TÓM TẮT
Mở đầu: nghiên cứu thuộc dự án nghiên cứu về “các yếu tố nguy cơ sâu răng, liên kết những bằng chứng cá nhân và cộng đồng” của Khoa RHM, ĐHYD TP.HCM.
Mục tiêu nghiên cứu: xác định những yếu tố thật sự làm trẻ có nguy cơ cao tăng sâu răng sau một năm để từ đó xây dựng mô thức tiên đoán sâu răng trong tương lai của học sinh 12 tuổi
Đối tương và phương pháp nghiên cứu: mẫu nghiên cứu gồm 149 học sinh 12 tuổi được khám sâu răng theo chỉ số ICDAS và thu thập các yếu tố nguy cơ lần 1 (tháng 3/2010) và được tái đánh giá tình trạng sâu răng sau 1 năm (tháng 3/2011). Các yếu tố nguy cơ được sử dụng để phân tích mối liên quan với sự thay đổi tình trạng sâu răng sau 1 năm gồm có: độ nhớt nước bọt, pH nước bọt không kích thích, lưu lượng nước bọt kích thích, khả năng đệm của nước bọt, số lượng Streptococcus mutans, số lượng Lactobacilli, pH mảng bám, tình trạng vệ sinh răng miệng, trình độ học vấn của cha, trình độ học vấn của mẹ,
THEO DÕI DỌC MỘT NĂM BỆNH SÂU RĂNG Ở HỌC SINH 12 TUỔI
28 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2500 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Theo dõi dọc một năm bệnh sâu răng ở học sinh 12 tuổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THEO DÕI DỌC MỘT NĂM BỆNH SÂU RĂNG Ở HỌC SINH 12 TUỔI
(Nghiên cứu tại trường THCS An Lạc, Bình Tân, Tp. HCM)
TÓM TẮT
Mở đầu: nghiên cứu thuộc dự án nghiên cứu về “các yếu tố nguy cơ sâu răng,
liên kết những bằng chứng cá nhân và cộng đồng” của Khoa RHM, ĐHYD
TP.HCM.
Mục tiêu nghiên cứu: xác định những yếu tố thật sự làm trẻ có nguy cơ cao
tăng sâu răng sau một năm để từ đó xây dựng mô thức tiên đoán sâu răng trong
tương lai của học sinh 12 tuổi trường THCS An Lạc quận Bình Tân, Tp. Hồ
Chí Minh.
Đối tương và phương pháp nghiên cứu: mẫu nghiên cứu gồm 149 học sinh
12 tuổi được khám sâu răng theo chỉ số ICDAS và thu thập các yếu tố nguy cơ
lần 1 (tháng 3/2006) và được tái đánh giá tình trạng sâu răng sau 1 năm (tháng
3/2007). Các yếu tố nguy cơ được sử dụng để phân tích mối liên quan với sự
thay đổi tình trạng sâu răng sau 1 năm gồm có: độ nhớt nước bọt, pH nước bọt
không kích thích, lưu lượng nước bọt kích thích, khả năng đệm của nước bọt,
số lượng Streptococcus mutans, số lượng Lactobacilli, pH mảng bám, tình
trạng vệ sinh răng miệng, trình độ học vấn của cha, trình độ học vấn của mẹ,
mức thu nhập gia đình, chế độ ăn có đường và axít giữa các bữa ăn chính, số
lần chải răng, sang thương sâu răng mới chớm (đốm trắng/ nâu), có sâu răng
đến ngà ban đầu.
Kết quả: tình trạng sâu răng được đánh giá ở 2 ngưỡng chẩn đoán khác nhau:
ở mức độ S3 (sâu từ ngà) tỷ lệ % sâu răng là 67,1% và số trung bình S3MT-MR
là 4,29, ở mức độ S1 (sâu men và ngà) tỷ lệ % sâu răng là 99,3% và số trung
bình S1MT-MR là 13,12. Về sự gia tăng sâu răng sau 1 năm, ở mức S1, sau 1
năm có 81,2% học sinh có thêm tối thiểu một mặt răng bị sâu và tăng trung
bình 4,6 mặt răng sâu mới; ở mức S3 có 49% học sinh có thêm tối thiểu một
mặt răng bị sâu và tăng trung bình 1,09 mặt răng sâu mới. Khi phân tích mối
liên quan giữa từng yếu tố với sự phân bố tỉ lệ % trẻ không tăng sâu răng
(S3MT-MR=0) và tăng sâu răng cao (S3MT-MR≥2) kết quả cho thấy có 5
yếu tố liên quan có ý nghĩa: pH nước bọt không kích thích, yếu tố khả năng
đệm của nước bọt, yếu tố pH mảng bám, yếu tố VSRM và yếu tố có sang
thương sâu đến ngà ban đầu. Khi phân tích hồi quy đa yếu tố, chỉ có hai yếu tố
là yếu tố “Khả năng đệm của nước bọt không tốt” (p=0,023) và yếu tố “Có
sang thương sâu đến ngà ban đầu” (p< 0,001) là 2 yếu tố nguy cơ thực sự làm
trẻ có nguy cơ tăng tối thiểu 2 mặt răng sâu sau một năm. Xây dựng mô thức
tiên đoán sâu răng bao gồm 2 yếu tố: khả năng đệm của nước bọt không tốt và
có sang thương sâu đến ngà ban đầu đạt được khả năng tiên đoán sâu răng rất
cao với độ nhạy là 100%, độ chuyên 95,5%, PV(+) là 86,7% và PV(─) là
100%.
