MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Ngành chăn nuôi lợn có một vị trí quan trọng trong nền nông nghiệp nước ta. Nó là nguồn cung cấp thực phẩm với tỷ trọng và chất lượng tốt cho con người. Thịt lợn có thể chế biến thành nhiều món ăn ngon, khi chế biến lại không làm giảm phẩm chất thịt và phù hợp với đại đa số người dân. Ngoài ra, ngành chăn nuôi lợn còn cung cấp một lượng lớn phân bón không nhỏ cho ngành trồng trọt hay tận dụng xây hầm bioga để làm khí đốt, điện thắp sáng và cung cấp các sản phẩm phụ khác cho ngành công nghiệp chế biến như: Da, lông, mỡ, xương
Trong những năm gần đây, nhờ việc áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, ngành chăn nuôi lợn ở nước ta luôn có những bước phát triển lớn như: tổng đàn lợn tăng, cơ cấu đàn lợn đa dạng, năng suất cao, khả năng phòng bệnh tốt. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta luôn có những chính sách, những biện pháp cụ thể nhằm phát triển ngành chăn nuôi nói chung và ngành chăn nuôi lợn nói riêng. Các nhà khoa học cũng không ngừng tìm tòi, nghiên cứu áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất chăn nuôi.
Do nhu cầu tiêu thụ ngày càng lớn, ngành chăn nuôi lợn ở nước ta đang có những bước chuyển mình từ chăn nuôi nhỏ lẻ, chăn nuôi hộ gia đình sang chăn nuôi tập trung với quy mô vừa và lớn. Các trang trại do nhà nước xây dựng hay những mô hình kết hợp giữa hộ gia đình và công ty cám đầu tư xuất hiện ở khắp mọi nơi từ các xã, huyện trở đi. Không những thế, trong những năm gần đây đã xuất hiện mô hình chăn nuôi mới đó là mô hình chăn nuôi trang trại hộ gia đình. Đây là một hình thức chăn nuôi hộ gia đình nhưng đã được mở rộng và đầu tư phát triển hơn, với số vốn lớn hơn nên số lượng con giống cũng được tăng cao mà hiệu quả mang lại từ mô hình này cũng khá cao. Tuy vậy, những cơ sở chăn nuôi theo hình thức này vẫn cần phải quan tâm đến vấn đề kỹ thuật và các biện pháp để nâng cao hiệu quả của công việc nuôi dưỡng, chăm sóc vì người dân vẫn chưa nắm vững được kỹ thuật nên đây là một vấn đề không thể thiếu do đó em tiến hành thực hiện chuyên đề với nội dung: “ Theo dõi quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc cho đàn lợn thịt ( ♀Landrace x ♂Duroc) tại trang trại Kim Tân xã Kim Tân huyện Kim Thành tỉnh Hải Dương”.
1.2 Sự cần thiết tiến hành nội dung thực tập.
Sau những năm học trên ghế nhà trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên. Em đã được thầy cô cung cấp cho những kiến thức và kỹ thuật cơ bản của một kỹ sư chăn nuôi tương lai, được giáo dục bồi dưỡng về tình cảm và đạo đức nghề nghiệp và mình nên làm như thế nào trong thực tế. Khi đi thực tập em lại được sự giúp đỡ của cô giáo hưỡng dẫn và được cơ sở thực tập tạo mọi điều kiện thuận lợi để em vận dụng những kiến thức đã học vào trong thực tế phục vụ sản xuất tại cơ sở và hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình để xứng đáng trở thành một kỹ sư chăn nuôi thực thụ không phụ sự kỳ vọng của thầy cô.
Hiện nay, tình hình dịch bệnh trên đàn lợn xảy ra ngày càng nhiều, tính chất bệnh ngày càng đa dạng và phức tạp là do khả năng kháng thuốc của căn nguyên gây bệnh ngày càng tăng, gây nên hiện tượng nhờn thuốc. Do đó làm giảm hiệu quả trong công tác phòng, trị bệnh cho đàn lợn. Tuy nhiên, để việc phòng trị bệnh cho đàn lợn đạt hiệu quả cao thì việc quản lý, nuôi dưỡng và chăm sóc tốt cho đàn lợn theo đúng quy định là vô cùng quan trong.
Chính từ tình hình thực tế như vậy, em đã tiến hành nghiên cứu chuyên đề trên.
47 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1994 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Theo dõi quy trình nuôi dưỡng chăm sóc trên đàn lợn thịt lai giữa Landrac và Duroc tại trang trại Kim Tân xã Kim Tân huyện Kim Thành tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
điều lý tưởng để phòng bệnh.
* Nhập đàn mới.
Nhập đàn mới càng nhiều thì tạo điều kiện lây nhiễm bệnh càng cao. Cách an toàn nhất khi phải nhập giống mới là dùng phương pháp thụ tinh nhân tạo, nhập tinh dịch từ những đàn lợn đực an toàn dịch. Trong điều kiện bắt buộc phải nhập con giống cần chọn những đàn lợn giống có độ an toàn cao về dịch tễ, đã được kiểm tra các bệnh truyền nhiễm và được tiêm phòng đầy đủ. Thông thường nhập lợn cái hậu bị tốt hơn là nhập lợn nái chửa. Mua lợn giống không rõ nguồn gốc hoặc từ nơi không rõ tình trạng dịch tễ thường là nguyên nhân lây nhiễm bệnh cho trang trại mới.
* Nuôi cách ly.
Việc nuôi cách ly đối với đàn lợn mới nhập nhằm 2 mục đích:
- Làm cho những bệnh mà đàn mới có thể bị nhiễm sẵn có thời gian ủ và phát thành bệnh.
- Có đủ thời gian cho đàn mới hình thành được miễn dịch với các tác nhân gây bệnh đang tồn tại trong trang trại do việc tiếp xúc dần dần của đàn mới với tác nhân đó. Miễn dịch hình thành theo kiểu này tuy chậm nhưng có hiệu quả tốt hơn việc đột ngột tiếp xúc với một số lượng lớn các tác nhân gây bệnh. Mỗi trại cần có một khu vực cách ly dành cho lợn mới nhập. Khu cách ly phải cách xa đàn lợn gần nhất 50m và đàn lợn mới nhập cần được nuôi trong khu vực này tối thiểu 7 ngày. Trong thời gian này, tất cả các cá thể cần được theo dõi chặt chẽ về trạng thái sức khỏe, các dấu hiệu lâm sàng. Đồng thời không nên bổ sung bất cứ loại kháng sinh hay chất kích thích sinh trưởng nào vào thức ăn vì khi đó mầm bệnh tiềm ẩn sẽ bị ức chế không phát ra trong thời gian nuôi cách ly.
* Công tác theo dõi chăm sóc phát hiện lợn ốm.
Bằng biện pháp quan sát ta có thể đánh giá được tình trạng sức khỏe của đàn lợn và nó giúp phân biệt lợn khỏe lợn ốm, bệnh để điều trị.
- Lợn khỏe:
+ Trạng thái chung: Lợn khỏe mạnh, nhanh nhẹn, vẻ mặt tươi tắn, thích hoạt động, đi lại quanh chuồng, khi đói thì kêu rít đòi ăn, phá chuồng.
+ Nhiệt độ cơ thể trung bình 38,5oC, nhịp thở 8 - 18 lần/phút. Lợn con có thân nhiệt và nhịp thở cao hơn một chút.
+ Mắt mở to, long lanh, khô ráo, không bị sưng, không có rử kèm nhèm, niêm mạc, kết mạc mắt có màu vàng nhạt, không vàng không đỏ tía.
+ Gương mũi ướt không chảy dịch, không cong vẹo, không bị loét.
+ Chân có thể đi lại được bình thường, không sưng khớp hoặc cơ bắp không bị tổn thương, khoeo chân không bị dính bết phân.
+ Lông mượt, mềm, không dựng đứng, cũng không bị rụng.
+ Đuôi quăn lên, uốn như lò xo khi có người lại gần vỗ nhẹ lên lưng.
+ Phân mềm thành khuôn, không bị táo hoặc lỏng. Màu sắc phân phụ thuộc vào thức ăn, nhưng thường có màu như màu xanh lá cây đến màu nâu, không đen hoặc đỏ. Phân không bị bao quanh bởi màng trắng, không lẫn kí sinh trùng, không có mùi tanh, khắm.
+ Lợn đi đái thường xuyên, nước tiểu nhiều, màu trắng trong hoặc vàng nhạt.
- Lợn ốm:
+ Trạng thái chung: mệt mỏi, nằm im lìm, cách xa con khác hoặc lùi vào trong lớp rác lót chuồng, đi lại xiêu vẹo hoặc không muốn cử động, dù bị đánh cũng không đứng dậy nổi. Lợn kém hoặc bỏ ăn. Lưng gồng lên là do đau bụng hoặc rặn ỉa khi bị táo bón.
+ Nhiệt độ cơ thể thường lên 40oC (có khi lên đến 42oC). Nhịp tim hoặc nhịp thở cao hoặc thấp hơn bình thường.
+ Mắt nhắm hoặc chỉ hé mở, nháy lia lịa khi có ánh sáng chiếu vào, có thể bị mù, viêm kết mạc mắt.
+ Mũi thường bị khô. Nếu mũi bị cong vẹo lợn có thể mắc bệnh viêm teo mũi truyền nhiễm. Mũi bị loét có thể do lợn mắc bệnh ở miệng hoặc Lở mồm long móng (LMLM).
