh và thành
viên góp vốn. Phải có ít nhất một thành viên hợp danh chịu trách
nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình đối với nghĩa vụ của
công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản
nợ trong phần vốn của mình nhưng không được tham gia quản lý
công ty. Đơn đăng ký thương mại phải được lập bởi tất cả thành
viên hợp danh và được xác nhận trước một công chứng viên. Chi
phí cho việc đăng ký có thể khác nhau nhưng ở mức chung là 400
EUR.
Công ty hợp danh ẩn danh (Stille Gesellschaft - SG) là một
dạng của công ty hợp vốn đơn giản. Điểm khác biệt với công ty
hợp vốn đơn giản là công ty hợp danh ẩn danh có thành viên hiện
hữu và thành viên ẩn danh. Thành viên hiện hữu có các quyền và
nghĩa vụ như thành viên hợp danh của công ty hợp vốn đơn giản
còn thành viên ẩn danh chỉ thực hiện việc góp vốn vào công ty mà
không được ghi tên trong danh sách thành viên và không được
quyền quản lý công ty.
Công ty hợp danh chuyên nghiệp (Partnerschaftsgesetz -
PartG) về bản chất giống như công ty hợp danh nhưng thành
Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới
276
viên hợp danh chỉ có thể là các cá nhân hoạt động trong các lĩnh
vực đặc biệt như pháp luật, khám chữa bệnh Công ty hợp danh
chuyên nghiệp không có tư cách pháp nhân nhưng phải được
đăng ký thành lập tại một cơ quan đăng ký riêng và chịu sự kiểm
tra nghiêm ngặt. Chế độ chịu trách nhiệm của các thành viên hợp
danh cũng giống như công ty hợp danh thông thường, chỉ khác là
trách nhiệm được gắn liền với hành vi mà thành viên thực hiện.
Một thành viên không phải liên đới chịu trách nhiệm về hành vi
do thành viên khác thực hiện nếu không liên quan đến việc thực
hiện hành vi đó.
Công ty hợp danh cổ phần (Kommanditgesellschaft auf
Aktien - KGaA) là sự kết hợp cấu trúc của công ty cổ phần và
công ty hợp vốn đơn giản; giữa những thỏa thuận mang tính kinh
doanh, vai trò, vị trí của trách nhiệm cá nhân của cổ đông và đặc
tính về cơ cấu tổ chức, nguồn vốn của một công ty cổ phần đại
chúng. Ưu điểm của công ty hợp danh cổ phần là được quyền phát
hành cổ phần để huy động vốn của công chúng theo các quy định
của Luật chứng khoán. Công ty hợp danh cổ phần hoạt động theo
quy định của Luật công ty cổ phần.
Công ty đối vốn hợp danh không có sự giới hạn về số lượng
nhà đầu tư (các thành viên có trách nhiệm hữu hạn), là thành
viên có trách nhiệm pháp lý tương ứng với tỷ lệ vốn góp của từng
người. Thành viên trách nhiệm hữu hạn ít nhiều có quyền như
cổ đông trong công ty cổ phần, tuy nhiên, không được tham gia
vào quá trình quản lý công ty. Mỗi công ty hợp danh cổ phần có ít
nhất một thành viên hợp danh (thành viên trách nhiệm chung) có
nghĩa vụ đối với nợ và trách nhiệm của công ty hợp danh đối vốn.
Công ty hợp danh đối vốn có tư cách pháp lý sau khi được đăng ký
thương mại với Văn phòng Thương mại địa phương.
Bên cạnh hệ thống pháp luật trong nước, các công ty tại Đức
còn phải tuân theo các quy định pháp luật của Liên minh Châu
Chương III: Thể chế pháp luật kinh tế Úc
277
Âu, cụ thể ở đây là Luật công ty của Liên minh Châu Âu. Theo
đó, công ty của Liên minh Châu Âu có thể được thành lập và hoạt
động kinh doanh tại Đức, tổ chức theo loại hình công ty cổ phần
chịu sự điều chỉnh của Luật công ty cổ phần.
Nhìn chung, các quy định về công ty của Đức phản ánh rõ
nét sự linh hoạt và mềm dẻo của hệ thống các quy phạm pháp
luật, phù hợp sự biến chuyển không ngừng của nền kinh tế. Các
quy định này không chỉ phục vụ cho mục tiêu quản lý của Nhà
nước mà còn phục vụ đắc lực cho sự phát triển một cách trật tự,
minh bạch của nền kinh tế. Các hình thức công ty được thiết lập
phù hợp với nhu cầu đầu tư và kinh doanh đa dạng của cá nhân,
tổ chức, tạo điều kiện và khuyến khích nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư
kinh doanh, qua đó, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
5.2. Pháp luật về mua bán, sáp nhập, giải thể, phá sản
5.2.1. Các quy định về mua bán, sáp nhập
Ở Đức không có luật riêng quy định về việc sáp nhập và mua
bán công ty. Mỗi giao dịch sẽ được thực hiện theo các quy định
pháp luật chung có liên quan. Một số văn bản điều chỉnh vấn đề
mua bán, sáp nhập công ty gồm:
(1) Bộ luật thương mại;
(2) Luật công ty cổ phần;
(3) Luật công ty trách nhiệm hữu hạn;
(4) Luật về các giao dịch;
(5) Luật kinh doanh chứng khoán;
(6) Luật về sở giao dịch chứng khoán;
(7) Bộ luật dân sự.
Các giao dịch mua bán giữa các công ty Đức với nhau hoặc
giữa một công ty nước ngoài và công ty trong nước có thể được
phân thành hai loại là (1) mua bán cổ phần/phần vốn và (2)
Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới
278
mua tài sản. Giao dịch mua tài sản có đặc trưng là có sự chuyển
nhượng một tài sản nhất định giữa người bán và người mua. Các
bên quyết định tài sản sẽ được bán và được mua, có thể quyết
định toàn bộ hoặc một phần giao dịch. Để có giá trị pháp lý, mỗi
giao dịch mua bán tài sản phải xác định các tài sản mua bán và
nghĩa vụ, trách nhiệm của từng bên. Thông thường, những nội
dung này sẽ được xác định rõ trong hợp đồng mua bán hoặc thỏa
thuận chuyển giao tài sản. Theo quy định của pháp luật Đức, các
loại giấy phép hoặc sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cũng phải được chuyển giao khi thực hiện mua bán, sáp
nhập công ty. Đối với các giao dịch mà một bên là nhà đầu tư nước
ngoài thì bên nước ngoài tốt hơn hết là nên thành lập một công ty
ở Đức để thực hiện việc mua bán.
Mua bán cổ phần/phần vốn thường đơn giản hơn so với mua
bán tài sản vì chỉ gồm việc chuyển nhượng một phần hoặc toàn
bộ cổ phần/phần vốn trong công ty. Trong thỏa thuận mua bán
cổ phần/phần vốn, các tài sản, quyền và trách nhiệm của công ty
mục tiêu cũng được chuyển giao. Giao dịch mua bán phần vốn/
vốn góp thường phổ biến ở Đức vì yêu cầu rất ít các loại giấy tờ
và công ty mục tiêu có thể tiếp tục các hoạt động kinh doanh như
trước.
Luật chuyển đổi Đức (German Transformation Act) là khung
pháp lý quan trọng liên quan đến sáp nhập công ty. Một công ty
Đức có thể được tái cơ cấu thông qua sáp nhập, chia tách, chuyển
nhượng tài sản bằng tiền hoặc thay đổi hình thức pháp lý theo
quy định của Luật chuyển đổi Đức. Với bất kể hình thức nào thì
thỏa thuận giữa các bên phải được dự thảo trước. Bước thứ hai
là báo cáo hoàn thiện các thông tin về tái cấu trúc phải được đệ
trình lên chủ sở hữu. Dựa vào báo cáo, quyết định tái cấu trúc sẽ
được thông qua. Khi việc sáp nhập hoàn thành thì Cơ quan đăng
ký Thương mại phải được thông báo về giao dịch này.