Kết luận: nghiên cứu đã xây dựng được 1 mô thức tiên đoán sâu răng có giá trị
tiên đoán sâu răng cao.
Từ khóa: yếu tố nguy cơ sâu răng, chỉ số ICDAS, độ nhớt nước bọt, pH nước
bọt, Streptococcus mutans, Lactobacilli, pH mảng bám, sang thương sâu răng,
khả năng đệm của nước bọt.
ABSTRACTS
DENTAL CARIES AMONG 12-YEAR-OLD SCHOOL CHILDREN:
A ONE YEAR FOOLOW-UP STUDY
Tran Thi Bich Van, Hoang Trong Hung, Ngo Uyen Chau, Hoang Tu Hung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 14 - Supplement of No 1 – 2010: 227 – 236
The study belong to the research programme “Dental caries risk factors – Link
of individual and community evidences” of the Faculty of Odonto –
Stomatology, University of Medicine and Pharmacy at HoChiMinh city.
Objectives: to identify dental caries predictors, and then establish the
prediction model of dental caries in the future for these pupils.
Method: the sample of 149 12-year-old pupils was collected randomly from all
pupils of the An Lac school. They were examined for dental caries recordings
according to ICDAS (International Caries Detection and Assessment System)
criteria and risk assessment at the baseline (March 2006) and after one year.
The following factors were collected to analyze the potential association with
dental caries increment after one year: salivary viscosity, pH of non-stimulated
saliva, flow rate of stimulated saliva, buffering capacity of saliva, mutans
streptococci count, lactobacilli count, pH of dental plaque, oral hygiene status,
education level and income of parents, sucrose and acid intake frequency
between main meals, tooth-brushing frequency, presence of incipient lesions
(white/brown-spot lesions) and dentin lesions at the baseline.
Results: At the baseline, at D1 (both enamel non-cavitated and cavitated
lesions) threshold, the dental caries incidence was 99.3% and mean of D1MFS
was 13.12; at D3 (dentine lesions) threshold, the incidence was 67.1% and
mean of D3MFS was 4.29. After one year, at D1 threshold 81.2% pupils had at
least one new carious surface and mean of D1MFS had increased 4.6; at D3
threshold 49% pupils had at least one new carious surface and mean of D3MFS
had increased 1.09. There were 5 factors that significantly associated with
dental caries progression, concluding pH of non-stimulated saliva, buffering
capacity of saliva, pH of dental plaque, oral hygiene status and presence of
dentine lesions at the baseline. Among them, the presence of dentine caries was
the most significantly associated factor. Multivariable logistic regression
analysis showed that bad buffering capacity of saliva (p=0.023) and presence of
dentine lesion (p<0.001) were two predictors. The prediction model of dental
caries from these predictors had the sensitivity of 100%, the specificity of
95.5%, positive value of 86.7% and negative value of 100%.
Conclusion: We have established a high values prediction model of dental
caries for 12-year-old pupils of An Lac school, in Binh Tan district, HCM city.
Keywords: dental caries risk factors, International Caries Detection and
Assessment System, salivary viscosity, pH of salivary, Streptococcus mutans,
Lactobacilli, pH of dental plaque, dental caries, buffering capacity of saliva.
MỞ ĐẦU
Tại Tp HCM, bệnh sâu răng có khuynh hướng giảm đặc biệt ở những cộng
đồng sử dụng nước uống có fluor. Điều này đã làm xuất hiện sự phân tầng rõ
rệt về cả tỷ lệ cũng như mức độ trầm trọng bệnh sâu răng giữa những người
sống ở vùng có và không có fluor hóa nước máy(11). Nghĩa là, ngay trong
mỗi vùng vẫn tồn tại một tỷ lệ khá cao những người có nhiều răng sâu bên
cạnh những người có ít răng sâu hay không sâu răng. Do đó, chiến lược dự
phòng sâu răng phổ cập chung cho cộng đồng hiện không còn thích hợp. Vì
thế, việc xây dựng một chiến lược dự phòng tích cực dựa trên nhóm nguy cơ
sâu răng cao là một một chiến lược hợp lý và cần thiết trong bối cảnh hiện
nay. Điều này không chỉ làm tăng hiệu quả của việc phòng bệnh mà còn đảm
bảo cho việc sử dụng nguồn nhân lực và tài lực đạt tính hiệu quả-chi phí tốt
nhất. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể nhận ra một cách chính xác nhất
nhóm có nguy cơ sâu răng cao để có thể áp dụng biện pháp phòng ngừa tích
cực? Chính vì vậy, nghiên cứu “Theo dõi dọc một năm bệnh sâu răng ở học
sinh 12 tuổi” được tiến hành nhằm xác định những yếu tố thật sự làm trẻ có
nguy cơ cao tăng sâu răng sau một năm để từ đó xây dựng mô thức tiên đoán
sâu răng trong tương lai. Nghiên cứu này như là một giai đoạn tiếp theo
trong dự án nghiên cứu “Các yếu tố nguy cơ sâu răng, liên kết những bằng
chứng cá nhân và cộng đồng” do GS.TS Hoàng Tử Hùng đề xướng và thực
hiện tại Khoa Răng Hàm Mặt, ĐHYD, TP.HCM từ năm 2005.