+ Chân có thể bị tụt móng, vành và kẽ móng bị loét nếu lợn mắc bệnh LMLM. Khoeo chân bị dính bết phân là do lợn bị ỉa chảy. Lợn có thể bị què, bại liệt, không đi lại được nếu thức ăn bị thiếu khoáng.
+ Tai có màu tím, đỏ hoặc xanh là do lợn bị sốt, bị dịch tả hoặc bị tai xanh.
+ Màu của phân rất quan trọng. Màu và mùi khác thường của phân cho thấy lợn đang bị bệnh. Phân màu trắng là bị bệnh phân trắng lợn con, phân màu đen là dấu hiệu bị xuất huyết dạ dày, ruột non, phân màu đỏ là bị xuất huyết ở ruột già, phân có mùi tanh khắm là dấu hiệu của bệnh dịch tả.
+ Nếu quan sát lượng và màu của nước tiểu của lợn vì những dấu hiệu không bình thường về lượng và màu cho thấy những vấn đề trong hệ bài tiết. Nước tiểu ít, có màu đỏ là do bị xuất huyết, màu vàng đỏ (có lẫn máu) có thể do viêm thận, bàng quang, màu đỏ sẫm có thể do kí sinh trùng đường máu, màu vàng do bệnh ở gan.
* Chăm sóc và quản lý lợn thịt.
Chuồng trại phải đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật ấm về mùa đông, thoáng mát về mùa hè, nền chuồng luôn luôn khô dáo và có độ dốc khoảng 1,5 - 2% để đảm bảo cho phân và nước tiểu được thoát xuống hệ thống cống thoát. Đặc biệt chuồng trại phải được đối lưu không khí tốt để giảm bớt độ ẩm trong chuồng, tránh cho lợn khỏi các bệnh về đường hô hấp.
Biện pháp khắc phục điều kiện thời tiết mùa hè. Chuồng nên theo hướng Đông - Nam để đảm bảo ấm áp về mùa đông và thoáng mát về mùa hè, đảm bảo ánh sáng chiếu vào chuồng hạn chế được lượng nhiệt sinh ra do ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp. Trong trại trồng nhiều loại cây xanh, nên có hệ thống quạt mát vào mùa hè (Nguyễn Văn Trí, 2006, [5]).
Biện pháp khắc phục thời tiết mùa đông, với chuồng hở trời rét dùng bạt che gió bảo nhiệt độ trong chuồng không bị hạ xuống quá thấp. Khi có nắng thì kéo bạt lên để chuồng được khô ráo, cần hạn chế ánh sáng để lợn con được ngủ yên. Với chuồng khép kín có thể treo hệ thống đèn điện bóng tròn ở đầu giàn mát để làm nóng không khí được hút vào chuồng che bớt giàn mát lại để hạn chế không khí lạnh vào chuồng, giảm bớt quạt nhưng không được để tích khí trong chuồng nó sẽ gây viêm phổi.
Công việc hàng ngày cần làm ở chuồng lợn thịt: Kiểm tra nguồn nước, nếu dùng vòi nước uống tự động thì cần kiểm tra nước chảy mạnh hay yếu hay không có nước. Phải kiểm tra hàng ngày tránh bị kẹt hoặc bị rò rỉ làm ướt nền chuồng. Hàng ngày, làm vệ sinh chuồng, máng ăn, thay nước ở máng tắm, đồng thời quan sát hành vi, biểu hiện của đàn lợn. Theo dõi xem nhiệt độ trong chuồng thế nào để điều chỉnh cho phù hợp với hệ thống chuồng kín theo bảng tiêu chuẩn sau:
Bảng 1.3. Bảng nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển của lợn hậu bị
Tuần tuổi
Nhiệt độ thích hợp
3
33oC - 34oC
4
32oC - 33oC
5
31oC - 32oC
6
30oC - 31oC
7
29oC - 30oC
8
28oC - 29oC
9 → 10
28oC - 29oC
11 → 14
28oC - 29oC
15 → 20
28oC - 29oC
21 → xuất chuồng
27oC - 28oC
Đối với chăn nuôi trong chuồng kín để đảm bảo sức khỏe của lợn cần chú ý tới việc điều chỉnh tốc độ gió trong chuồng. Làm sau để có thể đảm bảo lượng không khí lưu thông thích hợp và đảm bảo được nhiệt độ trong chuồng. Lợn nhỏ chú ý tốc độ gió, nếu tốc độ gió lớn lợn bị bạt hơi, lợn mệt nằm la liệt khắp chuồng, bỏ ăn lông sù lên.
Với lợn con quan trọng nhất là giai đoạn úm ban đầu, trời mùa hè có thể úm 1 → 2 tuần, mùa đông 2 → 3 tuần có khi lâu hơn. Trong giai đoạn úm này phải luôn được đảm bảo nhiệt độ yêu cầu ở trong quây úm là 30 - 32oC. Nếu lợn trong giai đoạn này khỏe mạnh, phát triển tốt nó là tiền đề cho các giai đoạn sau phát triển tốt. Đặc biệt trong giai đoạn lợn nhỏ quan sát hành vi của cả đàn để biết được lợn bị lạnh hay bị nóng. Nếu lợn nằm chồng đống lên nhau thì là lợn bị lạnh cần phải giảm quạt và bật bóng điện trong lồng úm.
Trong quá trình chăm sóc cho con vật nếu phát hiện lợn ốm thì phải điều trị ngay để làm tăng khả năng khỏi bệnh cho con vật. Ngoài ra, phải thật chú ý để phát hiện kịp thời lợn ốm để con vật không bị mắc bệnh quá nặng rồi mới điều trị, nó sẽ làm giảm kết quả điều trị .
Nuôi dưỡng chăm sóc lợn thịt các giống đều phải chia giai đoạn để nuôi, gồm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn lợn con.
- Giai đoạn lợn choai (nhỡ).
- Giai đoạn vỗ béo.
2.1.1.2. Ảnh hưởng của các biện pháp thú y
* Tác dụng của các biện pháp thú y
Trong chăn nuôi lợn giống là tiền đề, thức ăn là cơ sở, có giống và thức ăn tốt vẫn chưa đủ cho nên cần phải chú ý đến công tác thú y, vệ sinh và phòng chữa bệnh. Vì ở các cơ sở chăn nuôi lớn nếu xảy ra dịch bệnh thì sự thiệt hại sẽ không ít. Khi có một ổ dịch phát sinh thì có phần lớn đàn lợn bị tiêu diệt nhưng khi không phải là ổ dịch mà lợn bị các bệnh như giun sán, rối loạn tiêu hóa, bệnh đường sinh dục…thì thường bị hao mòn sức khỏe, tiêu phí thức ăn, không đưa ra được sản phẩm kém. Do đó, vấn đề vệ sinh phòng bệnh và chữa bệnh cho lợn cùng với công tác giống và thức ăn là 3 khâu kỹ thuật có tầm quan trọng đặc biệt. (Trần Cừ, Nguyễn Khắc Khôi. 1985 [1]).
Vậy đối với các trại chăn nuôi theo quy mô lớn nên tuân thủ theo các quy tắc kỹ thuật thú y để đảm bảo an toàn cho trại, mang lại hiệu quả cao trong sản xuất. Trong công tác chăn nuôi gia súc nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng chuồng có vai trò rất quan trọng. Chuồng là căn nhà của gia súc, là nơi bảo vệ chúng trước những tác nhân nguy hiểm tuy nhiên xung quanh lợn luôn tồn tại những côn trùng truyền mầm bệnh, ký sinh trùng gây hại cho lợn vì vậy, chuồng trại chăn nuôi lợn phải thường xuyên vệ sinh sạch sẽ, chuồng nuôi luôn thoáng mát và khô ráo.
Mỗi lần xuất chuồng là phải tổng hợp vệ sinh dọn dẹp, rửa sạch, sát trùng bằng NaOH, thuốc sát trùng Omicide. Các dụng cụ chăn nuôi được phun và rửa sạch với nước sát trùng để đảm bảo vệ sinh cho những lần chăn nuôi sau. Nền chuồng được phun rửa bằng NaOH 20%. Sau khi cọ rửa sạch sẽ thì phun toàn bộ chuồng nuôi bằng thuốc sát trùng Omicide với nồng độ pha theo quy định, cuối cùng là quét vôi lại toàn bộ nền chuồng, máng tắm, tường.
Các khung sắt được quét sơn bảo vệ chống rỉ và hệ thống quạt được rửa sạch sẽ. Sau khi dọn vệ sinh chuồng nuôi xong thì để trống chuồng 5 - 15 ngày. Trong thời gian trống chuồng này có thể phun sát trùng 2 lần. trước khi vào lợn con 2 ngày phun lại 1 lần, khi vào lợn xong phun 1 lần.
Lối vào khu chăn nuôi được rắc vôi định kỳ 1 lần/tuần, phun sát trùng 2 lần/ tháng và trong chuồng nuôi phun 1 lần/ tháng.
Trước khi vào khu vực chăn nuôi phải mặc quần áo bảo hộ lao động và tắm sạch sẽ.
Khi nhập lợn con về sẽ phân lô, lợn khỏe ở trên đầu chuồng gần dàn mát, lợn yếu bệnh xếp ở cuối để dễ chăm sóc nuôi dưỡng. Thường xuyên kiểm tra đàn lợn phát hiện kịp thời lợn ốm bệnh để chữa trị.
Trong khu chăn nuôi không cho chó, mèo, chuột, bọ ruồi, muỗi xâm nhập vào chuồng để tránh lây lan và mang mầm bệnh vào chuồng trại cho con vật khỏe.