Chương III: Thể chế pháp luật kinh tế Úc
279
5.2.2. Các quy định về giải thể
Công ty có thể giải thể thông qua thủ tục giải thể bắt buộc
hoặc thủ tục giải thể tự nguyện. Trình tự thủ tục giải thể tự
nguyện được đưa ra chỉ bởi thành viên của công ty trong một cuộc
họp thành viên, trong khi đó, thủ tục giải thể bắt buộc được đưa
ra bởi Tòa án có thẩm quyền. Một số văn bản điều chỉnh quá trình
giải thể của công ty gồm:
Bộ luật thương mại;(1)
Bộ luật dân sự;(2)
Luật công ty cổ phần;(3)
Luật công ty trách nhiệm hữu hạn;(4)
Bộ luật công nghiệp.(5)
Giải thể tự nguyện, về trình tự thủ tục, được quyết định bởi
ít nhất 50% số phiếu có quyền biểu quyết tại cuộc họp thành viên,
trừ khi điều lệ công ty quy định một tỷ lệ khác. Trước khi bắt đầu
quá trình giải thể, việc cần thiết là phải chuẩn bị một báo cáo cân
đối, trong đó có chứa tên và địa chỉ của giải thể viên là người phụ
trách việc giải thể (liquidator) cũng như tên và địa chỉ của người
có trách nhiệm giữ sổ sách của công ty sau khi giải thể. Giải thể
viên thường là thành viên tiền nhiệm trong các hội đồng quản lý
của công ty và có cùng thẩm quyền quản lý các lợi ích có thể phát
sinh trong quá trình giải thể công ty.
Bước đầu tiên trong tiến trình giải thể công ty là phải gửi
thông báo cho Cơ quan đăng ký thương mại Đức, trong đó tuyên
bố việc giải thể hoặc không thể có lý do nào khác để không giải
thể công ty. Quyết định giải thể phải được công khai tại Hệ thống
thông tin điện tử của Đức (German Electronic Federal Gazette)
và các chủ nợ phải được thông báo về quyết định giải thể và trình
tự đệ trình các yêu cầu đòi nợ.
Các yêu cầu đòi nợ từ các chủ nợ đầu tiên phải được thống kê
và nếu trong vòng một năm từ khi có quyết định giải thể mà vẫn
Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới
280
còn tài sản thì tài sản phải được phân phối lại cho các chủ sở hữu
theo các thỏa thuận quy định trong điều lệ công ty.
Cơ quan đăng ký kinh doanh chỉ chấp nhận việc giải thể nếu
thông báo về giải thể được gửi tới các chủ nợ trong vòng thời hạn
một năm trước đó. Trong trường hợp này, công ty phải đệ trình
quyết định giải thể và phải có bằng chứng chứng minh rằng các
chủ nợ đã được thông báo về việc giải thể công ty.
Giải thể công ty bắt buộc, về trình tự thủ tục cũng giống như
giải thể tự nguyện nhưng quyết định giải thể do Tòa án đưa ra và
Tòa án là người giám sát toàn bộ quá trình đó. Công ty có nghĩa
vụ thông báo cho các cơ quan địa phương như cơ quan bảo hiểm
tiền lương Đức (German pension insurance scheme), Cơ quan lao
động Liên bang (Federal Employment Agency) và các cơ quan
thuế địa phương.
Giải thể công ty tại Đức thông thường kéo dài trên 1 năm vì
chấp thuận từ cơ quan đăng ký kinh doanh không thể thực hiện
sớm hơn một năm từ khi thông báo đầu tiên tới các chủ nợ.
5.2.3. Các quy định về phá sản
Luật phá sản hiện hành có hiệu lực từ ngày 1/1/1999 trên cơ
sở kế thừa những hạt nhân hợp lý từ Luật phá sản (Bankruptcy
Statute), Luật giải quyết tranh chấp (Settlement Statute), Luật
thực thi tổng thể (Act on Collective Enforcement) và chính thức
tạo ra một luật duy nhất về phá sản cho Đức. Khác với các quy
định của luật cũ, Luật phá sản mới chỉ quy định về một loại trình
tự phá sản; khi thực hiện thủ tục phá sản sẽ dẫn tới một trong hai
hậu quả pháp lý, tổ chức lại doanh nghiệp hoặc thanh lý doanh
nghiệp phá sản.
Các thủ tục phá sản được bắt đầu theo yêu cầu của doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản (debtor) hoặc của chủ nợ
(creditor) nếu con nợ bị lâm vào tình trạng phá sản. Trình trạng nợ
quá hạn là một trong các căn cứ để đưa ra yêu cầu. Tuy nhiên, nếu
Chương III: Thể chế pháp luật kinh tế Úc
281
doanh nghiệp lâm vào phá sản tự đưa ra yêu cầu thì các thủ tục có
thể bắt đầu ngay, thậm chí ngay khi mới chỉ có nguy cơ phá sản.
Sau khi nhận được yêu cầu, Tòa phá sản182 (Insolvency
Court) sẽ ngay lập tức bổ nhiệm một Quản tài viên, đồng thời ban
hành lệnh cấm các chủ nợ có hành vi gây áp lực cũng như cấm
con nợ chuyển quyền sở hữu hoặc phải có sự đồng ý của Quản tài
viên về chuyển quyền sở hữu tài sản cho đến khi một quyết định
về trình tự phá sản được thực hiện. Quản tài viên có trách nhiệm
duy trì và bảo vệ các tài sản của con nợ trừ khi Tòa phá sản quyết
định và xác định rằng tài sản của con nợ không đủ để trang trải
các chi phí cho thủ tục phá sản.
Thông thường, Quản tài viên được bổ nhiệm ngay khi trình
tự phá sản bắt đầu. Tòa phá sản cũng có thể bãi bỏ sự bổ nhiệm
này nếu các chủ nợ ủy thác cho một người khác. Ít nhất 3 tháng
sau khi trình tự phá sản được khởi động, trên cơ sở báo cáo do
Quản tài viên chuẩn bị, các chủ nợ sẽ họp để quyết định về vấn
đề doanh nghiệp được thanh lý hay được tổ chức lại.
Có sự phân biệt giữa hai loại chủ nợ là chủ nợ có bảo đảm
và chủ nợ không có bảo đảm. Bên cạnh đó, trong một số giao dịch
của công ty liên quan đến bán hàng hóa mà chưa thu tiền hoặc đã
vận chuyển hàng mà chưa thanh toán thì các động sản này vẫn
được xem là tài sản của công ty. Vì khi đó, tiền chưa thanh toán
cũng được coi là khoản nợ của công ty với bên thứ ba, là một tài
sản của công ty. Các tài sản sẽ được giao cho Quản tài viên quản
lý. Quản tài viên có trách nhiệm xác định giá trị tài sản bảo đảm
và các loại thuế thu nhập phải nộp trong quá trình bán tài sản.
Trường hợp doanh nghiệp phá sản bị thanh lý thì các chủ nợ có
bảo đảm sẽ được ưu tiên trước, còn các chủ nợ không có bản đảm
chỉ có thể được trả nợ theo một tỷ lệ nhất định.
182Khái niệm “Tòa phá sản” được sử dụng để thể hiện thẩm quyền của một loại cơ quan Tòa án chứ không
có có Tòa đặc biệt và riêng rẽ về phá sản. Theo pháp luật Đức, thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá
sản (doanh nghiệp và dân sự) thuộc Tòa án khu vực (Amtsgericht).
Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới
282
Người lao động nhận được sự bảo đảm từ khoản tiền phá
sản, gồm tiền lương trong khoảng thời gian tối đa 3 tháng. Ngoài
ra, theo thông lệ, người lao động phải được trả khoản lương dự
phòng khi doanh nghiệp đóng cửa (Chương trình thanh toán dự
phòng - Redundancy payment scheme). Ngoài ra, Luật phá sản
cũng đưa ra trình tự đặc biệt để tổ chức lại doanh nghiệp. Kế
hoạch này được đưa ra bởi Quản tài viên và các chủ nợ và được
thông qua theo quyết định của đa số chủ nợ.
Quy trình phá sản gồm 3 giai đoạn. Đầu tiên, doanh nghiệp
bị lâm vào tình trạng phá sản phải đạt được một thỏa thuận ngoài
Tòa án với các chủ nợ. Nếu quá trình này không thành công thì
thủ tục phá sản sẽ được tiếp tục diễn ra tại Tòa án. Tiếp đó, Tòa
án sẽ cố gắng một lần nữa nhằm giúp doanh nghiệp phá sản và
các chủ nợ đạt được thỏa thuận về tổ chức lại doanh nghiệp theo
yêu cầu của doanh nghiệp phá sản. Tại đây, nếu thỏa thuận về tổ
chức lại doanh nghiệp đạt được thì doanh nghiệp phá sản sẽ được
giải trừ khỏi các nghĩa vụ. Nếu không, trình tự phá sản sẽ được
thực hiện.
Việc thực hiện thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp có yếu
tố nước ngoài được thực hiện theo quy định của Điều 102 Luật
phá sản. Quá trình này có thể bao gồm cả các tài sản của con nợ
tại quốc gia khác nếu Tòa án xử lý phá sản có thẩm quyền tài
phán quốc tế.
VI. PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
Hệ thống pháp luật về hợp đồng của Đức chịu nhiều ảnh
hưởng bởi các triết lý về hợp đồng của pháp luật La Mã. Hệ thống
này lấy Bộ luật dân sự là bộ luật gốc, từ đó phát triển các luật
chuyên ngành. Các văn bản pháp luật điều chỉnh về hợp đồng
hiện nay tại Đức gồm:
Bộ luật dân sự; (1)
Chương III: Thể chế pháp luật kinh tế Úc
283
Bộ luật thương mại;(2)
Luật các điều kiện giao dịch chung;(3)
Luật tín dụng tiêu dùng;(4)
Luật công ty cổ phần;(5)
Luật công ty trách nhiệm hữu hạn;(6)
Luật hoạt động kinh tế tập thể;(7)
Luật chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh;(8)
Luật chống hạn chế cạnh tranh. (9)
Bên cạnh pháp luật quốc gia, các nguồn luật quốc tế cũng có
một vị trí nhất định khi điều chỉnh các vấn đề về hợp đồng như
Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Ngoài ra,
Đức còn là thành viên của Liên minh Châu Âu nên các quan hệ hợp
đồng còn chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật của Liên
minh Châu Âu như các quy định về thương mại điện tử, thanh
toán trong giao dịch thương mại. Bên cạnh đó, các án lệ cũng có
vai trò trong việc điều chỉnh các quan hệ hợp đồng tại Đức.
Về nội dung, pháp luật về hợp đồng của Đức điều chỉnh các
nội dung cơ bản gồm các quy định chung về hợp đồng, các yếu
tố ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng, các loại nghĩa vụ phát
sinh từ hợp đồng, giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng và trách
nhiệm do vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng
Về khái niệm hợp đồng, không có điều khoản trực tiếp đưa ra
khái niệm hợp đồng mà khái niệm này được xem xét trên cơ sở các
quy định về giao dịch pháp lý và nghĩa vụ. Do đó, hợp đồng được
hiểu là giao dịch pháp lý hình thành từ sự thỏa thuận giữa ít nhất
hai bên, trong đó thể hiện ý chí của bên này đối với bên kia183.
Yếu tố tự do giao kết hợp đồng có vai trò quan trọng trong
chế định hợp đồng của Đức. Đây là một trong những quyền cơ bản
183TS. Võ Thị Lan Anh, “Chế định hợp đồng trong pháp luật của Cộng hòa Liên bang Đức”, Tạp chí Luật
học số 9/2011
Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới
284
của công dân được tuyên bố trong Luật cơ bản và được Nhà nước
bảo vệ. Đương nhiên, tự do hợp đồng không phải là không có giới
hạn. Pháp luật về cạnh tranh cũng đưa ra một số trường hợp giới
hạn sự thỏa thuận giữa các công ty có vị trí độc quyền khi thỏa
thuận đó có nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh hoặc
quyền lợi của người tiêu dùng.
Về giao kết hợp đồng, pháp luật Đức giống với pháp luật của
các quốc gia theo dòng họ pháp luật Châu Âu lục địa khác, quy
định về thời điểm hợp đồng hình thành là thời điểm bên đề nghị
nhận được chấp nhận đề nghị với điều kiện chấp nhận đó không
bị rút lại trước hoặc tại thời điểm nhận được chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng. Đề nghị được coi là đã nhận được nếu đã được
chuyển vào hộp thư của bên được đề nghị và có hiệu lực từ ngày
hôm sau, cho dù có thể ngày hôm đó bên được đề nghị hoàn toàn
không mở hộp thư.
Về hình thức hợp đồng, nếu pháp luật quy định hình thức
hợp đồng phải bằng được lập thành văn bản thì hợp đồng phải có
chữ ký tay hoặc chữ ký tắt và được công chứng. Một số hợp đồng
bắt buộc lập thành văn bản là: hợp đồng tặng cho tài sản, thế chấp,
cho thuê tài sản với thời hạn trên một năm, hợp đồng bảo đảm...
Ngoài ra, một số hợp đồng phải được công chứng như hợp đồng
liên quan đến bất động sản. Các hợp đồng mà pháp luật không có
yêu cầu phải lập thành văn bản thì có thể được giao kết bằng lời
nói hoặc hành vi, có thể được thể hiện dưới hình thức điện tử.
Ngoài các quy định của Bộ luật dân sự, quan hệ hợp đồng
tại Đức còn chịu sự điều chỉnh của khá nhiều quy định pháp
luật chuyên ngành, đặc biệt là các quy định của Bộ luật thương
mại Đức. Về lịch sử hình thành, vào thời trung cổ, hệ thống các
nguyên tắc điều chỉnh giao dịch của thương nhân tồn tại độc lập,
được quy định thống nhất tại Luật thương nhân với phạm vi áp
dụng trên toàn Châu Âu. Sau này, tại Anh, các nguyên tắc được
sáp nhập vào luật chung (thông luật); tại các quốc gia khác, trong
Chương III: Thể chế pháp luật kinh tế Úc
285
đó có Cộng hòa Liên bang Đức, đây vẫn là một bộ phận độc lập.
Bộ luật thương mại chung của Đức là hiện thân của Luật thương
nhân. Khi Bộ luật dân sự năm 1897 được ban hành, có nhiều quy
tắc áp dụng chỉ dành cho các giao dịch của thương nhân thể hiện
trong luật chung; do đó, cần thiết phải sửa đổi lại Bộ luật thương
mại Đức trên cơ sở điều chỉnh các vấn đề cụ thể hơn.