Mục tiêu nghiên cứu
Mô tả sự thay đổi về tỉ lệ và mức độ bệnh sâu răng sau
một năm ở học sinh 12 tuổi tại trường THCS An Lạc, quận Bình Tân,
TP.HCM
Phân tích mối liên quan giữa các yếu tố sinh học, lâm
sàng, kinh tế xã hội của phụ huynh và hành vi của học sinh với sự thay đổi
sâu răng sau một năm ở học sinh 12 tuổi.
Xác định mô thức tiên đoán nguy cơ sâu răng đến ngà (S3)
sau một năm ở học sinh 12 tuổi tại trường THCS An Lạc, quận Bình Tân,
TP.HCM.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mẫu nghiên cứu
Gồm 149 học sinh 12 tuổi đang học tại trường THCS An Lạc, quận Bình Tân,
TP.HCM đã tham gia dự án “Yếu tố nguy cơ sâu răng, liên kết những bằng
chứng cá nhân – cộng đồng” của năm học 2005 – 2006 và đồng ý tiếp tục tham
gia đợt nghiên cứu tiếp theo trong năm học 2006 – 2007.
Các dữ liệu cần thu thập
Dữ liệu về yếu tố nguy cơ sâu răng được thu thập vào năm 2006 gồm các
yếu tố
Các yếu tố về nước bọt (độ nhớt nước bọt, pH nước bọt
không kích thích, lưu lượng nước bọt kích thích, khả năng đệm nước bọt).
Các yếu tố về vi khuẩn và mảng bám (số lượng
Streptococcus mutans, số lượng Lactobacilli, pH mảng bám, tình trạng
VSRM).
Các yếu tố kinh tế xã hội và hành vi (trình độ học vấn của
mẹ, trình độ học vấn của cha, mức thu nhập gia đình, chế độ ăn, số lần chải
răng).
Các yếu tố lâm sàng sâu răng (số sang thương đốm
trắng/nâu, có sang thương sâu đến ngà).
(Dữ liệu về yếu tố nguy cơ sâu răng được hồi cứu từ dữ liệu của dự án “Yếu
tố nguy cơ sâu răng, liên kết những bằng chứng cá nhân – cộng đồng”(5)).
Dữ liệu về tình trạng sâu răng được ghi nhận theo tiêu chí ICDAS-II.
Tình trạng sâu răng được ghi nhận vào 2 thời điểm:
Tháng 3/ 2006 (Được hồi cứu từ dữ liệu của dự án “Yếu
tố nguy cơ sâu răng, liên kết những bằng chứng cá nhân – cộng đồng”).
Tháng 3/ 2007.
Sâu răng được ghi nhận ở 2 mức chẩn đoán:
S1MT-R/ MR: là những răng/ mặt răng có sâu răng từ mã
số 1 trở lên
S3MT-R/ MR: là những răng/ mặt răng có sâu răng từ mã
số 4 trở lên
Ghi nhận tình trạng sâu răng:
S1MT-R/ MR: là số trung bình mặt răng sâu mất trám
được tính từ mã số 1 trở lên theo tiêu chí ICDAS-II.
S3MT-R/ MR: là số trung bình mặt răng sâu mất trám
được tính từ mã số 4 trở lên theo tiêu chí ICDAS-II.
S1MT-MR: là sự thay đổi sâu răng ở mức S1 sau 1 năm
và được tính theo công thức sau: S1MT-MR=S1MT-MR(sau 1 năm) ─ S1MT-
MR(ban đầu)
S3MT-MR: là sự thay đổi sâu răng ở mức S3 sau 1 năm và
được tính theo công thức sau: S3MT-MR=S3MT-MR(sau 1 năm) ─ S3MT-
MR(ban đầu)
Xử lý số liệu
Thống kê suy lý
Kiểm định 2 hoặc kiểm định chính xác Fisher trong phân tích riêng phần từng
yếu tố với sự thay đổi sâu răng sau một năm. Phân tích hồi quy lôgic xác định
yếu tố yếu tố nguy cơ SR trong tương quan đa yếu tố. Xác định khả năng tiên
đoán sâu răng trong tương lai của từng yếu tố và kết hợp các yếu tố nguy cơ
thật sự qua: Sn, Sp, PV(+), PV(─).
Thống kê mô tả
Tỉ lệ % sâu răng; Trung bình S1MT-R/ MR, S3MT-R/ MR; Tỉ lệ % sâu răng
gia tăng sau một năm; Mức độ sâu răng gia tăng sau một năm.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Về tình trạng sâu răng
Khác với những nghiên cứu trước đây về việc ghi nhận tình trạng sâu răng của
trẻ tại Tp.HCM, nghiên cứu này dùng hệ thống đánh giá và phát hiện sâu răng
quốc tế (ICDAS) của N.Pitts và cs (2004). Ưu điểm của hệ thống này so với
các tiêu chí đánh giá sâu răng trước đây của TCSKTG (1997) là cho phép đánh
giá được các sang thương sâu răng sớm kể cả các mức độ mất khoáng ban đầu,
đồng thời chỉ số này cũng cho phép đánh giá mức độ hoạt động của sang
thương sâu răng ở trẻ. Điều này hoàn toàn phù hợp với quan điểm hiện nay: sâu
răng là một quá trình, tiến triển qua nhiều giai đoạn khác nhau và lỗ sâu là giai
đoạn cuối của quá trình này.