Người, xe chở thức ăn, thuốc, phương tiện đi lại đều phải phun sát trùng theo đúng quy định trước khi vào trại.
Công nhân chăn nuôi trước khi vào chuồng nuôi phải tắm sát trùng, thay quẩn áo thường bằng quần áo bảo hộ lao động, đi ủng bảo vệ mới được vào khu chăn nuôi. Thực hiện đầy đủ nội quy, quy định của trại đề ra.
Để sử dụng thuốc sát trùng có hiệu quả trong phòng chống dịch bệnh trong chăn nuôi. Trung tâm chẩn đoán và cố vấn thú y Công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam có quy định sử dụng thuốc sát trùng trong trại theo bảng dưới đây.
Bảng 1.2. Quy định sử dụng thuốc sát trùng
STT
Thuốc sát trùng
Tỷ lệ pha
Mục đích sử dụng sát trùng
1
Omicide
1: 200
Chuồng không có lợn
1: 400
Phun xung quanh trại, quần áo, dụng cụ thú y, dụng cụ chăn nuôi, chậu sát trùng ra vào trại, xe ra vào trại.
1: 3200
Tắm người trước khi vào trại, chuồng có lợn. Giàn mát (đối với trại có dịch).
2
Iodine
1: 400
Lau vú lợn
3
Detol
1: 100
Ngâm dụng cụ thú y
4
Vôi
1: 10
Quét chuồng khi chuẩn bị nhập lợn
5
NaOH (xút)
1: 30
Vệ sinh chuồng sau khi xuất lợn để chuẩn bị chuồng.
6
Formol
1: 100
Phun chống chuồng trước khi nhập lợn.
7
Chlorine
3-5g/1000lít nước
Dùng để xử lý nước trước khi cho lợn uống
* Vaccine và nguyên lý tác động của vaccine.
Các chế phẩm sinh học dùng để phòng bệnh truyền nhiễm được gọi là vaccine. Các loại vaccine đó được chế bằng bản thân mầm bệnh gây ra bệnh mà ta muốn phòng.
Khi chế phẩm bằng mầm bệnh đã bị giết chết được gọi là vaccine chết và chế bằng mầm bệnh được làm yếu đi gọi là vaccine nhược độc.
Vaccine được đưa vào cơ thể động vật không còn khả năng gây bệnh hoặc chỉ gây ra một thể bệnh rất nhẹ không có hại cho động vật. Nhưng nó gây ra một phản ứng làm cho động vật có miễn dịch chống lại sự xâm nhiễm của mầm bệnh tương ứng. Phản ứng đó gọi là phản ứng miễn dịch.
Các vaccine chết được gọi là vaccine vô hoạt thường rất an toàn, ổn định dễ sử dụng, nhưng hiệu lực thường kém, thời gian miễn dịch thường ngắn.
Các vaccine nhược độc, tức là vaccine sống thường là cho miễn dịch mạnh, ổn định và thời gian miễn dịch dài. Nhưng có thể gây ra phản ứng và đòi hỏi cẩn thận trong bảo quản, sử dụng như: Dụng cụ sử dụng vaccine không được rửa bằng thuốc sát trùng, đảm bảo đúng nhiệt độ quy định để đảm bảo vaccine.
Vaccine bao gồm trong đó là một hoặc một số mầm bệnh đã giết chết hoặc làm yếu, còn có hóa chất để giết mầm bệnh và những hóa chất để giữ cho kháng nguyên ổn định hoặc tồn tại lâu trong cơ thể động vật, làm tăng hiệu lực và thời gian miễn dịch ở động vật được goi là chất bổ trợ (đối với các loại vaccine vô hoạt).
Đáp ứng miễn dịch tạo ra trong cơ thể động vật sau khi sử dụng vaccine được gọi là kháng thể hiện diện chủ yếu trong huyết thanh, miễn dịch này được gọi là miễn dịch dịch thể. Đáp ứng miễn dịch cũng tạo ra những tế bào có vai trò diệt mầm bệnh hoặc gây dị ứng được gọi là miễn dịch tế bào (Nguyễn Hữu Vũ, 2004, [7]).
* Nguyên tắc chung khi sử dụng vaccine:
Đối tượng tiêm vaccine: Dùng vaccine chủ yếu là phòng bệnh. Sau khi tiêm vaccine một thời gian nhất định động vật mới có miễn dịch. Cần chú ý các trường hợp sau. Ở nơi có ổ dịch cũ, do nhiều bệnh truyền nhiễm phát sinh theo mùa nên hàng năm cần phải tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm trước mùa phát bệnh. Ở nơi bệnh đang phát thì đối với động vật đã mắc bệnh cấm không được tiêm vaccine ngay mà phải dùng kháng huyết thanh hoặc kháng sinh thích hợp điều trị. Đối với động vật còn khỏe nhưng dễ bị lây nhiễm (do tiếp xúc với con bệnh) có thể tiêm kháng huyết thanh cùng một lúc với vaccine (nhưng ở vị trí khác nhau trên cơ thể). Đối với động vật khỏe mạnh hoặc ở động vật khu vực xung quanh ổ dịch thì tiêm ngay vaccine để tạo vành đai miễn dịch. Đối với động vật khác loài nhưng có cảm thụ với bệnh cũng có thể cần tiêm vaccine phòng bệnh đó.
Động vật được tiêm nói chung phải khỏe mạnh. Không tiêm vaccine cho những con đang nung bệnh, những con quá gầy yếu, quá non, con mẹ mới đẻ, những con mới thiến chưa lành vết thiến, những con có nhiều ký sinh trùng. Cũng không nên tiêm vaccine virut nhược độc cho động vật cái đang có chửa ở thời kỳ thai sớm (1/3 kỳ thai đầu tiên). Súc vật sau khi tiêm cần được nuôi dưỡng, chăm sóc tốt, trâu bò cày kéo cần được nghỉ ngơi.
Phải tiêm phòng liên tục (tiêm nhắc lại) do sau một thời gian kháng thể được tạo ra bởi sự cảm ứng của vaccine thường suy giảm đến mức hết hiệu lực và phải tiêm đạt tỷ lệ cao cho động vật thuộc diện phải tiêm để tạo miễn dịch tập đoàn bền vững. Chỗ tiêm phải sát trùng, dụng cụ tiêm phải tiêu độc. Liều lượng tiêm phải đúng theo sự chỉ dẫn của nơi chế tạo.
Đường tiêm vaccine: vaccine thường được tiêm dưới da, nhất là các loại có chất bổ trợ, và tiêm với liều lượng lớn (vaccine formol keo phèn tụ huyết trùng, lợn đóng dấu,...). Có loại phải tiêm đúng dưới da để tránh phản ứng (vaccine nhược độc nhiệt thán). Các vaccine nhược độc (dịch tả trâu bò, dịch tả lợn qua thỏ) tiêm liều lượng nhỏ thì có thể tiêm dưới da hoặc bắp thịt. Một số vaccine có thể dùng cho uống, nhỏ mắt, nhỏ mũi, chủng vào dưới da, xát vào da, bơm vào không khí cho gia cầm hít (khí dung). Không tiêm vaccine vào mạch máu.
Bảo quản vaccine: Vaccine phải được bảo quản tốt, ở trạng thái chuẩn bị tiêm cần để ở chỗ tối, râm mát, nhiệt độ bảo quản thích hợp (20 - 25°C). Vaccine nhược độc chế từ virut trong quá trình tích trữ và vận chuyển phải bảo quản ở nhiệt độ thấp (-15°C), nhưng nếu ở trạng thái đông khô thì chỉ được bảo quản lạnh (1 - 4°C). Trước khi dùng phải kiểm tra phẩm chất thuốc, phải hủy bỏ vaccine quá hạn dùng, vaccine mất phẩm chất. Khi dùng các loại vaccine nhược độc, nhất là các loại có nha bào tránh làm vương vãi vaccine.
Phản ứng sau khi tiêm vaccine
Súc vật có thể bị phản ứng do chất phụ trong vaccine, do tiêm vào cơ thể đang nung bệnh, tiêm sâu vào bắp thịt. Tiêm vaccine còn có thể làm tái phát các quá trình bệnh lý sẵn có trong cơ thể (bệnh lao), do làm những mầm bệnh có sẵn trong cơ thể trỗi dậy gây bệnh (tụ huyết trùng) gây ra những bệnh theo cơ chế dị ứng (viêm thận, viêm não). Tính phản ứng của động vật quá mạnh cũng gây nên phản ứng khi tiêm. Cần biết rõ nguyên nhân gây phản ứng để đề phòng hoặc can thiệp khi xảy ra. [12]
Bảo quản vaccine: Phải trong các điều kiện quy định, là điều kiện đặc biệt quan trọng quyết định chất lượng và hiệu lực của vaccine. Các điều kiện bảo quản vaccine chủ yếu:
- Để trong tủ lạnh hay phòng lạnh nhiệt độ từ 4oC đến 10oC. Trong điều kiện đó thì giữ được vaccine đến hạn dùng ghi trên nhãn của lọ hoặc của ống vaccine. Nếu không bảo quản như vậy hạn dùng vaccine sẽ rút ngắn hoặc mất hiệu lực ngay.
- Không được để vaccine ở chỗ nóng, có ánh sáng mặt trời vì như vậy vaccine sẽ mất hiệu lực. Vaccine được rút từ lọ ra không được để lâu, chỉ còn hạn sử dụng 1 - 2 giờ, nghĩa là phải dùng ngay.