Trong mối quan hệ với Bộ luật dân sự, Bộ luật thương mại
là một bộ phận của Bộ luật dân sự điều chỉnh các quan hệ thương
mại (luật chuyên ngành), là tập hợp các quy định pháp luật liên
quan đến mối quan hệ giữa thương nhân và đối tác kinh doanh
của thương nhân cũng như sự cạnh tranh và mối quan hệ liên kết
giữa các chủ thể kinh doanh. Ngoài ra, các nội dung về tài chính
kế toán cũng được thực hiện theo quy định tại Bộ luật thương
mại. Lý do cần có sự phân biệt là vì giao dịch giữa các thương
nhân với nhau không giống như giao dịch giữa thương nhân và
người tiêu dùng; thời gian giao dịch ngắn; có sự khác biệt về năng
lực, quy mô và đặc biệt là mâu thuẫn về lợi ích thường phát sinh
trong các quan hệ pháp luật thương mại. Nếu những vấn đề này
không được giải quyết thì có thể xảy ra bất đồng giữa các bên và
dẫn tới thiệt hại tới lợi ích của cả hai bên. Do đó, so với các quy
định của Bộ luật dân sự, các quy định của Bộ luật thương mại
Đức chủ yếu tập trung giải quyết vấn đề này. Đây được coi là “Bộ
luật dân sự đặc biệt” điều chỉnh các vấn đề đặc trưng của quan hệ
pháp luật thương mại.
VII. PHÁP LUẬT VỀ CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ, ĐIỀU TIẾT
KINH TẾ
7.1. Cơ quan chống độc quyền
7.1.1. Pháp luật về cạnh tranh và chống độc quyền
Trong nền kinh tế thị trường, các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh có nguy cơ gây ra sự bất ổn rất lớn tới trật tự của thị
trường. Các hành vi này không chỉ xâm hại lợi ích của các tổ chức,
Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới
286
cá nhân mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước.
Pháp luật về cạnh tranh và chống độc quyền được xem là công cụ
hữu hiệu để điều chỉnh vấn đề này.
Ở Đức, pháp luật về cạnh tranh và chống độc quyền là lĩnh
vực tư, khác với quan niệm hiện nay ở Việt Nam cho rằng pháp
luật về cạnh tranh và chống độc quyền là pháp luật công, nghĩa
là chủ yếu điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước với các chủ thể
có hành vi vi phạm. Pháp luật về cạnh tranh của Đức là một bộ
phận của pháp luật kinh doanh, điều chỉnh sự can thiệp của Nhà
nước vào các tiến trình kinh tế và cạnh tranh184. Ở đây, có thể
nhận thấy vai trò rất lớn của Tòa án trong việc giải quyết các vụ
kiện dân sự về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Khác với Pháp và Anh, Đức sử dụng pháp luật chuyên ngành
để điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh thông qua
Luật cạnh tranh không lành mạnh. Rất nhiều hành vi cạnh tranh
không lành mạnh điển hình đã được quy định trong Luật và Luật
đã trở thành cơ sở pháp lý quan trọng trong cho việc ngăn ngừa
và xử phạt những cạnh tranh không lành mạnh. Tùy thuộc vào
mức độ điều tiết kinh tế trong từng thời kỳ khác nhau mà quy
định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ được sửa đổi,
bổ sung tương ứng.
Một số văn bản điều chỉnh vấn đề cạnh tranh và chống độc
quyền gồm:
Luật cạnh tranh không lành mạnh; (1)
Quy chế kiểm soát sáp nhập và bình đẳng của Liên (2)
minh Châu Âu;
Luật chống độc quyền;(3)
Luật chống độc quyền của Liên minh Châu Âu;(4)
184PGS.TS Bùi Nguyên Khánh, “Chức năng của luật tư trong việc bảo vệ trật tự cạnh tranh từ góc độ nghiên
cứu so sánh giữa pháp luật cạnh tranh không lành mạnh của Việt Nam và CHLB Đức”, Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật số 10/2007.
Chương III: Thể chế pháp luật kinh tế Úc
287
Các hành vi thương mại không lành mạnh được điều chỉnh
bởi Luật cạnh tranh không lành mạnh. Bên cạnh đó, một số nội
dung liên quan đến quá trình tự do hóa và bãi bỏ trong một số
ngành công nghiệp đặc thù còn chịu sự điều chỉnh của các luật
chuyên ngành. Ví dụ, các ngành công nghệ viễn thông tuân theo
các quy định của Luật viễn thông và một số thông tư liên quan
ban hành bởi Cơ quan về viễn thông và bưu điện. Hoặc vấn đề
năng lượng thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật năng lượng.
Ngoài ra, việc bãi bỏ và tự do hóa các ngành công nghiệp chịu còn
sự điều chỉnh của Luật chống độc quyền của Cộng hòa Liên bang
Đức, Luật chống độc quyền của Châu Âu.
Về chế tài, Điều 1 Luật cạnh tranh không lành mạnh quy
định rằng trong thương mại, vì mục đích cạnh tranh, các hành vi
xâm phạm các chuẩn mực đạo đức kinh doanh đều là đối tượng
của yêu cầu bồi thường thiệt hại. Ở Đức, các chế tài áp dụng với
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh chủ yếu là chế tài dân
sự và chế tài hình sự. Tuy nhiên, chế tài hình sự chỉ áp dụng trong
số ít các trường hợp và ngày càng có xu hướng giảm vai trò; trong
khi đó, các chế tài dân sự ngày càng được sử dụng nhiều hơn.
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được ngăn ngừa thông
qua cơ chế tự giám sát lẫn nhau giữa các đối thủ cạnh tranh và
nguyên tắc tự vận hành của thị trường. Do đó, các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh chủ yếu được ngăn chặn bởi trách nhiệm
dân sự và được coi là nhánh phát triển đặc biệt của pháp luật
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng185. Hệ thống
trách nhiệm pháp lý này được quy định rất chi tiết và cụ thể.
Bên cạnh việc áp dụng chủ yếu trách nhiệm dân sự, nhằm
huy động sức mạnh của nhiều lực lượng tham gia vào công tác
chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh, các quy định pháp
185PGS.TS Bùi Nguyên Khánh, Chức năng của luật tư trong việc bảo vệ trật tự cạnh tranh từ góc độ nghiên
cứu so sánh giữa pháp luật cạnh tranh không lành mạnh của Việt Nam và CHLB Đức, Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật số 10/2007.
Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới
288
luật còn cho phép không chỉ người bị thiệt hại mà các đối thủ cạnh
tranh, các hiệp hội nghề nghiệp, hiệp hội bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng đều có thể khởi kiện các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh. Thông qua đó, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
của các doanh nghiệp bị giám sát và kiểm tra, theo dõi từ nhiều
kênh thông tin và sức mạnh thị trường, đủ để gây sức ép với các
doanh nghiệp.
Ở Đức không tồn tại cơ quan chuyên biệt có trách nhiệm
giám sát và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Dù
có một cơ quan gọi là Văn phòng Chống Các-ten Liên bang Đức
nhưng cơ quan này chỉ có trách nhiệm thi hành Luật chống độc
quyền của Đức và Luật chống độc quyền của Liên minh Châu Âu
mà không phải là cơ quan chuyên biệt giám sát và xử lý các hành
vi cạnh tranh không lành mạnh. Sở dĩ có điều này là vì việc xử lý
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh chủ yếu được thực hiện
qua cơ chế của thị trường và theo trách nhiệm dân sự, trong một
môi trường mà các quy tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường đã
được định hình và trở thành chuẩn mực cũng như ý thức pháp
luật của các chủ thể tham gia thị trường đã phát triển ở một
mức độ nhất định. Do đó, việc ngăn ngừa các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh không phải là trách nhiệm của một cơ quan mà
là trách nhiệm của toàn xã hội và cộng đồng.
7.1.2. Cục Chống độc quyền Liên bang (Cục Các-ten)
Cục Chống độc quyền Liên bang (Federal Cartel Office) là
cơ quan Liên bang độc lập có nhiệm vụ bảo đảm sự cạnh tranh
lành mạnh của nền kinh tế thị trường tại Đức, là yếu tố cơ bản và
quan trọng hàng đầu của của nền kinh tế thị trường xã hội. Cục
Chống độc quyền được phân cấp thẩm quyền bởi Bộ Kinh tế và
Năng lượng Liên bang, có trụ sở tại thành phố Bonn với khoảng
330 nhân viên.