p=0,125
p=0,001
Nếu xét ở mức S3 tỉ lệ sâu răng năm 2006 là 57,7% so với năm 2007 là
67,1% và số trung bình mặt răng sâu tương ứng là 3,20 và 4,29 (biểu đồ 1 và
2). Như vậy, ở mức S3 sau 1 năm trung bình mỗi học sinh tăng 1,09 mặt răng
sâu mất trám (S3MT-MR) (biểu đồ 3). Thế nhưng, khi xét tỉ lệ và mức độ
trầm trọng sâu răng ở mức có sang thương sâu răng sớm (S1) thì tại thời
điểm năm 2006 có đến 96,6% học sinh sâu răng và trung bình mỗi học sinh
có 8,52 mặt răng sâu mất trám. Sau 1 năm, ở mức S1 tỉ lệ % sâu răng là
99,3% và số mặt răng sâu mất trám trung bình là 13,12. Như vậy, sau 1 năm
nếu xét ở mức S1 trung bình mỗi học sinh tăng 4,6 mặt răng sâu mất trám
(S1MT-MR) (biểu đồ 3). Rõ ràng đứng trên phương diện sâu răng nếu tính
sâu răng ở mức S3 theo tiêu chí của WHO đề ra thì chúng ta đã bỏ sót hơn
30% sang thương sâu răng sớm cần phải điều trị dự phòng ở thời điểm ban
đầu.
Biểu đồ 3: Tỷ lệ % học sinh có tăng sang thương sâu răng (SMT-MR≥1) và
trung bình sự thay đổi sâu răng (SMT-MR) ở mức S1 và S3 sau 1 năm
Tỉ lệ % và số trung bình sâu răng mới sau 1 năm
Kết quả ở biểu đồ 3 cho thấy sau 1 năm có 81,2% học sinh có thêm sang
thương sâu răng mới và trung bình mỗi học sinh có thêm 4,6 sang thương sâu
răng mới ở mức S1. Ở mức S3, sau 1 năm có 49% học sinh có thêm sang thương
sâu răng mới và trung bình mỗi học sinh có tăng 1,09 sang thương mới. Kết
quả này tương đồng với những nghiên cứu khác trên cùng đối tượng ở vùng
không có fluor hoá nước máy, kinh tế xã hội thấp như nghiên cứu của Disney
(1992)(4), thậm chí còn thấp hơn nghiên cứu của Russell (1991)(18). Tuy nhiên,
kết quả này thấp hơn nhiều nghiên cứu khác trên nhóm trẻ sống trong vùng
kinh tế khá, có fluor hoá nước máy như trong nghiên cứu của Klock (1989)(11),
Disney(4), Kallestal (biểu đồ 4).
Về liên quan giữa các yếu tố sinh học, kinh tế xã hội –hành vi, lâm sàng với
sự gia tăng sâu răng ở mức S3 (S3MT-MR) sau một năm
Theo đa số các tác giả, trong đánh giá nguy cơ sâu răng khoảng 20-25% trẻ
có mức tăng sâu răng cao nhất trong mẫu nghiên cứu sẽ được xếp vào nhóm
có sâu răng tăng cao (17). Trong nghiên cứu này, sau 1 năm có 24,2% học
sinh tăng tối thiểu 2 mặt răng sâu mới ở mức S3 (S3MT-MR ≥2), số học
sinh này này sẽ được xếp vào nhóm có tăng sâu răng cao. Do vậy, trong
phân tích mối liên quan giữa những yếu tố sinh học, kinh tế xã hội –hành vi,
lâm sàng và sự gia tăng sâu răng sau 1 năm, chúng tôi chỉ phân tích trong
nhóm học sinh không tăng sâu răng sau 1 năm (S3MT-MR=0) và nhóm học
sinh tăng sâu răng cao sau 1 năm (S3MT-MR ≥2).
Yếu tố nước bọt.
Theo y văn, nước bọt không nhày quánh, lưu lượng nước bọt cao, khả năng
đệm của nước bọt tốt, pH nước bọt không kích thích có tính kiềm … là những
yếu tố bảo vệ quan trọng chống sâu răng.
Trong nghiên cứu này, khi phân tích riêng rẽ từng yếu tố chỉ thấy 2 yếu tố là
pH nước bọt không kích thích và khả năng đệm của nước bọt là có liên quan
có ý nghĩa với sự phân bố tỉ lệ % học sinh ở nhóm không tăng sâu răng và
tăng sâu răng cao. Tuy nhiên, kết quả phân tích hồi quy logic ở cho thấy chỉ
có yếu tố khả năng đệm của nước bọt là yếu tố nguy cơ thật sự làm trẻ tăng
tối thiểu 2 sang thương sâu răng mới sau 1 năm. Những trẻ có khả năng đệm
nước bọt không tốt có nguy cơ tăng từ 2 mặt răng sâu mới sau 1 năm gấp
9,51 lần so với những trẻ có khả năng đệm nước bọt tốt.
Kết quả này cũng tương tự như những nghiên cứu đánh giá nguy cơ sâu răng
khác cho rằng những yếu tố nước bọt được cho là có khả năng dự đoán sâu
răng yếu(2,16). Thậm chí, nhiều nhà nghiên cứu còn cho rằng không cần thiết
phải làm những xét nghiệm về nước bọt trong đánh giá nguy cơ sâu răng vì yếu
tố nước bọt vừa không có khả năng tiên đoán sâu răng cao và những xét
nghiệm này khá tốn kém và phức tạp.