- Không giữ vaccine ở nhiệt độ âm, vì độ lạnh âm sẽ ảnh hưởng không tốt tới chất lượng vaccine, đặc biệt với nút cao su, làm hở nút không khí và ẩm độ vào trong lọ vaccine đông khô.
- Không dùng vaccine đã quá hạn sử dụng mặc dù vaccine có được bảo quản tốt.
Kiểm tra lọ vaccine: trước khi sử dụng, bất cứ lọ vaccine nào cũng phải kiểm tra vật lí như: màu sắc, độ trong hay đục tùy theo loại vaccine. Trước khi xuất xưởng, vaccine đã được kiểm tra vật lí, an toàn và hiệu lực. Nhưng quá trình vận chuyển và bảo quản tại địa phương có thể có những sai sót ảnh hưởng tới chất lượng, độ an toàn và hiệu lực của vaccine do vậy cần kiểm tra lại trước khi sử dụng.
Những chi tiết cần xác định cho từng lọ vaccine phải ghi trên nhãn của lọ:
- Tên vaccine có đúng với nhu cầu sử dụng không,
- Số lô, số liều sử dụng.
- Ngày sản xuất, số kiểm nghiệm xuất xưởng.
- Thời gian dùng quy cách bảo quản.
Những hư hỏng trong lọ vaccine cần biết để loại trừ:
- Nút: chặt hay lỏng, nguyên vẹn hay bị rách, tình trạng lớp bên ngoài.
- Lọ thủy tinh có bị rạn hay không.
Tình trạng thuốc trong lọ: Màu có bình thường không, vaccine có bị vẩn đục hay bị vón cục hay không, có vật lạ trong lọ không, kh lắc thuốc có thành dung dịch đồng nhất hay vẫn chia làm hai lớp (nếu vaccine nhũ hóa hoặc keo phèn vẫn chia làm 2 lớp khi lắc là vaccine đã hỏng).
Khi kiểm tra thấy lọ thuốc đã thay đổi so với bình thường thì phải loại bỏ tuyệt đối không sử dụng.
- Thao tác và sử dụng vaccine: Khi pha các loại vaccine cần có dụng cụ, ống tiêm, kim, lọ thủy tinh và nước cất đã tiệt trùng. Dụng cụ phải được hấp hoặc luộc tiệt trùng và phải để nguội mới được dùng. Trước khi pha thuốc tay người cũng phải được tiệt trùng. Nếu thuốc tiêm, vị trí tiêm trên súc vật cũng phải tiệt trùng bằng cồn 70oC. Đảm bảo tốt ít vô trùng không những chống được nhiễm trùng nới tiêm mà còn tạo được phản ứng miễn dịch cho động vật tốt.
* Các loại vaccine dùng trong chăn nuôi:
+ Vaccine dịch tả đông khô:
Đặc điểm: vaccine được chế từ chủng virus dịch tả lợn nhược độc, chủng C, là một chủng tạo được miễn dịch mạnh, ổn định và không gây ra các biến đổi sinh lý ở lợn trong tất cả các lứa tuổi. Vaccine có thể dùng cho lợn chửa giai đoạn đầu mà không gây quái thai.
Mỗi liều tiêm chứa khoảng 100 PD. 50 virus.
Sau khi sử dụng vaccine 2 tuần, lợn có miễn dịch tốt và miễn dịch kéo dài 12 tháng đến 15 tháng.
Sử dụng: khi không có dịch chỉ tiêm cho lợn 45 ngày tuổi trở lên. Khi có dịch hoặc có sự đe dọa của dịch bệnh cần tiêm sớm cho lợn 30 ngày tuổi. Nhưng sau đó phải tiêm nhắc lại sau lần tiêm lần đầu tiêm thứ nhất 3 - 4 tuần. Vaccine để phòng bệnh dịch tả cho lợn ở mọi lứa tuổi, khỏe mạnh. Và sau mỗi năm tiêm nhắc lại một lần. Vaccine phải pha với nước sinh lý tương ứng. Ví dụ lọ 50 liều thì pha với 100ml nước sin lý. Mỗi lợn bất cứ lứa tuổi nào và trọng lượng bao nhiêu đều tiêm 1 ml. Vaccine tiêm dưới da sau tai hoặc dưới da trong đùi.
Chú y tránh mọi kích thích một tuần trước khi và sau khi tiêm vaccine cho lợn.
2..2. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
- Theo Nguyễn Ngọc Phúc, (2005), [3] quy trình chăn nuôi thích hợp sẽ có tác dụng không hình thành và lây lan các ổ dịch bệnh. Hiện nay trong chăn nuôi lợn người ta áp dụng quy trình “cùng ra - cùng vào”, trong đó một dãy chuồng hoặc cả hai dãy được đưa và cùng một loại lợn. Sau một thời gian nhất định, tất cả số lợn này được đưa ra khỏi chuồng. Chuồng trại sẽ được để trống 5 - 7 ngày để tẩy rửa và sát trùng.
- Theo Trần Văn Phùng và cs, (2004), [4] Kỹ thuật chăm sóc quản lý có ảnh hưởng quyết định đến năng suất chăn nuôi lợn thịt. Trong đó có các yếu tố sau:
Mật độ nhốt: Nếu nhốt quá nhiều lợn/lô chuồng thì tốc độ tăng khối lượng sẽ giảm. Do đó, cần nghiên cứu để có mật độ thích hợp với từng diều kiện cơ sở. Người ta thấy rằng số lượng nhốt càng ít thì lợn sinh trưởng sẽ cao hơn nhốt nhiều con/1 ô chuồng.
Nhiệt độ: trong thời gian nuôi lợn thịt cần phải có nhiệt độ thích hợp. Nhiệt độ quá nóng hoặc quá lạnh đều ảnh hưởng đến năng suất chăn nuôi lợn thịt, vì khi trời quá nóng làm cho lợn giảm tính thèm ăn, lợn ít nghỉ ngơi và ngủ yên, tốn nhiều năng lượng và dinh dưỡng cho các hoạt động thải nhiệt như tăng tần số hô hấp, uống nhiều nước, từ đó ảnh hưởng đến tăng khối lượng của lợn. Trái lại khi nhiệt độ quá lạnh, cơ thể phải tốn nhiều năng lượng để duy trì thân nhiệt thì cũng ảnh hưởng đến tăng khối lượng. Quá trình nuôi lợn thịt cần tạo cho lợn có nhiệt độ ổn định thích hợp khoảng 18 - 20oC, ẩm độ tương đối là 75 - 80% là tốt nhất.
Ánh sáng: có ảnh hưởng đến tăng khối lượng của lợn, đặc biệt là trong giai đoạn vỗ béo cần nuôi lợn trong chuồng tương đối tối, yên tĩnh sẽ tạo điều kiện cho lợn ngủ nhiều, lợn sẽ tăng khối lượng nhanh.
Vận động: khi còn nhỏ nên tăng cường cho lợn vận động, có tác dụng thúc đẩy quá trình trao đổi chất, làm cho cơ bắp phát triển rắn chắc, thân thể khỏe mạnh, thúc đẩy tính thèm ăn của lợn. Khi lợn ở giai đoạn vỗ béo thì hạn chế vận động đến mức tối đa để giảm tiêu tốn thức ăn.
- Theo Tô Long Thành, (2000), [6] để sản xuất vaccine đầu tiên phải sản xuất virus với số lượng lớn trên tế bào một lớp dạng treo trong điều kiện vô trùng. Dùng một chủng virus thích hợp để gây nhiễm cho tế bào dòng, ví dụ tế bào BHK, hoặc cho các tế bào biểu mô lưỡi bò khỏe. Tất nhiên, các tế bào nuôi này phải sạch, nghĩa là không bị nhiễm các loài vi sinh vật. Khi hiệu giá virus đạt tối đa (được đánh giá hoặc bằng tính gây nhiễm, hoặc phản ứng kết hợp bổ thể hoặc các phản ứng khác), thu hoạch nước rồi để ly tâm và lọc vô khuẩn. Sau đó virus được vô hoạt bằng cách thêm ethylenimin (EI) (đôi khi còn gọi là binary ethylenimin), với nồng độ 0,05%. Quá trình vô hoạt được tiến hành trong 24h. Một số hãng sản xuất dùng liều lần 2 và ủ trong 24h nữa.
2.2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
- Theo A.I.Donalson, 2000, [9], mục đích của tiêm phòng là tránh được những tổn thất trong sản xuất. Để có hiệu quả, vaccine phải có hiệu lực, an toàn, tương đồng về tính kháng nguyên, chống các chủng virus đang gây bệnh hoặc có thể sẽ đe dọa gây bệnh và cách sử dụng đúng để cho đáp ứng miễn dịch tối ưu. Một tỷ lệ tiêm phòng thích đáng và tiêm phòng nhắc lại tốt sẽ bảo vệ được cả đàn gia súc lớn và gia súc non. Lần tiêm phòng trước là chủ động phòng bệnh, lần sau là tạo thêm kháng thể miễn dịch thụ động cho con non.
- Theo Mar´ıa J. Dus Santos, et al (2002), [10], Gần đây thực vật chuyển gen đã và đang được sử dụng như một giải pháp thay thế cho các phương pháp cổ truyền để sản xuất kháng nguyên phục vụ cho việc sản xuất vaccine thực nghiệm. Tuy nhiên hầu hết các phương pháp sử dụng thực vật chuyển gen đều có một hạn chế quan trọng là các kháng nguyên tái tổ hợp (recombinant antigen) chỉ tồn tại ở hàm lượng rất thấp trong mô thực vật, điều này đã hạn chế khả năng áp dụng phương pháp vào thực tế sản xuất.