Chương III: Thể chế pháp luật kinh tế Úc
289
Nhiệm vụ chính của Cục Chống độc quyền Liên bang là tổ
chức thực hiện và thực thi các quy định của Luật chống hạn chế
cạnh tranh (Act against Restraint of Competition - ARC); cụ thể
như: cấm việc thành lập các các-ten là các tập đoàn có tính độc
quyền lũng đoạn; cấm các thỏa thuận về giá; kiểm soát việc sáp
nhập tạo ra vị trí độc quyền; kiểm soát các hành vi lạm dụng của
các công ty độc quyền; kiểm tra, rà soát các trình tự thủ tục của
các hợp đồng công (public contract) của Liên bang. Ngoài ra, từ
năm 2005, Cục Chống độc quyền Liên bang còn thực hiện việc
kiểm tra ngành để theo dõi mức độ cạnh tranh trong khu vực tư.
Cục Chống độc quyền Liên bang hoàn toàn độc lập trong
việc đưa ra các quyết định của mình, dựa trên các tiêu chí về cạnh
tranh. Có quan điểm cho rằng, có nhiều vấn đề và mục tiêu chính
trị, kinh tế, xã hội quan trọng hơn là bảo đảm tính cạnh tranh
của thị trường; tuy nhiên, đó không phải là trách nhiệm của Cục
Chống độc quyền Liên bang. Nhiệm vụ duy nhất của cơ quan này
là bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh của nền kinh tế.
7.2. Cơ quan Giám sát Ngân hàng Liên bang
Cơ quan Giám sát Tài chính Liên bang (Federal Finance
Supervision Authority - BaFin) là thiết chế độc lập hoạt động
theo quy định của luật (by-laws), thành lập ngày 01/5/2002 trên
cơ sở hợp nhất Văn phòng Giám sát Ngân hàng Liên bang, Văn
phòng Giám sát Chứng khoán Liên bang và Văn phòng Giám sát
Bảo hiểm Liên bang. BaFin tổ chức và hoạt động theo các quy
định của Luật dịch vụ tài chính và tài chính hợp nhất (Financial
Services and Integration Act). Các hoạt động giám sát của BaFin
được ghi nhận tại Mission Statement. Theo đó, chức năng của
BaFin là giới hạn thấp các rủi ro từ hệ thống tài chính của Đức ở
cấp độ quốc gia và quốc tế để bảo đảm sự hoạt động bình thường,
ổn định và minh bạch của hệ thống tài chính Đức, duy trì niềm
tin của các khách hàng tín dụng, khách hàng bảo hiểm và nhà
Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới
290
đầu tư. BaFin thực hiện chức năng giám sát hoạt động của ngân
hàng và các thiết chế cung cấp dịch vụ tài chính, thực hiện bảo
hiểm và các giao dịch chứng khoán. Với sự giám sát độc lập của
mình, BaFin giúp bảo đảm khả năng thanh khoản của các ngân
hàng, các dịch vụ tài chính và khoản tiền bảo đảm cho các công
ty bảo hiểm. Thông qua việc giám sát các hoạt động ngân hàng,
BaFin thực thi các tiêu chuẩn chuyên nghiệp để bảo đảm niềm tin
của nhà đầu tư vào thị trường tài chính. BaFin cũng ngăn chặn
các hoạt động kinh doanh tài chính không được phép.
Cơ quan Giám sát Tài chính Liên bang chịu sự giám sát
pháp lý của Bộ Tài chính đối với các vấn đề kỹ thuật; hoạt động
bằng các khoản phí thu từ các tổ chức và đơn vị là đối tượng giám
sát của cơ quan này. BaFin có khoảng 2.535 nhân viên làm việc
tại thành phố Bonn và Frankfurt. Tính đến 31/12/2014, BaFin
giám sát 1.780 ngân hàng, 676 thiết chế cung cấp dịch vụ tài
chính, 537 công ty bảo hiểm và 31 quỹ hưu trí cũng như 6.000 quỹ
đầu tư và khoảng 260 công ty quản lý tài sản.
7.3. Ngân hàng Dự trữ Liên bang
Ngân hàng Dự trữ Liên bang (Federal Reserve Bank) là ngân
hàng trung ương của Cộng hòa Liên bang Đức, còn gọi là ngân
hàng của các ngân hàng. Từ năm 1999, nó là một bộ phận của hệ
thống Châu Âu, chia sẻ trách nhiệm với các ngân hàng trung ương
khác và ngân hàng trung ương Châu Âu đối với đồng tiền chung
EUR. Hội đồng quản trị của Ngân hàng trung ương hiện nay gồm
6 thành viên, một nửa được cử ra bởi chính quyền trung ương và
một nửa được cử ra bởi Hội đồng địa phương (Bundesrat), tất cả
các thành viên sẽ được bổ nhiệm bởi Thủ tướng. Ngân hàng Dự trữ
Trung ương là một cấu trúc đặc biệt với chính quyền Liên bang.
Về tổ chức, Ngân hàng Dự trữ Trung ương có khoảng 10.000 nhân
viên, có trụ sở chính tại Frankfurt an Main và 9 văn phòng khu
vực và 38 chi nhánh ở khắp nước Đức. Ngân hàng Dự trữ Trung
Chương III: Thể chế pháp luật kinh tế Úc
291
ương sử dụng mạng thông tin quốc gia để thực hiện các hoạt động
của mình trong lĩnh vực tái cấu trúc tài chính, cung cấp tiền mặt,
thanh toán không tiền mặt và giám sát ngân hàng.
Quan trọng hơn các mục tiêu bảo đảm sự ổn định mức giá
chung và hệ thống tài chính Ngân hàng Dự trữ Trung ương, chủ
yếu tập trung vào các mục tiêu dài hạn và sự công bằng hướng
tới bảo đảm các lợi ích cá nhân. Ngân hàng Dự trữ Trung ương
cũng hỗ trợ tài chính cho nền kinh tế và chính sách tiền tệ. Khi
Ngân hàng Dự trữ Trung ương Đức tham gia của Ngân hàng Dự
trữ Trung ương Đức vào hệ thống Châu Âu, việc thống nhất thị
trường tài chính quốc tế và những tiến bộ trong lĩnh vực thanh
toán và tài chính đã đặt ra những thách thức mới đối với các
chính sách ổn định. Để đối diện với các thách thức, Ngân hàng
xác định 5 lĩnh vực hoạt động chính, gồm:
Điều hành chính sách tiền tệ: nhiệm vụ cơ bản của Ngân
hàng Dự trữ Trung ương là điều hành chính sách tiền tệ trong hệ
thống kinh tế Cộng đồng Châu Âu, có sự phối hợp với Ngân hàng
Trung ương Châu Âu (ECB), nhằm duy trì sự ổn định về tỷ giá
trong khu vực Châu Âu. Sự ổn định về giá cả sẽ thúc đẩy phát
triển kinh tế và các vấn đề an sinh xã hội trong ngắn hạn, bảo vệ
người tiết kiệm và những chủ thể khác với một mức lợi tức nhất
định khi xảy ra lạm phát. Chủ tịch của Ngân hàng Dự trữ Trung
ương Đức là một thành viên độc lập, đại diện cho Cộng hòa Liên
bang Đức có quyền phủ quyết trong Hội đồng Giám sát của ECB
và tham gia vào quá trình quyết định các chính sách tiền tệ hàng
tháng. Để thực hiện công việc này, Chủ tịch được cố vấn bởi một
đội ngũ các chuyên gia kinh tế, chuyên gia phân tích thống kê và
chuyên gia tiền tệ.