Yếu tố vi khuẩn
Kết quả nghiên cứu cho thấy số lượng Streptococcus mutans cũng như
lactobacilli đều không phải là yếu tố nguy cơ làm tăng tối thiểu 2 sang
thương sâu răng mới sau 1 năm trong phân tích riêng từng yếu tố cũng như
hồi quy đa yếu tố. Kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu của một số
tác giả trên nhóm trẻ cùng trang lứa như Beighton D (1996)(3), Disney J A
(1992)(4), Klock B (1989)(11). Nhiều tác giả cho rằng do yếu tố tiền sử sâu
răng trong quá khứ thường được xem xét đầu tiên trong những mô thức đa
yếu tố đánh giá nguy cơ sâu răng do đó sẽ làm mờ nhạt đi tầm quan trọng
của những yếu tố vi khuẩn.
Trong tiên đoán sâu răng, kết quả yếu tố số lượng vi khuẩn có giá trị tiên đoán
âm cao (77,8%-81,8%) trong khi giá trị tiên đoán dương rất thấp (35,3%-
35,6%). Điều này chứng tỏ yếu tố số lượng vi khuẩn thích hợp để lựa chọn
những cá thể không sâu răng hơn là chọn những cá thể có nguy cơ sâu răng
cao. Kết quả này cũng phù hợp với nhận định của một số tác giả(21).
Yếu tố mảng bám
pH mảng bám và tình trạng VSRM (điểm số OHI-S) là hai yếu tố thuộc về
mảng bám được đánh giá trong nghiên cứu. Trong phân tích hồi quy, cả hai
yếu tố này không phải là yếu tố nguy cơ làm trẻ có tăng tối thiểu 2 mặt răng
sâu mới sau 1 năm.
pH mảng bám là khả năng sinh axít của mảng bám sau khi tiếp xúc với
đường. Theo Stephan, khi tiếp xúc với dung dịch đường, những cá thể có pH
mảng bám giảm tới dưới mức pH tới hạn (5,5) và duy trì tình trạng này hơn
1 giờ thì những người này được coi là “rất nhạy cảm với sâu răng”, nếu giảm
tới pH tới hạn nhưng sau 10 phút trở lại bình thường thì được cho là “ít nguy
cơ sâu răng” và nếu có giảm trong 10 phút đầu nhưng không giảm tới pH tới
hạn thì được xem là “không sâu răng”(21). Trong nghiên cứu này, phương
pháp đánh giá pH mảng bám chỉ cho biết pH có giảm tới mức tới hạn sau khi
tiếp xúc với đường hay không chứ không đánh giá khả năng duy trì pH đó
sau một thời gian, vì thế một cá thể có pH mảng bám <5,5 sẽ có khả năng
xếp vào hai nhóm “rất nhạy cảm với sâu răng” hoặc “ít nguy cơ sâu răng”
tuỳ thuộc vào khả năng duy trì pH tới hạn. Tóm lại, cần có phương pháp
đánh giá thêm khả năng duy trì pH tới hạn của mảng bám sau một thời gian
để xác định chính xác hơn khả năng sinh axít của mảng bám và có thể hữu ích
hơn trong đánh giá nguy cơ sâu răng.
Trong phân tích riêng từng yếu tố, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ
lệ % học sinh có tăng tối thiểu 2 mặt răng sâu ở mức S3 trở lên sau một năm
giữa nhóm có tình trạng VSRM kém và nhóm có tình trạng VSRM từ trung
bình trở lên nhưng tình trạng VSRM không phải là yếu tố nguy cơ làm trẻ có
tăng tối thiểu 2 mặt răng sâu mới trong phân tích hồi quy. Kết quả này cũng
phù hợp với một số nghiên cứu khác cho thấy mối liên quan giữa tình trạng
VSRM với sâu răng là rất yếu(1, 14).
Trước đây, nhiều nhà nghiên cứu đồng ý với quan điểm của J Leon Williams
cho rằng “một răng sạch thì không bao giờ bị sâu”. Tuy nhiên, trong thời đại
ngày nay khi Fluor được sử dụng rộng rãi từ nhiều nguồn cung cấp khác nhau
thì sự liên quan giữa tình trạng VSRM và sâu răng khá yếu(1). Trong nghiên
cứu này, mặc dù trẻ sống trong vùng không có fluor hoá nước máy nhưng
100% trẻ tham gia nghiên cứu đều có sử dụng kem đánh răng có fluor. Có lẽ vì
thế mà không tìm thấy được mối liên quan giữa tình trạng VSRM và sự gia
tăng sâu răng ở nhóm học sinh trong nghiên cứu này.
Yếu tố tiền sử sâu răng
Nghiên cứu chỉ đề cập đến yếu tố số sang thương sâu răng ở dạng đốm trắng/
nâu ban đầu (điểm số 1, 2 theo ICDAS) và có sang thương sâu răng đến ngà
ban đầu (điểm số 4, 5, 6 theo ICDAS). Kết quả cho thấy có sâu răng đến ngà
ban đầu được xem là yếu tố có liên quan mạnh nhất với tỉ lệ % học sinh có
thêm tối thiểu 2 mặt răng sâu ngà mới sau 1 năm trong cả phân tích riêng từng
yếu tố cũng như trong phân tích hồi quy. Hơn nữa, khi đánh giá khả năng tiên
đoán sâu răng sau 1 năm, yếu tố này cũng đạt độ nhạy và độ chuyên cao nhất
trong tất cả các yếu tố khảo sát (97,2% và 63,2%). Một số nghiên cứu khác
cũng cho cùng kết quả là những sang thương sâu thành lỗ không được điều trị
là yếu tố tiên đoán sâu răng trong tương lai mạnh hơn những sang thương đã
được trám.