Nghiên cứu của nhóm các nhà khoa học Ác-hen-ti-na và Tây Ban Nha đã thành công trong việc tạo thực vật chuyển gen có khả năng tổng hợp các epitope miễn dịch ở mức độ cao.
Trong nghiên cứu này các tác giả đã nối kết gen tổng hợp epitope có độ đáp ứng miễn dịch cao từ virus lở mồm long móng với gen báo cáo glucuronidase (gus A). Sự kết hợp này cho phép chọn lọc các thực vật chuyển gen dựa trên hoạt độ của enzyme glucuronidase. Các tác giả đã tạo được cây alfalfa (cỏ linh lăng) chuyển gen có khả năng tổng hợp đoạn pép-tít từ acid amin 135 đến acid amin160 của protein cấu trúc VP1 (VP135-160) nối với (fused) protein GUS. Sử dụng phương pháp Western Blot với VP135-160, các tác giả đã cho thấy những cây tổng hợp VP135-160 ở mức cao đều tương với cây có hoạt độ enzyme GUS mạnh.
Đoạn pép-tít tổng hợp bởi thực vật này có khả năng tạo đáp ứng miễn dịch trên chuột và tạo được kháng thể kháng virus lở mồm long móng (FMDV). Chuột được gây miễn dịch bởi VP135-160 đã có khả năng đề kháng tốt với virus lở mồm long móng. Kết quả nghiên cứu này đã gợi ra một phương pháp đơn giản nhưng hiệu quả để tạo thực vật chuyển gen có khả năng tổng hợp kháng nguyên ở mức độ cao dùng cho việc sản xuất vaccine.
- Theo I.A.Bakulop, V.V.Makarop, N.M.Uavanxep, (1980), [8]. Hoạt tính miễn dịch của thuốc virus, các virion của nhiều virus có một số nhóm dịch chứa kháng nguyên mà vai trò của chúng trong việc hình thành miễn dịch kháng virus khác nhau. Các kháng nguyên, tách được khi phá hủy các virion ở các thể tinh khiết trong dạng tiểu đơn vị có thể kích thích đáp ứng miễn dịch tốt và bảo vệ cơ thể khỏi nhiễm virus, điều đó phụ thuộc vào vai trò của các thành phần virion ấy trong quá trình truyền nhiễm. Chính sự trung hòa của chúng phải ngăn cản sự sản sinh của virus trong cơ thể, từ nhiều vurus người ta đã tách được và nghiên cứu các tính chất huyết thanh học và miễn dịch của các tiểu đơn vị, kháng nguyên kết hợp tổ thể và các protit cơ bản của virus viêm mụn nước, kháng nguyên hòa tan của virus đã kháng nguyên virus ỉa chảy tạo ra sức bảo vệ cơ thể lợn khỏi bị dịch tả, thành phần miễn dịch của virus lở mồm long móng. Dựa trên nguyên tắc ấy đã tạo các vaccine hóa học phòng bệnh từ các hemaglutinin tách biệt nhân tạo, neuraminidaza, nucleotit của virus, thuốc phòng bệnh dại có hiệu quả cao từ các tiểu đơn vị virus, vaccine từ tiểu đơn vị virus phòng sởi và các kháng nguyên hexonic của virion phòng bệnh do adeno virus.
- Theo Hurnik, D (2005) [11], việc thực hiện khử trùng chuồng trại mà không sạch sẽ chỉ làm lãng phí tiễn của, trái lại nếu công tác vệ sinh được thực hiện tốt sẽ nâng cao khả năng tăng trưởng của lợn cũng như đem lại nhiều lợi ích khác.
Quá trình vệ sinh bắt đầu bằng việc loại bỏ các chất thải của lợn và lớp lót chuồng nếu có. Tiếp đó là tháo bỏ hết các thiết bị có thể di chuyển được và rửa sạch chúng. Sau đó dùng vòi nước tẩy rửa chuồng nuôi và các thiết bị bên trong, đây cũng chính là bước mà rất nhiều người chăn nuôi thực hiện sai do họ sử dụng nước tẩy rửa có hoạt tính cao, Chuồng nuôi sau khi rửa trông có vẻ sạch nhưng thực tế thì không phải vậy.
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN
3.1. Đối tượng, thời gian, địa điểm tiến hành
3.1.1. Đối tượng
- Lợn con cai sữa đến khi xuất chuồng.
3.1.2. Địa điểm
- Trang trại chăn nuôi lợn tại Kim Tân xã Kim Tân huyện Kim Thành tỉnh Hải Dương.
3.1.3. Thời gian
- Từ ngày 11/4/2011 đến ngày 19/6/2011.
3.2. Nội dung thực hiện
- Theo dõi quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc đối với đàn lợn thịt lai giữa Landrace và Duroc tại trang trại Kim Tân xã Kim Tân huyện Kim Thành tỉnh Hải Dương.
- Áp dụng quy trình phòng bệnh bằng việc sử dụng vaccine và trị bệnh trên đàn lợn thịt tại trang trại Kim Tân xã Kim Tân huyện Kim Thành tỉnh Hải Dương.
- Hiệu quả kinh tế trại thu được từ đàn lợn thịt.
3.3. Phương pháp tiến hành chuyên đề.
3.3.1. Các biện pháp chăm sóc, quản lý, nuôi dưỡng lợn
* Quản lý:
Đảm bảo 100% lợn khi đưa vào nuôi phải được tiêm phòng vaccine. Cho lợn ăn đầy đủ, đúng bữa.
* Công tác phòng vệ sinh tẩy uế chuồng trại:
Tổng vệ sinh tẩy uế chuồng trại trước khi đưa lợn mới vào nuôi từ 7 - 14 ngày.
* Chăm sóc nuôi dưỡng từng giai đoạn:
Đảm bảo phân đàn đồng đều về lứa tuổi và khối lượng.
+ Giai đoạn lợn con (3 - 7 tuần tuổi).
Hiện nay chăn nuôi lợn nái đang theo hướng tập cho lợn con ăn sớm và cai sữa sớm để tăng lứa đẻ của lợn mẹ. Hiện nay, với kỹ thuật tiên tiến lợn con được cai sữa sớm tách mẹ khi 18 - 21 ngày tuổi (3 - 4 tuần tuổi).Lợn con được cho làm quen với thức ăn từ rất sớm thức ăn tập ăn có đầy đủ dinh dưỡng như sữa mẹ, có phần bổ sung những chất mà sữa mẹ đã giảm dần. Sau khi chọn được làm đàn theo thịt, ban đầu chia đàn đồng đều về khối lượng nhốt riêng vào 1 ô. Cho lợn ăn ít một, ngày cho lợn ăn nhiều lần, cố gắng làm vệ sinh chuồng sạch sẽ, luyện cho lợn con ỉa, đái vào máng tắm khi lợn quen với việc vệ sinh trong máng tắm, chuồng sẽ sạch, thoáng mát, giảm mùi trong chuồng và công nhân chăm sóc lợn cũng dễ dàng thuận lợi hơn trong công việc.
+ Giai đoạn lợn choai (7 - 14 tuần tuổi).
Giai đoạn này lợn đang phát triển về cơ bắp, ít tạo mỡ, lợn được cho ăn tự do để lợn được ăn nhiều nhất. Trong giai đoạn này lợn cần chuồng rộng rãi, sạch sẽ để chạy nhảy. Chú ý giai đoạn này không nhốt lợn trật quá trong 1 ô chuồng. Lợn phát triển ở giai đoạn này rất nhanh nên cần làm đầy đủ vaccine để phòng bệnh cho lợn.
Cũng cần chú ý nếu nền chuồng gồ ghề cũng rất dễ bị què chân, viêm khớp. Do lợn giai đoạn này rất hiếu động, thích đùa nghịch chạy nhảy.
+ Giai đoạn nuôi vỗ béo.
Giai đoạn này lợn cần thức ăn giàu năng lượng, đầy đủ protein, vitamine và khoáng. Quá trình chăm sóc của giai đoạn này cần chý ý lợn có khối lượng lớn lười vận động lợn nằm suốt ngày khi quét dọn làm vệ sinh chuồng nuôi cần lùa cho lợn dậy thường xuyên để lợn ăn nhiều, vận động đi lại nếu không lùa lợn dậy thì lợn dễ bị liệt chân. Lợn ở giai đoạn vỗ béo cần được yên tĩnh cho vận động ít hơn giai đoạn lợn nhỡ để tránh tiêu hao năng lượng.
Trong quá trình nuôi dưỡng, ở trong khu chăn nuôi cần phải có ô dành cho lợn bệnh vì trong quá trình nuôi thường xuyên có lợn bệnh. Khi phát hiện lợn bệnh phải tách ngay xuống ô bệnh điều trị. Trong chuồng kín, lợn chủ yếu là bị viêm phổi và viêm phổi rất dễ lây lan, lây lan rất nhanh.
Khi chuyển giao giữa các loại thức ăn cần chú ý là không thay đổi đột ngột mà thay đổi từ từ:
- Ngày đầu trộn 25% thức ăn mới.
- Ngày thứ hai trộn 50% thức ăn mới.
- Ngày thứ ba trộn 75% thức ăn mới.
- Ngày thứ tư là 100% thức ăn mới.
Bảng 2.2. Tiêu chuẩn thức ăn của lợn thịt
Chỉ tiêu
Đơn vị
Lợn nhỡ
Vỗ béo
Protein
%
18,5
12
Năng lượng trao đổi
Kcal
3150
2820
Ca
%
0,7 - 1,2
0,7 - 1,2
P
%
8,6
8,03
NaCl
%
0,3 - 0,8
0,6 - 08
Lợn được tẩy giun sán trong quá trình nuôi.