Hệ thống tiền tệ và tài chính: một lĩnh vực hoạt động khác
nữa của Ngân hàng Dự trữ Trung ương là ngăn chặn các khủng
hoảng tài chính ở cấp độ quốc tế và quốc gia. Các khủng hoảng tài
Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới
292
chính như sự phá sản hàng hoạt các ngân hàng đã tác động đến
tăng trưởng và việc làm. Ngoài ra, các khủng hoảng tài chính nếu
xảy ra sẽ làm bế tắc chính sách tiền tệ vì các ngân hàng sẽ không
thể thay đổi tỷ lệ lãi suất. Với các khủng hoảng này, Ngân hàng
Trung ương có vai trò là người cho vay cuối cùng để ngăn chặn
sự đổ vỡ hệ thống của các ngân hàng. Tuy nhiên, trong hệ thống
Châu Âu, các ngân hàng trung ương trên cơ sở mức tài sản dự trữ
của mình có thể đưa ra các thỏa thuận song phương, khu vực hoặc
quốc tế để có mức hỗ trợ hợp lý.
Giám sát ngân hàng: cơ chế giám sát ngân hàng hiệu quả
là một trong những nền tảng pháp lý quan trọng, cần thiết trong
bất kỳ hệ thống tài chính nào. Các cuộc khủng hoảng kinh tế gần
đây cho thấy sự lỏng lẻo trong quản lý và giám sát hoạt động
ngân hàng sẽ gây ra những hậu quả kinh tế khôn lường. Do đó,
chỉ khi có một hệ thống tài chính ổn định thì mới có thể thực hiện
tốt các chức năng quản lý kinh tế vĩ mô và cung cấp các nguồn lực
tài chính cho nền kinh tế với chi phí thấp.
Về cơ bản, giám sát ngân hàng đỏi hòi về cơ bản phải tuân
thủ các nguyên tắc trong việc thiết lập hệ thống ngân hàng cũng
như trong quá trình kinh doanh và hoạt động của các ngân hàng.
Việc tự do hóa thị trường tài chính đã tạo cơ hội kinh doanh mới
cho các ngân hàng. Để có thể giám sát hoạt động ngân hàng, ngăn
ngừa các đổ vỡ, tình trạng phá sản ngân hàng và các rủi ro thì
đòi hỏi phải có những phương pháp giám sát mới. Cơ sở pháp lý
cho việc giám sát ngân hàng là Luật ngân hàng (Banking Act) và
Luật giám sát dịch vụ thanh toán (Payment Services Oversight
Act). Hai luật này có nhiệm vụ bảo đảm sự ổn định của bộ phận
tài chính, vốn là khu vực rất nhạy cảm về lòng tin của công chúng,
thông qua việc bảo vệ những người cho vay. Mục tiêu của các luật
này là thực hiện tự do hóa thanh khoản theo các nguyên tắc thị
trường; ví dụ như trách nhiệm của các quyết định kinh doanh
Chương III: Thể chế pháp luật kinh tế Úc
293
thuộc về những người quản lý. Giám sát ngân hàng không trực
tiếp can thiệp vào các hoạt động cá nhân của các tổ chức. Hoạt
động của các tổ chức tín dụng bị giới hạn chỉ bởi các điều luật
chung về số lượng và chất lượng các dịch vụ cũng như nghĩa vụ
đăng ký của họ đối với cơ quan giám sát. Mức độ giám sát phụ
thuộc vào loại, quy mô của từng doanh nghiệp trong lĩnh vực
ngân hàng. Việc mở rộng hoạt động kinh doanh của các tổ chức
tín dụng bên ngoài nước Đức đã sớm đặt ra câu hỏi làm thế nào để
các công cụ giám sát ngân hàng có thể phát huy hiệu quả.
Hệ thống thanh toán qua thẻ: Việc thanh toán giữa các ngân
hàng, các doanh nghiệp và các tổ chức, cá nhân với số lượng tiền
lớn thường được thực hiện theo phương thức không dùng tiền
mặt. Phương thức này an toàn và thuận tiện hơn nhiều so với sử
dụng tiền mặt. Sự gián đoạn trong việc thanh toán có thể làm
suy giảm niềm tin vào đồng tiền, do đó, giữ cho hệ thống thanh
toán ổn định và nhanh chóng là một trong những nhiệm vụ của
ECB nói chung và Ngân hàng Dự trữ Liên bang Đức nói riêng.
Ngân hàng Dự trữ Liên bang với thẩm quyền được giao nhằm
giải quyết ổn thỏa các giao dịch thanh toán trong nước Đức và
nước ngoài, điều hành hoạt động thanh toán của chính nó. Trong
những giao dịch tranh toán giữa các tài khoản liên ngân hàng của
cá nhân, đặc biệt trong trường hợp khẩn cấp, thì yêu cầu sự điều
chỉnh chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương phải nhanh
và bảo đảm an toàn cho hệ thống thanh toán.
Quản lý và phát hành tiền mặt (cash management): Thực tế
cho thấy, các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt đã trở
nên phổ biến; tuy nhiên, tiền mặt vẫn là phương tiện phổ biến
nhất được sử dụng thanh toán tại các nhà hàng và siêu thị ở Đức,
đặc biệt là các loại tiền có mệnh giá nhỏ. Cùng với Ngân hàng
Trung ương Quốc gia, Ngân hàng Trung ương Châu Âu được giao
nhiệm vụ phát hành tiền giấy trong khu vực đồng EUR. Tại Đức,
Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới
294
Ngân hàng Dự trữ Liên bang cũng được giao nhiệm vụ phát hành
tiền giấy. Thông qua mạng lưới chi nhánh của mình, Ngân hàng
Dự trữ Liên bang Đức bảo đảm cung cấp đủ lượng tiền giấy chất
lượng cho tất các khu vực. Ngân hàng Dự trữ Liên bang sẽ phát
hành tiền cho doanh nghiệp và các hộ gia đình theo chu kỳ kinh
tế. Ngược lại, các đại lý bán lẻ và người tiêu dùng trả lại tiền mặt
cho các ngân hàng thương mại. Việc vận chuyển tiền giấy và tiền
kim loại thường được chuyển giao cho các công ty vận chuyển
tiền tư nhân. Ngân hàng Dự trữ Liên bang Đức cũng có nhiệm vụ
kiểm soát và ngăn chặn hiện tượng tiền giả.
Để duy trì mức độ tín nhiệm đối với đồng EUR, các chính
sách duy trì sự cung cấp ổn định và thống nhất chất lượng của
đồng tiền tại bất kỳ thời điểm nào là điều rất quan trọng. Hạn
chế việc làm giả tiền hoặc các hành vi bất lợi cho đồng tiền hoặc
các loại giấy tờ ngân hàng khác là các biện pháp nhằm đạt được
mục tiêu này.
7.4. Văn phòng Tên thương mại và Sáng chế Đức
Văn phòng Tên thương mại và Sáng chế Đức (German Patent
and Trademark Office - DPMA) là cơ quan của chính quyền trung
ương bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Đức, hoạt động dưới sự giám
sát của Bộ Công bằng và Bảo vệ Người tiêu dùng Liên bang. DPMA
có khoảng 2.500 nhân viên, có trụ sở chính tại Munich. Về cơ cấu
tổ chức, DPMA gồm có 5 bộ phần gồm: (1) Bộ phận Sáng chế 1, (2)
Bộ phận Sáng chế 2 và các sáng chế nhỏ, (3) Bộ phận Thông tin, (4)
Bộ phận Thiết kế và thương hiệu thương mại, (5) Bộ phận Quản lý
hành chính và pháp luật. Ngoài ra, một cơ quan giải quyết tranh
chấp là Hội đồng Trọng tài được thành lập tại DPMA theo Luật về
sáng chế tư (Law on Employee’s Inventions) có vai trò giải quyết
các tranh chấp về sáng chế trong sáng chế tư.