Về yếu tố số sang thương đốm trắng/ nâu ban đầu, những học sinh có ≥ 3 mặt
răng có sâu răng sớm ở dạng đốm trắng/ nâu ban đầu không có nguy cơ tăng từ
2 mặt răng sau mới sau 1 năm trong cả phân tích từng yếu tố lẫn phân tích hồi
quy. Kết quả này tương tự như kết quả trong nghiên cứu của trường Đại học
Bắc Carolina nhưng lại khác so với đa số những nghiên cứu khác cho rằng sang
thương đốm trắng/ nâu là yếu tố có ý nghĩa và có khả năng tiên đoán sâu răng
tốt như nghiên cứu của Helfenstein(10), Seppa và Hausen. Thậm chí một vài
nghiên cứu còn cho rằng sang thương đốm trắng là yếu tố tiên đoán sâu răng
mạnh nhất(13,20).
Kết quả khác biệt này có thể do chỉ số ICDAS là một chỉ số mới, việc chẩn
đoán phân biệt giữa mặt răng lành mạnh và mặt răng có sang thương trắng đục
là rất khó và dễ nhầm lẫn với những tổn thương dạng đốm trắng khác. Ngoài
ra, ở hố rãnh những sang thương màu nâu rất dễ nhầm lẫn với màu nâu tự nhiên
của hố rãnh hoặc vết dính… Do đó, cần phải có những nghiên cứu với cỡ mẫu
lớn hơn và tập trung hơn về vấn đề này. Trước tiên là đưa ra được những tiêu
chí cụ thể, rõ ràng và chính xác để ghi nhận những sang thương sâu răng dạng
trắng đục/ nâu.
Yếu tố KT-XH của phụ huynh
Trong những nghiên cứu đánh giá nguy cơ sâu răng, những yếu tố trình độ học
vấn và nghề nghiệp của phụ huynh là những yếu tố thường được đề cập. Theo
Perterson PE(15), trình độ học vấn của phụ huynh là yếu tố thuộc KT-XH ảnh
hưởng lớn đến bệnh sâu răng. Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố kinh tế
xã hội: trình độ học vấn mẹ, trình độ học vấn cha, mức thu nhập gia đình không
được xem là yếu tố nguy cơ làm sự gia tăng sâu răng trong cả phân tích từng
yếu tố lẫn phân tích hồi quy.
Khác với kết quả của một số nghiên cứu cho rằng trình độ học vấn của mẹ là
một yếu tố nguy cơ đối với sự gia tăng sâu răng của con(5,9). Sự khác biệt này có
thể do đối tượng nghiên cứu của những tác giả kể trên ở độ tuổi khá nhỏ (từ 1-6
tuổi), chưa thể tự mình chăm sóc sức khoẻ răng miệng mà chủ yếu là do mẹ
chăm sóc chính vì vậy trình độ học vấn của mẹ ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe
răng miệng của bé.
Yếu tố chế độ ăn
Tương tự như yếu tố VSRM, ngày nay với việc sử dụng fluor một cách rộng
rãi, sự tương quan giữa chế độ ăn và sâu răng ngày càng yếu đi và thậm chí
không còn(21). Kết quả cho thấy những trẻ ăn những thức ăn có đường và axít
giữa các bữa chính hơn 2 lần/ ngày không có nguy cơ bị sâu răng mới sau 1
năm nhiều hơn những trẻ ăn ít hơn 2 lần/ ngày trong cả phân tích riêng từng
yếu tố cũng như trong phân tích hồi quy. Một số nghiên cứu cắt ngang của Ngô
Uyên Châu (2006)(12), Petersen (2005)(15) đã chứng minh chế độ ăn không liên
quan tới sâu răng hiện mắc. Ngoài ra, nghiên cứu dọc của Disney (1992)(4),
Russell (1991)(18) cũng cho kết quả ăn nhiều chất đường bột không phải là một
yếu tố nguy cơ sâu răng. Trong nghiên cứu này, thông tin có được về chế độ ăn
là do sự nhớ lại của học sinh trong 4 ngày trước đó vì thế khó có thể tránh được
những sai lệch trong thu thập thông tin nên không thể hiện được chính xác chế
độ ăn thật sự của học sinh.
Mô thức tiên đoán sâu răng
Khi đánh giá khả năng tiên đoán sâu răng của yếu tố khả năng đệm nước bọt và
yếu tố có sâu răng đến ngà ban đầu riêng biệt (là hai yếu tố nguy cơ có ý nghĩa
trong mô thức hồi quy đa yếu tố), kết quả cho thấy yếu tố khả năng đệm có độ
chuyên khá cao (89,5%) trong khi độ nhạy rất thấp (38,9%). Ngược lại, yếu tố
có sâu răng đến ngà ban đầu có độ nhạy rất cao (97,2%) trong khi độ chuyên
chỉ ở mức trung bình (63,2%). Tổng độ nhạy và độ chuyên của yếu tố khả năng
đệm nước bọt khá thấp (128,4%) trong khi yếu tố có sâu răng đến ngà ban đầu
cao hơn (160,4%) và đạt được yêu cầu của một mô thức dự đoán sâu răng tốt
(tổng độ nhạy và độ chuyên đạt tối thiểu 160%)(21).