Quy trình: Đảm bảo khẩu phần ăn phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đàn lợn.
Nước uống phải đảm bảo sạch sẽ, đẩy đủ.
Theo dõi phát hiện lợn ốm nhanh chóng đưa ra cách ly sang ô dành riêng cho lợn bệnh tránh lây lan sang cả đàn, để có biện pháp điều trị kịp thời
3.3.2. Áp dụng quy trình sử dụng vaccine của trại
Lịch tiêm phòng cho đàn lợn thịt được áp dụng trong trang trại Kim Tân như sau:
Bảng 2.1. Lịch tiêm phòng
Loại vaccine
Liều lượng
Vị trí tiêm
Thời gian tiêm phòng theo đợt
Dịch tả 1
2 ml/con
Dưới da
5 Tuần tuổi
LMLM 1
2 ml/con
Dưới da
7 tuần tuổi
Dịch tả 2
2 ml/con
Dưới da
9 tuần tuổi
LMLM 2
2 ml/con
Dưới da
11 tuần tuổi
Ghi chú:
LMLM: Lở mồm long móng
3.3.3. Các chỉ tiêu theo dõi và cách xác định
- Tỷ lệ tiêm vaccine %:
Tỷ lệ tiêm vaccine % =
Số lợn tiêm vaccine
x 100 %
Tổng số lợn đưa vào nuôi
- Tỷ lệ mắc bệnh %:
Tỷ lệ mắc bệnh % =
Số lợn mắc bệnh
x 100 %
Tổng số lợn tiêm vaccine
- Tỷ lệ nuôi sống %:
Tỷ lệ nuôi sống % =
Số con đầu kỳ - Số con cuối kỳ
x 100%
Số con đầu kỳ
- Hiệu quả sử dụng thức ăn:
Tiêu tốn TĂ/kg TT =
∑ thức ăn tiêu thụ (kg)
x 100%
∑ khối lượng xuất chuồng (kg)
3.3.4. Phương pháp xử lý số liệu
Theo phương pháp tính toán thống kê thông thường.
Phần 4
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Kết quả tiêm phòng các loại vaccine dịch tả, LMLM
Trong quá trình chăn nuôi kể từ khi đưa lợn con vào chuồng nuôi thịt tới khi xuất bán, ta phải tiêm phòng đầy đủ bốn mũi vaccine cho lợn đó là vaccine dịch tả và LMLM. Sau đây là bảng kết quả thu được từ việc tiêm phòng vaccine ở hai dãy chuồng nuôi lợn thương phẩm của trại chăn nuôi Kim Tân.
Bảng 4.1. Kết quả tiêm phòng vaccine cho đàn lợn thịt
Tuần tuổi
Loại vaccine
Số lợn vào nuôi
Số lợn tiêm phòng
Tỷ lệ tiêm (%)
Số phản ứng
Số chết
Độ an toàn (%)
5
Dịch tả (Colapest)
152
152
100
0
0
100
7
LMLM (Aftopor)
152
152
100
0
0
100
9
Dịch tả (Colapest)
152
152
100
0
0
100
11
LMLM (Aftopor)
152
152
100
2
0
100
Ghi chú:
LMLM: lở mồm long móng
Qua bảng 4.1 ta thấy, loại vaccine tiêm phòng là loại vaccine virus, vì trong hệ thống chuồng kín điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng và công tác sát khuẩn khử trùng cho đàn lợn và chuồng trại khá tốt nên chỉ phải tiêm các loại vaccine do virus gây bệnh đối với đàn gia súc. Ở đây chúng tôi tiến hành tiêm 2 loại vaccine Dịch tả và LMLM, đây là hai bệnh nếu xảy ra thì rất khó chữa khỏi hoàn toàn và mầm bệnh sẽ lưu lại lâu năm ở trại chăn nuôi, gây thiệt hại đến kinh tế.
Theo dõi bảng số liệu ta thấy, đàn lợn khi đưa vào nuôi sau 2 tuần (tương đương với 5 tuần tuổi) đã được tiêm vaccine dịch tả. 152/152 lợn được tiêm phòng đạt kết quả 100%. Do tiêm vaccine sớm cho lợn (chưa qua 40 ngày tuổi) nên sau 4 tuần vaccine được tiêm lại lần 2 để kịp tăng cường hệ thống miễn dịch cho lợn do vaccine mũi một làm khi lợn còn nhỏ nên hệ thống miễn dịch chưa hoàn thiện. Mũi tiêm thứ 1 là vaccine dịch tả (đây là loại vaccine nhược độc đông khô khi pha với nước pha dung dịch có màu hồng nhạt, vaccine sau khi pha phải sử dụng ngay thì hiệu quả mới cao), không có lợn bị sốc thuốc sau khi tiêm quan sát thấy đàn lợn mệt nằm im cho thấy phản ứng thuốc tốt. Đến ngày thứ 2 lợn vẫn còn biểu hiện mệt, nằm im, giảm ăn nhẹ thì hộ lý chăm sóc pha thuốc điện giải cho lợn uống, lùa lợn dậy ăn uống đến ngày thứ 3 lợn trở lại trạng thái bình thường. Độ an toàn của lần làm vaccine thứ nhất là 100%.
Sau khi làm vaccine dịch tả ta làm tiếp vaccine LMLM (Aftopor) đây là vaccine nhũ dầu sử dụng type O, C. Liều tiêm 2 ml/con, vị trí tiêm dưới da. Qua bảng ta thấy ở lần tiêm thứ 2 có 100% lợn được tiêm phòng. Không có lợn bị phản ứng và độ an toàn đạt được là 100%, sau khi tiêm lợn có biểu hiện mệt mỏi, giảm ăn tới ngày thứ 3 lợn trở lại trạng thái bình thường. Như vậy, ở mũi tiêm dịch tả 1, LMLM 1 độ an toàn của vaccine là 100%. Tương tự ở 2 mũi tiêm đầu mũi tiêm thứ 3 tức mũi dịch tả 2 (lợn 9 tuần tuổi). Cũng không có hiện tượng gì khác ở lợn, con vật lại trở về trạng thái bình thường. Độ an toàn là 100%.
Nhưng ở mũi tiêm thứ 4 vaccine LMLM 2 tiến hành lúc lợn được 11 tuần tuổi, số lợn được tiêm là 152/152 con. Tỷ lệ tiêm phòng là 100%, ngay sau khi tiêm đã có 2 lợn có phản ứng với thuốc, biểu hiện: căng cứng hết cơ, co giật, mắt trợn ngược, niêm mạc mắt đỏ, nằm im, thở rốc. Nhờ chuẩn bị trước nên sau khi phát hiện đã kịp thời xử lý tiêm adrenanin 0,1% 1ml/con và dùng nước sạch để rội lên con vật, các biểu hiện cứng cơ, co giật, thở khó đã giảm dần, khoảng 5 phút sau lợn có thể đi lại bình thường. Ở lần tiêm thứ 4 này tuy có lợn bị phản ứng với thuốc nhưng phát hiện kịp thời nên không có tổn hại gì về lợn, độ an toàn của vaccine là 100%. Nếu không phát hiện kịp thời lợn bị sốc vaccine sẽ chết do cơ cứng, hệ hô hấp bị liệt.
Qua đây ta nhờ kỹ thuật tiên tiến, hiện đại các loại vaccine được sử dụng khả năng an toàn, tất cả các mũi tiêm với những lô vaccine khác nhau nhưng hiệu quả an toàn đều đạt 100% và 100% số lợn của trại chăn nuôi tư nhân lợn thương phẩm Kim Tâm được tiêm phòng đẩy đủ, đảm bảo thực hiện đúng quy trình chăn nuôi lợn thịt.
4.1.2. Tỷ lệ mắc bệnh sau khi tiêm phòng
Sau khi tiêm phòng chúng tôi tiếp tục tiến hành theo dõi tình hình nhiễm bệnh dịch tả và LMLM cũng như các bệnh khác ở trại để đánh giá quá trình chăm sóc nuôi dưỡng sau 2,5 tháng cho kết như bảng dưới đây:
Bảng 4.2. Tỷ lệ mắc bệnh sau tiêm phòng vaccine
STT
Số lợn tiêm phòng
Số lợn mắc bệnh
Tỷ lệ mắc bệnh
1
152
0
0
2
152
0
0
3
152
0
0
Qua quá trình theo dõi ta thấy 100% lợn không mắc các bệnh được tiêm vaccine, qua đó ta nhận thấy hiệu lực của vaccine đạt 100%.
4.2. Những bệnh lợn thường mắc trong chăn nuôi chuồng kín
Tuy áp dụng quy trình phòng bệnh và chăm sóc, nuôi dưỡng khá tốt nhưng lợn vẫn mắc một số bệnh điển hình sau.
* Bệnh tiêu chảy lợn con.
- Nguyên nhân:
+ Bệnh do vi khuẩn đường tiêu hóa gây ra.
+ Do thức ăn kém chất lượng, chăm sóc nuôi dưỡng chưa thích hợp.
+ Do khí hậu thay đổi đột ngột, nhất là khi trời lạnh và ẩm độ không khí cao.
- Triệu chứng:
+ Lợn ỉa chảy liên tục, kém ăn, mệt mỏi có con bụng chướng to, lợn ỉa phân lỏng thối khắm, phân dính nhiều ở xung quanh hậu môn.