DPMA được thành lập hơn 130 năm lịch sử và nhiệm vụ chủ
yếu tập trung vào bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Cụ thể, DPMA
Chương III: Thể chế pháp luật kinh tế Úc
295
được cấp phép và quản lý về quyền sở hữu trí tuệ cũng như cung
cấp các thông tin về các quyền sở hữu trí tuệ. Với vai trò là người
cung cấp dịch vụ hiện đại, DPMA đưa ra các bảo hộ hiệu quả đối
với các sáng chế, thương hiệu thương mại và kiểu dáng sản phẩm.
Các công ty vừa và nhỏ, các ngành công nghiệp rộng lớn, các tổ
chức nghiên cứu và các nhà phát minh cá nhân đều nhận được
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. DPMA có mối liên hệ hợp tác với hệ
thống sở hữu công nghiệp quốc tế và Liên minh Châu Âu.
Ngoài cấp bằng và quản lý quyền sở hữu trí tuệ, DPMA còn
có vai trò rất lớn trong việc bảo đảm cạnh tranh lành mạnh tại
Đức. Các hoạt động trong môi trường quốc gia và quốc tế có vai
trò quan trọng trong việc nâng cao tầm quan trọng của bảo hộ sở
hữu trí tuệ và cung cấp các thông tin về sự phát triển của quyền
sở hữu trí tuệ trong kỷ nguyên toàn cầu hóa.
DPMA còn thực hiện chức năng công khai, cung cấp thông
tin về sở hữu trí tuệ bằng cách đưa ra các thông cáo báo chí và các
dịch vụ tìm kiếm có sẵn trên Internet. Việc cung cấp thông tin có
thể được thực hiện theo yêu cầu, người yêu cầu có thể được cung
cấp thông tin bởi DPMA hoặc bởi 20 trung tâm thông tin về sáng
chế mà có mối quan hệ với DPMA.
VIII. PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
Các phương thức giải quyết tranh chấp dân sự và thương
mại ở Đức gồm tố tụng Tòa án, tố tụng Trọng tài và hòa giải.
Ngoài ra, do Đức là thành viên của Liên minh Châu Âu nên các
tranh chấp kinh tế quốc tế còn được thực hiện theo Quy tắc giải
quyết tranh chấp trong khuôn khổ Liên minh Châu Âu.
Một số văn bản pháp luật trong lĩnh vực giải quyết tranh
chấp gồm:
Bộ luật tố tụng dân sự (Code of Civil Procedure);(1)
Luật tư pháp (German Judiciary Act);(2)
Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới
296
Luật trọng tài Đức (German Arbitration Act);(3)
Luật hòa giải (Mediation Law);(4)
Công ước New York về công nhận và cho thi hành các (5)
quyết định của Trọng tài nước ngoài;
Quy chế của Hội đồng Châu Âu số 44/2001 về công nhận (6)
và cho thi hành các bản án của Tòa án các quốc gia thành viên.
8.1. Tố tụng Tòa án
Đức không có Tòa thương mại độc lập, do đó, các tranh chấp
về kinh tế, dân sự được giải quyết thông qua hệ thống Tòa án
thông thường. Trong các Tòa án thông thưừng có một bộ phận
chuyên giải quyết các tranh chấp thường mại và dân sự (Tòa dân
sự). Hệ thống tòa thông thường này gồm 4 cấp là Tòa án khu vực,
Tòa án liên khu vực, Tòa án cấp cao của Bang và Tòa án Liên
bang về dân sự và hình sự186.
8.1.1. Về phân định thẩm quyền giữa các cấp Tòa án
Về dân sự, Tòa án địa phương có thẩm quyền xét xử các
tranh chấp có giá trị đến 5.000 EUR187. Việc giải quyết các tranh
chấp về dân sự tại Tòa án khu vực thông thường do một Thẩm
phán thực hiện (không có Hội thẩm, kể cả các vụ việc hôn nhân
và gia đình). Một điểm đáng lưu ý trong pháp luật về tố tụng dân
sự của Đức là không phải mọi phán quyết sơ thẩm đều có thể yêu
cầu xét xử phúc thẩm và chỉ có thể yêu cầu phúc thẩm nếu nội
dung yêu cầu phúc thẩm có giá ngạch từ 5.000 EUR trở lên hoặc
Tòa sơ thẩm cho phép phúc thẩm và ghi rõ trong bản án. Ngoài
ra, thủ tục tố tụng dân sự Đức có quy định Tòa án khu vực có
thẩm quyền thực hiện thủ tục đòi tiền nhanh đối với các yêu cầu
đòi tiền mà ở đó quyền yêu cầu đòi tiền là rõ ràng.
186Xem Phụ lục 1.
187
tion-2015/germany.
Chương III: Thể chế pháp luật kinh tế Úc
297
Tòa án khu vực (Landgericht), có thẩm quyền xét xử dân sự
đối với các vụ tranh chấp có giá ngạch từ 5.000 EUR trở lên188, xét
xử phúc thẩm các bản án sơ thẩm của Tòa án khu vực. Các Hội
đồng xét xử dân sự sơ thẩm cũng như phúc thẩm tại Tòa án khu
vực bao gồm ba Thẩm phán chuyên nghiệp (Hội đồng xét xử các
tranh chấp về thương mại gồm một Thẩm phán chuyên nghiệp
và hai Hội thẩm là thương gia). Cá biệt, có thể giao các vụ việc
xét xử sơ thẩm cũng như phúc thẩm tại Tòa án liên khu vực cho
một Thẩm phán. Việc giám đốc thẩm phán quyết của Tòa án khu
vực chỉ được thực hiện khi đáp ứng những điều kiện nhất định
như: có những vấn đề mới phát sinh đòi hỏi phải có đường lối xét
xử thống nhất của Tòa án cấp cao hơn; về cùng một vấn đề nhưng
có sự vận dụng pháp luật khác nhau của các Tòa án khác nhau ở
cùng một cấp xét xử; việc một bản án có được giám đốc thẩm hay
không được Tòa án xét xử phúc thẩm xác định rõ trong bản án
phúc thẩm.
Tòa phúc thẩm khu vực là Tòa án xét xử phúc thẩm các bản
án sơ thẩm dân sự của Tòa án liên khu vực. Thông thường mỗi
bang có một Tòa án cấp cao của bang, cá biệt, một số bang có 2
hoặc 3 Tòa án cấp cao. Ở cấp Liên bang, Tòa án xét xử dân sự
và hình sự có tên gọi là Tòa án Liên bang về hình sự và dân sự
(Bundesgerichtshof). Về dân sự, Tòa án cấp cao của bang chủ yếu
xét xử giám đốc thẩm.
8.1.2. Về trình tự
Các tranh chấp thương mại được giải quyết theo các quy tắc
và trình tự thủ tục của Bộ luật tố tụng dân sự gồm các quy định
điều chỉnh trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp dân sự và
thương mại tại Tòa án và các quy tắc chung về thực hành nghề
Thẩm phán. Thời gian trung bình cho các trình tự thủ tục tại Tòa
188
tion-2015/germany.
Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới
298
án cấp khu vực thường kéo dài từ 8-12 tháng189. Với một số vụ
việc thương mại phức tạp hơn, thời gian xử lý có thể kéo dài hơn;
tuy nhiên, một bản án sơ thẩm đầu tiên có thể được hoàn thiện
trong thời hạn từ 1-2 năm.