Bảng 11: Khả năng tiên đoán sâu răng sau 1 năm của từng yếu tố và kết hợp
hai yếu tố “có SR đến ngà ban đầu” và “khả năng đệm nước bọt không tốt”
Tham số Sn
(%)
Sp
(%)
PV+
(%)
PV─
(%)
A
(%)
Sn+Sp
(%)
Nước bọt nhày quánh 58,3 56,6 38,9 74,1 57,1 114,9
pH nước bọt không kích thích
<6,8
19,4 97,4 77,8 71,8 72,3 116,8
Lưu lượng nước bọt kích thích
<3,5ml
38,9 71,1 38,9 71,1 60,7 110
Khả năng đệm nước bọt không
tốt
38,9 89,5 63,6 75,6 73,2 128,4
Số lượng SM ≥105 CFU/ml 88,9 23,7 35,6 81,8 44,6 112,6
Số lượng Lactobacilli ≥105
CFU/ml
83,3 27,6 35,3 77,8 45,5 110,9
pH mảng bám 5,5 16,7 93,4 54,5 70,3 68,8 110,1
Tham số Sn
(%)
Sp
(%)
PV+
(%)
PV─
(%)
A
(%)
Sn+Sp
(%)
VSRM kém 25 90,8 56,3 71,9 69,6 115,8
Trình độ học vấn của cha < cấp 2 55,6 60,5 40 74,2 58,9 116,1
Trình độ học vấn của mẹ < cấp 2 50 60,5 37,5 71,9 57,1 110,5
Mức thu nhập gia đình < 1 triệu
VNĐ
67,6 43,1 38,3 71,8 51,5 110,7
Ăn thức ăn có đường và axít
giữa các bữa ăn chính ≥ 2 lần/
ngày
22,2 59,2 20,5 61,6 47,3 81,4
Chải răng 1 lần/ ngày 27,8 73,7 33,3 68,3 58,9 101,5
Có sang thương SR sớm ban đầu
≥ 3MR
80,5 15,8 31,2 63,2 36,6 96,3
Có sâu răng đến ngà ban đầu 97,2 63,2 55,6 98 74,1 160,4
Trong tiên đoán sâu răng, ngoài yêu cầu tổng độ nhạy và độ chuyên của mô
thức phải đạt được 160%, độ nhạy và độ chuyên còn phải đạt khoảng 80% khi
xét riêng rẽ. Nếu một yếu tố có độ nhạy quá cao sẽ làm tăng tỉ lệ dương tính giả
nghĩa là tăng tỉ lệ những trẻ không tăng sâu răng nhưng lại bị xếp nhầm vào
nhóm nguy cơ sâu răng cao và sẽ nhận được những biện pháp phòng ngừa
không cần thiết từ đó làm tăng cho phí của chiến lược dự phòng. Ngược lại,
nếu một yếu tố có độ chuyên quá cao sẽ làm tăng tỉ lệ âm tính giả khi đó những
trẻ có tăng sâu răng thực sự nhưng lại bị xếp nhầm vào nhóm không tăng sâu
răng cao và sẽ không nhận được những biện pháp phòng ngừa cần thiết mà
đúng ra chúng phải được nhận.
Tuy nhiên trong tiên đoán sâu răng, cần thiết phải xét thêm hai chỉ số là giá trị
tiên đoán dương và giá trị tiên đoán âm vì điều chúng ta thực sự muốn biết
trong dự đoán sâu răng là nếu trẻ có một yếu tố nào đó xấu thì khả năng bao
nhiêu phần trăm trẻ sâu răng trong tương lai (PV+) và nếu trẻ có một yếu tố
nào đó tốt thì khả năng bao nhiêu phần trăm trẻ sẽ không bị sâu răng trong
tương lai (PV-).
Kết quả nghiên cứu cho thấy (PV-) của cả hai yếu tố đều cao hơn (PV+).
Điều này có nghĩa là cả hai yếu tố đều có khả năng chọn những trẻ không
sâu răng tốt hơn những trẻ có nguy cơ sâu răng cao. Trong đó, yếu tố “có sâu
răng đến ngà ban đầu” có PV(-) rất cao (98%) nghĩa là 98% trẻ không có sâu
răng đến ngà ban đầu sẽ không có nguy cơ tăng sâu răng mới từ 2 mặt răng
trở lên sau 1 năm, chỉ có 2% trẻ bị xếp loại sai nghĩa là không có sâu răng
đến ngà ban đầu nhưng lại tăng sâu răng trầm trọng sau 1 năm. Tuy nhiên,
PV(+) của yếu tố “có sâu răng đến ngà ban đầu” chỉ ở mức trung bình
(55,6%) nghĩa là chỉ có 55,6% trẻ có sâu răng đến ngà ban đầu sẽ có nguy cơ
tăng sâu răng trầm trọng sau 1 năm và còn lại 44,4% trẻ bị xếp loại sai
nghĩa là có sâu răng đến ngà ban đầu nhưng lại không tăng sâu răng. Tương
tự đối với yếu tố “khả năng đệm nước bọt xấu”, PV(-) đạt được khá cao
(75,6%) nhưng PV(+) chỉ ở mức trung bình (63,6%). Xét thêm độ chính xác
của hai yếu tố “có sâu răng đến ngà ban đầu” và “khả năng đệm nước bọt xấu”
kết quả cho thấy có 73,2-74,1% trẻ được xếp vào nhóm không có nguy cơ tăng
sâu răng và có nguy cơ tăng sâu răng cao đúng như vậy có nghĩa là vẫn có một
tỉ lệ khá lớn từ 25,9 -26,8% trẻ bị tiên đoán sai khả năng có sâu răng trong
tương lai.