- Điều trị:
+ Norfloxacin: 1g/6 lít nước hoặc 1g/60 kg TT.
+ Kết hợp tiêm Nor: 1ml/10 kg TT. (Kết hợp 2 loai thuốc điều trị trong 3 – 5 ngày).
* Bệnh viêm khớp:
- Nguyên nhân:
+ Bệnh do liên cầu khuẩn Streptococus gây nên, bệnh thường gặp ở lợn con theo mẹ. Thông thường lợn khỏe vi khuẩn Steptococus khu trú ở hạch amidal, hạch đường mũi của chúng khi thời tiết lạnh sức đề kháng của lợn giảm, bệnh dễ phát ra.
- Triệu chứng:
+ Lợn bị què, khớp đầu gối hoặc khớp mắt cá chân sưng phồng lên hoặc đỏ tấy, lợn di chuyển rất khó khăn.
- Điều trị:
+ Vetrimocin: 2 - 3 ml/con.
+ Anagin: 3 - 4 ml/con.
* Viêm phổi:
- Nguyên nhân:
+ Mycoplasma là tác nhân chính kết hợp với hệ vi khuẩn gây bệnh cộng phát như Pasteurella multocida, Bordtell, Chlamidi, Streptococcus, Staphylococcus và một số siêu vi trùng khác, thậm chí cả giun đũa (ấu trùng) và giun phổi.
- Triệu chứng:
+ Lợn ho chủ yếu về đêm, lúc đầu ho khan, tần số ho ít về sau tăng lên và từng cơn kéo dài, đặc biệt buổi sáng sau khi đánh thức lợn dậy hoặc đuổi lợn ra sân chơi. Ở lợn con theo mẹ trước xuất hiện ho thấy hắt hơi, chảy nước mắt, nhịp thở tăng, sốt ngắt quãng. Do viêm phổi nênlợn phải thở bụng, có khi ngồi thở. Lợn bỏ ăn từ từ và khi nằm có vẻ mặt buồn rười rượi.
- Điều Trị:
+ Vetrimocin: 2 - 3 ml/con hoặc Dynamutylin: 2 ml/con.
+ Anagin: 3 - 4 ml/con.
Bảng 4.3. Kết quả điều trị lợn mắc các bệnh thông thường
STT
Số lợn theo dõi
Loại bệnh mắc
Số lợn điều trị
Số lợn chết
1
152
Viêm khớp, viêm rốn
2
1
2
152
Viêm phổi
5
0
3
152
Viêm phổi, ỉa chảy
20
1
Qua quá trình nuôi do chăn nuôi tập trung với số lượng lớn, khâu chăm sóc, quản lý lợn vẫn còn thiếu sót nên đã để chết 2 con, trong đó chủ yếu là do lợn bị viêm phổi nặng, viêm khớp, viêm rốn chiếm 3,04% tổng số đàn lợn.
Sau quá trình thực tập 2,5 tháng, tôi nhận thấy kết quả từ quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng phòng bệnh tích cực mang lại hiệu quả rất cao. Trong khi ở những hộ chăn nuôi nhỏ lẻ chủ quan với khâu phòng chống dịch tích cực và bị động luôn phải lo lắng tới các loại bệnh theo mùa như: Tụ huyết trùng, Phó thương hàn thì ở trại chăn nuôi tập trung với quy mô lớn họ lại không phải lo lắng nhiều về vấn đề thuốc điều trị các loại bệnh nói trên vì rất ít xảy ra sau khi đã chú tâm tới khâu vệ sinh, phòng bệnh theo quy trình an toàn sinh học, phòng bệnh từ xa. Thực tế từ khi mở trại đến nay, trại chưa mắc các loại bệnh thông thường do virus cũng như vi khuẩn gây ra. Tỷ lệ lợn chết 2,5 – 3,5% chủ yếu là do viêm khớp và viêm phổi, viêm rốn. Đây là con số khá nhỏ có thể cho phép trong chăn nuôi quy mô lớn của trại. Có được kết quả này là trại đã thực hiện tốt quy trình chăn nuôi an toàn sinh học trong chăn nuôi lợn. Như vậy, ta có thể thấy được việc áp dụng vaccine và chăm sóc nuôi dưỡng trên đàn lợn là rất an toàn và mang lại hiệu quả cao, quy trình này nên được áp dụng phổ biến.
4.3. Đánh giá công tác chăm sóc quản lý đàn lợn nuôi thịt
Trong quá trình thực hiện chuyên đề tại trại chăn nuôi lợn thịt thương phẩm Kim Tân huyện Kim Thành tỉnh Hải Dương Chúng tôi được trực tiếp tham gia vào công tác chăm sóc nuôi dưỡng trên đàn lợn của trại, công việc cụ thể hàng ngày như sau:
Trước khi vào chuồng phải thay đồ chuyên sử dụng khi vào chuồng nuôi đã được vô trùng, không mang bất cứ đồ dùng thường ngày nào vào khu vực chăn nuôi. Công việc đầu tiên khi vào chuồng là đi một lượt từ đầu đến cuối chuồng kiểm tra sức khỏe, tình trạng của đàn lợn, kiểm tra máng cám xem lượng cám ít hay nhiều để kịp thời điều chỉnh, quan sát các vòi nước xem có vòi nào hỏng không. Buổi sáng là thời điểm tốt nhất để phát hiện và đánh dấu những con bị ho, phát hiện sớm điều trị kịp thời thì lợn sẽ khỏi nhanh. Vừa đi vừa cảm nhận xem nhiệt độ ở trong chuồng tốt hay xấu để điều chỉnh lượng gió cho hợp lý. Đi kiểm tra máng cám có sạch không, máng uống có hợp vệ sinh và có nước chưa. Sau khi đi quan sát chuồng một lượt ta bắt đầu quay lại từ ô đầu để dọn phân, phân ở trên nền chuồng được hót đổ vào máng nước tắm, chú ý dọn sạch sẽ không để lại trên nền chuồng lợn nằm vào phân bết ra rất bẩn. Dọn phân quét nền, đẩy máng tắm thực hiện theo quy định làm từ ô khỏe xuống ô bệnh. Ô khỏe được xếp ở trên đầu, ô bệnh xếp ở dưới.
Sau khi dọn vệ sinh chuồng nuôi xong thì tiến hành cho lợn ăn, ô khỏe cho nhiều cám ô bệnh yếu cho ít cám hơn. Công việc tiếp theo là tiêm điều trị những lợn bị ốm. Khi cho ăn song thỉnh thoảng vào chuồng quan sát và dọn phân trên nền chuồng không được để phân bẩn trên nền chuồng.
Buổi chiều công việc tương tự nhưng việc đẩy máng, thay nước máng tắm được làm vào cuối buổi chiều do thời gian từ chiều tới sáng hôm sau là dài hơn so với từ sáng tới chiều nên máng nước buổi chiều sẽ sạch hơn, đỡ mùi hơn là buổi tối tới sáng hôm sau.
Buổi tối sẽ vào thăm chuồng 1 - 2 lần để kiểm tra máng cám, tình hình sức khỏe trạng thái của đàn lợn có biện pháp xử lý kịp thời.
Một chuồng lợn với quy mô 200 con, sẽ có 2 dãy chuồng mỗi dãy có 5 – 6 ô tùy theo thiết kế của trại. Đàn lợn khi được đưa vào nuôi sẽ được phân ra theo lô, gồm lô lợn về trước và lô về sau. Khi nhập lợn về ngay từ khi mang lợn từ trên xe vận chuyển xuống, phân loại những lợn to, lợn bệnh, lợn còi để tiện chăm sóc và nuôi dưỡng. Lợn khỏe để trên ô đầu với số lượng nhiều hơn ô dưới. Sau đó xếp lợn giảm dẫn về khối lượng cũng như sức khỏe xuống những ô dưới. Trong quá trình nhận lợn con cần kiểm tra lợn có sót nanh, bị viêm lợi, viêm khớp, viêm rốn không nếu có thì tách riêng xuống ô bệnh để kịp thời điều trị.
Trong quá trình chăn nuôi, khâu úm lợn con là khâu vất vả và quan trọng nhất. Mùa hè có thể kéo dài từ 1 – 2 tuần, mùa đông thì 3 – 4 tuần. Mùa hè lợn dễ úm hơn nhưng công việc vất vả và tỷ mỉ do nhiệt độ lúc nào cũng trên 30oC, lợn con còn vệ sinh khắp chuồng nên phải làm vệ sinh liên tục. Thời gian đầu lợn mới nhập về cần chăm sóc đặc biệt, trong chuồng chuẩn bị quây úm, sạp, hàng ván để lợn nằm. Trong mỗi quây úm có 1 bóng điện 200w vào mùa hè và 2 bóng 200w vào mùa đông. Lợn lùa vào các ô nuôi phải lùa xuống máng tắm để tập cho lợn thói quen đi vệ sinh trong máng. Khi quen lợn sẽ không đi vệ sinh trên nền chuồng đỡ vất vả cho công nhân chăm sóc lợn. Sau khi lùa và phân lợn đều ở các ô thì bật điện trong lồng úm, sau 1 – 2 tiếng bắt đầu rắc cám cho lợn ăn, chú ý rắc làm nhiều lần mỗi lần một ít để kích thích cho lợn ăn.
Đàn lợn nuôi thịt được cho ăn tự do từ nhỏ cho tới khi xuất chuồng. Nên hàng ngày phải ghi chép cũng như theo dõi các máng cám để biết được tình trạng ăn của lợn qua đó cho biết được tình trạng sức khỏe của lợn.