Việc công nhận và cho thi hành bản án nước ngoài được điều
chỉnh bởi pháp luật của Liên minh Châu Âu, các hiệp ước đa
phương, song phương và các quy tắc về thủ tục của Đức. Trong
mối quan hệ với các quốc gia thành viên của Liên minh Châu
Âu, theo Quy chế của Hội đồng châu Âu số 44/2001, phán quyết
trong một nước thành viên Liên minh Châu Âu sẽ được tuyên
bố có hiệu lực tại Đức vì lợi ích của các bên mà không cần có sự
kiểm tra lại bản án, trừ trường hợp vi phạm trật tự công của Đức.
Trong trường hợp không có điều ước quốc tế, luật pháp trong nước
được áp dụng. Công nhận bản án nước ngoài phụ thuộc vào một
số yêu cầu như không vi phạm chính sách công của Đức, không có
sự không tương thích giữa bản án với bản án trước đó của Tòa án
trong nước về cùng một vấn đề, bảo đảm nguyên tắc có đi có lại và
quyền tài phán phù hợp của Tòa án nước ngoài.
8.2. Tố tụng Trọng tài và hòa giải
Ngoài tố tụng Tòa án, hiện nay, phương pháp giải quyết
tranh chấp phổ biến ở Đức là thông qua tố tụng Trọng tài và hòa
giải. Hòa giải có thể xảy ra bên ngoài Tòa án hoặc trong quá trình
diễn ra tố tụng Tòa án. Về nguyên tắc, pháp luật tố tụng dân sự
đòi hỏi Tòa án cố gắng đạt được một giải pháp hòa giải giữa các
bên trong tiến trình tố tụng Tòa án.
Về việc công nhận quyết định của Trọng tài nước ngoài, Đức
là thành viên của Công ước New York về công nhận và cho thi
hành quyết định của Trọng tài nước ngoài. Tòa án ở Đức thực
hiện các biện pháp tạm thời hoặc hỗ trợ cho việc thu thập chứng
189
pute-resolution-2015/germany.
Chương III: Thể chế pháp luật kinh tế Úc
299
cứ trong tố tụng trọng tài, cho dù Hội đồng trọng tài đặt ở Đức
hay ở bất kể nơi nào khác.
Thủ tục tố tụng Trọng tài ở Đức tuân theo các quy định của
Luật trọng tài Đức, là một phần của Bộ luật tố tụng dân sự. Phần
lớn các quy định thủ tục tố tụng trọng tài Đức được dựa theo
Luật mẫu của Ủy ban Liên Hợp quốc về Luật Thương mại Quốc
tế (UNCITRAL). Ngoài ra, Luật hòa giải có hiệu lực từ 26/7/2012
quy định về một dạng hòa giải trong tố tụng nhằm cung cấp cơ sở
pháp lý chắc chắn hơn cho các bên tranh chấp.
Tố tụng trọng tài được bảo đảm bởi các Tòa án địa phương.
Theo yêu cầu của một bên trước và trong quá trình tố tụng trọng
tài, Tòa án địa phương có thể đưa ra các biện pháp tạm thời liên
quan đến vấn đề tranh chấp. Nếu một bên khởi kiện tại Tòa án
mặc dù thỏa thuận trọng tài là hợp lệ thì Tòa án sẽ từ chối trừ
khi Tòa án thấy rằng thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc không
thể thực hiện. Quyết định của Trọng tài có tính bắt buộc phải thi
hành và được thi hành theo Công ước New York, các bên tranh
chấp không có quyền kháng cáo quyết định trọng tài. Theo Luật
hòa giải, thỏa thuận giải quyết tranh chấp trong hòa giải có tính
chất bắt buộc với các bên và được thi hành theo các nguyên tắc
của pháp luật hợp đồng tại Đức. Nếu một bên từ chối không thực
hiện biên bản hòa giải thì không có biện pháp bắt buộc hoặc trừng
phạt. Viện Trọng tài Đức là tổ chức ban hành các quy tắc tố tụng
trọng tài và các nguyên tắc hòa giải tại Đức.
IX. ĐÁNH GIÁ CHUNG
Nhìn chung, pháp luật kinh doanh của Cộng hòa Liên bang
Đức tương đối ổn định, có tính thống nhất cao, tính minh bạch và
tính khả thi đều được bảo đảm ở mức độ tốt. Theo Báo cáo Môi
trường kinh doanh 2015 của Ngân hàng Thế giới (WB), Cộng hòa
Liên bang Đức xếp ở vị trí thứ 14/189 quốc gia về chỉ số Tiếp cận
Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới
300
thị trường. Điều này cho thấy hệ thống pháp luật kinh doanh
của Cộng hòa Liên bang Đức đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho
việc phát triển hoạt động đầu tư trong nước cũng như hoạt động
đầu tư nước ngoài. Sở dĩ, pháp luật kinh doanh của Cộng hòa
Liên bang Đức có được vai trò như vậy bởi trước hết, chúng được
tiếp thu và xây dựng trên nền tảng của pháp luật La Mã-là hệ lý
thuyết tiên tiến nhất của loài người trong khoa học pháp lý. Các
nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật La Mã không chỉ được
tiếp thu một cách thụ động thành những văn bản pháp luật có
tính cưỡng chế, được bất kỳ thương nhân nào ở Đức tuân thủ và
coi là kim chỉ nam khi thực hiện các hoạt động kinh doanh mà
đã thực sự xâm nhập vào đời sống kinh tế, tạo thành những tập
quán thương mại kinh doanh và xây dựng triết lý, đạo đức kinh
doanh tại Đức.
Bên cạnh đó, việc xây dựng hệ thống pháp luật về kinh doanh
của Đức nằm trong một tổng thể xây dựng nền kinh tế nhất định,
đó là “kinh tế thị trường xã hội” mà trong đó yếu tố cạnh tranh
lành mạnh được xem là yếu tố hàng đầu và chi phối tất cả các
lĩnh vực lập pháp khác. Vì vậy, khi xây dựng các văn bản pháp
luật chuyên ngành, mục tiêu của nhà làm luật là chỉ hướng tới
mục tiêu duy nhất: bảo đảm yếu tố tự do cạnh tranh lành mạnh.
Ngay cả sự tham gia của Nhà nước cũng được xem xét trên yếu
tố này. Do đó, mặc dù số lượng các văn bản pháp luật kinh doanh
của Đức không phải là ít nhưng các quy định pháp luật đều nằm
trong một chỉnh thể thống nhất vì chúng đều hướng tới bảo đảm
một nền kinh tế tự do cạnh tranh và lành mạnh.
Mặt khác, pháp luật kinh doanh của Đức cũng cho thấy đây
không phải là hệ thống pháp luật đóng khung mà luôn có tính
mở để phù hợp với sự vận động của nền kinh tế. Có thể lấy một
ví dụ đó là quy định về các loại hình công ty tại Đức phù hợp với
đa dạng các mục tiêu đầu tư, quy mô đầu tư của nhà đầu tư, nhà
Chương III: Thể chế pháp luật kinh tế Úc
301
đầu tư có thể thành lập công ty tại Đức chỉ với một EUR. Khi quy
mô kinh doanh lớn hơn thì nhà đầu tư bắt buộc phải chuyển sang
hình thức công ty tương ứng với quy mô lớn hơn Pháp luật kinh
doanh tại Đức không phải là hệ thống pháp luật “áp đặt” lên đời
sống kinh tế mà là để “phục vụ” nền kinh tế. Các quy định của
pháp luật chỉ đóng vai trò cung cấp các “phương tiện” - các hình
thức pháp lý cụ thể để nhà đầu tư công khai và minh bạch hoạt
động kinh doanh của mình. Điều này cũng là nằm trong mục tiêu
chung của định hướng phát triển nền “kinh tế thị trường xã hội”
mà Cộng hòa Liên bang Đức thực hiện.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- the_che_phap_luat_kinh_te_mot_so_quoc_gia_tren_the_gioi.pdf