Vì thế mô thức tiên đoán kết hợp 2 yếu tố “có sâu răng đến ngà ban đầu” và
“khả năng đệm nước bọt xấu” sẽ giúp cho khả năng tiên đoán sâu răng chính
xác hơn kết hợp hai yếu tố cho thấy Sn và PV(-) đạt giá trị tối đa (100%), độ
chuyên và PV(+) cũng rất cao (95,5 và 86,7%). Như vậy, có nghĩa là 100%
những trẻ không có sâu răng đến ngà lần 1 và có khả năng đệm nước bọt tốt sẽ
không tăng sâu răng trầm trọng sau 1 năm. Tương tự, 86,7% trẻ vừa có sâu
răng đến ngà ban đầu vừa có khả năng đệm nước bọt không tốt sẽ có tối
thiểu 2 mặt răng sâu mới sau 1 năm. So sánh với một số mô thức tiên đoán
sâu răng khác của các tác giả thực hiện trên những trẻ cùng trang lứa chúng
tôi nhận thấy mô thức tiên đoán trong nghiên cứu này đạt được Sn và độ
chuyên rất cao.
Bảng 12: So sánh với những mô thức tiên đoán sâu răng khác.
Tác giả Tuổi
Thời gian
nghiên cứu
Mô thức tiên đóan Sn
(%)
Sp
(%)
Seppa &
Hausen (1988)
12 tuổi (11
tháng)
Sang thương SR sớm, S-MR, T-
MR, tuổi
51 78
10 tuổi (3 năm)
Aiken, Phần Lan
SMT-MR, giải phẫu hố rãnh,
sang thương đốm trắng, mảng
bám, lactobacilli
62 81 Disney (1992)
10 tuổi (3 năm)
Portland, Phần
Lan
SMT-MR, mảng bám,
lactobacilli
62 84
Steiner (1992) 10-11 tuổi (4
năm)
Sang thương đốm trắng ở mặt
láng
Hố rãnh mặt nhai đổi màu
81 60
Ratio (1996) 13 tuổi (11
tháng)
SM-MR, Candida 55 80
Trần Thị Bích
Vân (2008)
12 tuổi (1 năm)
Tp. HCM
Có tiền sử SR đến ngà
Khả năng đệm nước bọt không
tốt
100 95,5
KẾT LUẬN
Tình hình sâu răng ở học sinh 13 tuổi trường THCS An Lạc
Ở mức độ S3 (sâu từ ngà) tỷ lệ % sâu răng là 67,1% và số trung bình S3MT-MR
là 4,29 6,15. Tuy nhiên, khi tính ở mức độ S1 (sâu men và ngà) tỷ lệ % sâu
răng là 99,3% và số trung bình S1MT-MR là 13,129,17.
Sự gia tăng sâu răng sau 1 năm
Ở mức S1, sau 1 năm có 81,2% học sinh có thêm tối thiểu một mặt răng bị
sâu và tăng trung bình 4,6 mặt răng sâu mới. Tương tự, ở mức S3 có 49%
học sinh có thêm tối thiểu một mặt răng bị sâu và tăng trung bình 1,09 mặt
răng sâu mới.
Mối liên quan giữa các yếu tố ảnh huởng và sự gia tăng sâu răng.
Khi phân tích mối liên quan giữa từng yếu tố với sự phân bố tỉ lệ % trẻ không
tăng sâu răng (S3MT-MR=0) và tăng sâu răng cao (S3MT-MR≥2) kết quả
cho thấy có 5 yếu tố liên quan có ý nghĩa: pH nước bọt không kích thích
(p=0,002), yếu tố khả năng đệm của nước bọt (p=0,002), yếu tố pH mảng bám
(p = 0,041), yếu tố VSRM (p = 0,026) và yếu tố có sang thương sâu đến ngà
ban đầu (p< 0,001). Trong đó, yếu tố có sâu răng đến ngà ban đầu là yếu tố liên
quan mạnh nhất.
Tuy nhiên khi phân tích hồi quy đa yếu tố, chỉ có hai yếu tố là yếu tố “Khả
năng đệm của nước bọt không tốt” (p=0,023) và yếu tố “Có sang thương sâu
đến ngà ban đầu” (p< 0,001) là 2 yếu tố nguy cơ thực sự làm trẻ có nguy cơ
tăng tối thiểu 2 mặt răng sâu sau một năm.
Mô thức tiên đoán sâu răng.
Mô thức tiên đoán sâu răng bao gồm 2 yếu tố: khả năng đệm của nước bọt
không tốt và có sang thương sâu đến ngà ban đầu đạt được khả năng tiên đoán
sâu răng rất cao với Sn là 100%, độ chuyên 95,5%, PV(+) là 86,7% và PV(─)
là 100%.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 196_861.pdf