Khâu sát trùng: Theo quy định, sau khi lợn xuất chuồng, chuồng được dọn vệ sinh phân và cặn bã. Sau đó rửa qua bằng nước sạch, tường chuồng và hành lang. Cọ rửa qua bằng nước sạch với vòi cao áp, phun dung dịch NaOH 20% toàn bộ nền. Sau đó để khô, quét vôi lại 1 lần toàn bộ chuồng, quét sơn chống rỉ các song sắt, cuối cùng tiến hành phun sát trùng 2 ngày/lần. Trước khi vào lợn 2 ngày phun lại 1 lần nữa. Thuốc sát trùng Omicide pha với tỷ lệ 1: 200 khi chuồng không có lợn; tỷ lệ 1: 400 phun xung quanh trại, quần áo, dụng cụ thú y, dụng cụ chăn nuôi, rãnh sát trùng ra vào trại, phun phương tiện ra vào trại, khu vực chăn nuôi, phun trong chuồng với những chuồng có lợn.
+ Phun sát trùng trong chuồng nuôi 2 lần/1 tuần, quét vôi và rắc vôi xung quanh trại 1lần/1tuần. Hố sát trùng ở cửa chuồng được thay nước 2 - 3 lần/tuần.
Sử dụng chlorin để tẩy trùng nước uống cho lợn và cho vào máng tắm của lợn theo tỷ lệ: 3 - 5g/1000 lít nước.
Quanh khu vực chuồng nuôi luôn được vệ sinh sạch sẽ, giữ cho môi trường luôn thoáng mát.
Dưới đây là bảng kết quả từ việc chăm sóc nuôi dưỡng từ 2 dãy chuồng nuôi của trại chăn nuôi lợn thịt thương phẩm Kim Tân.
Bảng 4.4. Kết quả nuôi dưỡng đàn lợn thịt
Các chỉ tiêu theo dõi
ĐV
Chuồng 1
Chuồng 2
Số lợn đưa vào nuôi
Con
67
85
Số lợn chết
Con
1
1
Số đầu ra
Con
66
84
Tổng trọng lượng nhập
Kg
442.2
561
Tổng khối lượng xuất
Kg
7194
9156
Tiền giống
vnđ
93800000
119000000
Thời gian nuôi
Ngày
137
137
Lượng thức ăn tiêu thụ (kg)
Kg
8040
10200
FCR (tiêu tốn thức ăn/kg P)
Kg/TT
2.607
2.607
Tiền thuê nhân công
vnđ
18600000
18600000
Tiền thưởng
vnđ
4400000
4400000
Tiền chuồng
vnđ
29350000
33780000
Tiền điện
vnđ
1200000
1343000
Tiền làm biogas, xử lý môi trường
vnđ
2674000
3074000
Tiền mua vật liệu xây dựng
vnđ
12130000
16820000
Tiền thuốc thú y
vnđ
3850000
4570000
Tiền mua vôi sát trùng
vnđ
400000
500000
Tổng thu nhập
vnđ
467610000
595140000
Tổng chi
vnđ
246804000
304087000
Hao hụt
vnđ
30000000
35000000
Tổng thu nhập(trừ chi phí và hao hụt)
vnđ
180806000
256053000
Qua bảng 4.4 ta thấy 2 chuồng nuôi trong 1 lứa ở trang trại chăn nuôi lợn thương phẩm Kim Tân thì việc chăn nuôi có nhiều thuận lợi, mang lại lợi nhuận khá cao về kinh tế cho trang trại( khoảng 300triệu đồng/ lứa khi đã trừ hao hụt) . Tuy trong quá trình nuôi thì vẫn có những con mắc bệnh chết, nhưng tính tổng chi phí thì trại vẫn không bị thua lỗ, nên với hình thức chăn nuôi gia công này hiện nay nó là mô hình kinh tế mới tiềm năng để đưa ngành chăn nuôi nước ta phát triển kịp thời hòa nhập với nền kinh tế của thế giới, nhất là hiện nay nước ta là một thành viên của WTO.
Bảng 4.5.Khối lượng của lợn qua các kỳ cân ( kg)
STT
Tháng nuôi
Số con cân
Khối lượng lợn
Ghi chú
1
Tháng thứ nhất
12
270
2
Tháng thứ 2
12
558
3
Tháng thứ 3
12
878.4
Sinh trưởng tuyệt đối của từng lợn nuôi thịt là khác nhau do mỗi con có đặc tính sinh học khác nhau và khả năng hấp thu thức ăn là khác nhau.
Dựa vào bảng khối lượng của lợn qua các kỳ cân chúng ta có thể thấy được sinh trưởng tuyệt đối của lợn nuôi thịt được thể hiện qua bảng như sau:
Sinh trưởng tuyệt đối (g/ ngày)=
Khối lượng cuối kỳ(g) - khối lượng đầu kỳ(g)
Thời gian nuôi
Sinh trưởng tương đối (%)=
Khối lượng cuối kỳ - khối lượng đầu kỳ
x100
(Khối lượng đầu kỳ + khối lượng cuối kỳ)x 2
Bảng 4.6. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn nuôi thịt (g/ con/ ngày)
STT
Thời gian
Sinh trưởng tuyệt đối
Ghi chú
1
Tháng 1 - 2
530
2
> Tháng 2 - 3
800
Bảng 4.7. Sinh trưởng tương đối của lợn nuôi thịt (%)
STT
Thời gian
Sinh trưởng tương đối
Ghi chú
1
Tháng 1 - 2
27.32
2
> Tháng 2 - 3
17.39
* Nhận xét: Nhìn chung khả năng sinh trưởng của lợn tại trang trại tương đối cao so với các giống của địa phương. Nhờ lựa chọn con giống có chất lượng tốt, áp dụng các biện pháp phòng bệnh cho lợn tốt, nên lợn ít bị bệnh, sinh trưởng phát triển tốt. Lợn sinh trưởng phát triển tốt vào tháng thứ 2 - 3 do không chịu nhiều tác động của điều kiẹn môi trường, vận chuyển, thích nghi tốt với thức ăn, mang lại hiệu quả kinh tế chăn nuôi tốt. Tuy nhiên một số yếu tố ảnh hưởng tới tốc độ sinh trưởng của lợn như stress khi tiêm phòng, lợn cắn nhau...
Phần 5
KẾT LUẬN,TỒN TẠI VÀ ĐỀ NGHỊ
5.1. Kết luận
Căn cứ vào đợt thực tập ở trại chăn nuôi lợn thương phẩm Kim Tân tôi rút ra một số kết luận như sau:
Việc thực hiện quy trình thú y ở trại là khá tốt, 100% số lợn đưa vào nuôi được tiêm phòng các loại vaccine như: Dịch tả, LMLM.
Do trang trại có thể tự cung cấp được con giống nên giảm thiểu khá lớn số lợn mắc bệnh.
Công tác chăm sóc, nuôi dưỡng trại thực hiện tốt, đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật của trang trại đặt ra nên kết quả chăn nuôi cũng đạt được kết quả cao: Khối lượng lợn xuất chuồng đều đạt khoảng 100kg.
5.2. Tồn tại
Do thời gian thực tập hạn chế nên chúng tôi chỉ đánh giá được một phần của công tác thực hiện quy trình thú y trong 1 năm của trại nên còn nhiều vấn đề vẫn chưa đi đến kết luận cuối cùng, chưa đáp ứng được yêu cầu về chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng.
5.3. Đề nghị
Qua việc trực tiếp làm vaccine và theo dõi ở trang trại chăn nuôi lợpn thương phẩm Kim Tân, chúng tôi nhận thấy việc sử dụng vaccine mang lại hiệu quả cao trong việc phòng bệnh cho đàn lợn của trại, đề nghị trạm thú y xã tích cực tuyên truyền cho người dân biết lợi ích của việc sử dụng vaccine trong chăn nuôi và thực hiện đầy đủ quy trình vệ sinh thú y trong chuồng trại để ngăn chặn dịch bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu trong nước
1. Trần Cừ, Nguyễn Khắc Khôi, 1985. Cơ sở sinh học và biện pháp nâng cao năng suất của lợn, Nhà xuất bản nông nghiệp.
2. Phạm Sỹ Năng, Phan Thị Tài, 1997. Thuốc điều trị và vaccine sử dụng.
3 . Nguyễn Ngọc Phúc, 2005, Công tác thú y. Nhà xuất bản lao động.
4. Trần Văn Phùng và cs, 2004, Giáo trình chăn nuôi lợn. Nhà xuất bản nông nghiệp.
5. Nguyễn Hữu Trí, 2006, Hỏi đáp về chăn nuôi lợn. Nhà xuất bản lao động – xã hội.
6. Tô Long Thành, 2000, “Cơ sở phân loại virus LMLM”. Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y.
7. Nguyễn Hữu Vũ, 2004, Thuốc thú y và các sử dụng. Nhà xuất bản Nông nghiệp.
Tài liệu nước ngoài
8. I.A. BAKULOP, V.V MAKAROP, N.M. UAVANXEP, 1980, “Hoạt tính miễn dịch của thuốc virus”, Phạm Quân dịch. Nhà xuất bản nông nghiệp Hà Nội.
9. A.I. Donaldson, 2000, “Dịch tế học bệnh LMLM – tình hình hiện nay và những triển vọng mới”. Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y.
10. Mar´ıa J. Dus Santos, et al (2002). A novel methodology to develop a foot and mouth disease virus (FMDV) peptide-based vaccine in transgenic plants.
11. Hurnik, D. 2005, Proc Swine Conference Lon Don, Ontario.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1 1.doc