Ở Bạc Liêu, với diện tích nuôi trồng thuỷ sản lên tới 38000 ha, bờ biển dài 56 km, diện tích các ngư trường rộng hàng chục ngàn km2.Bạc Liêu là một trong những vùng biển có trữ lượng hải sản lớn nhất của cả nước, cung cấp cho thị trường một lượng lớn sản phẩm hải sản các loại, đặc biệt là trong đó có các loại tôm chiếm đến 20% tổng sản lượng khai thác của vùng. Trong hai năm qua ngành thuỷ sản Bạc Liêu đă có tốc độ tăng trưởng về năng lực sản xuất, sản lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu (khoảng 30%/năm)
Đối với ngành thuỷ sản của Bà Rịa-Vũng Tàu, sản lượng hải sản đánh bắt đạt51.845 tấn, sản lượng nuôi trồng thực hiện được 735 tấn. Nói chung, ngành thuỷ sản của nơi đây khá phát triển, đặc biệt là ngành nuôi trồng, đánh bắt, chế biến xuất khẩu và công tác dịch vụ hậu cần.
36 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1655 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thị trường đầu ra cho sản phẩm thuỷ sản - Thực trạng và tiềm năng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p thể, tư nhân có chức năng đưa sản phẩm từ nơi chế biến đến người tiêu dùng cuối cùng. Do phải chi phí cho hoạt động thương mại do đó làm cho giá trị sản phẩm tăng thêm.
+ Người tiêu dùng: Người tiêu dùng là tất cả các thành viên trong xă hội có chức năng hoàn trả toàn bộ chi phí từ khâu sản xuất đến khâu dịch vụ cuối cùng của quá tŕnh sản xuất và tiêu dùng.
Qua cơ cấu trên, người ta có thể phân loại thị trường thành: thị trường các yếu tố đầu vào hay c̣n gọi là thị trường tư liệu sản xuất và thị trường sản phẩm hay c̣n gọi là thị trường hàng tiêu dùng.
b- Chức năng của thị trường.
Bản chất của thị trường c̣n thể hiện ở những chức năng của nó.Với tính cách là một phạm trù kinh tế, thị trường có các chức năng cơ bản sau:
Chức năng thừa nhận.
Mọi yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất hàng hoá đều thực hiện được việc bán, tức là chuyển quyền sở hữu nó với những giá nhất định, thông qua một loạt thảo thuận về giá cả, chất lượng, số lượng, phương thức giao hàng, nhận hàng...trên thị trường.Chức năng thừa nhận của thị trường thể hiện ở chỗ người mua chấp nhận mua hàng hoá, dịch vụ của người bán và do vậy hàng hoá đă bán được. Thực hiện chức năng này nghĩa là thừa nhận các hoạt động sản xuất hàng hoá và mua bán chúng theo yêu cầu các quy luật của kinh tế thị trường.
Chức năng thực hiện.
Hoạt động mua và bán là hoạt động lớn nhất, bao trùm nhất của thị trường. Trong nền kinh tế thị trường phát triển, mọi yếu tố đầu vào cho sản xuất và đầu ra sản phẩm chủ yếu đều được tiền tệ hoá th́ hoạt động mua và bán là cơ sở quan trọng quyết định các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế. Chức năng thực hiện của thị trường thể hiện ở chỗ, thị trường thực hiện hành vi trao đổi , thực hiện cân bằng cung cầu từng loại sản phẩm hàng hoá, h́nh thành giá cả và thực hiện giá trị của các sản phẩm hàng hoá.
Chức năng điều tiết kích thích.
Nhu cầu thị trường là mục đích đáp ứng của mọi quá tŕnh hoạt động sản xuất – kinh doanh. Thị trường vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy các chủ thể kinh tế. Đây chính là cơ sơ khách quan để thực hiện chức năng điều tiết kích thích của thị trường. Thực hiện chức năng này, thị trường có vai tṛ quan trọng trong việc phân bổ và sử dụng hợp lư các nguồn lực khan hiếm của đất nước cho quá tŕnh sản xuất kinh doanh sản phẩm.
Chức năng thông tin.
Có nhiều kênh thông tin kinh tế, trong đó thông tin thị trường là rất quan trọng. Chức năng thông tin thị trường bao gồm: Tổng cung, tổng cầu hàng hoá, dịch vụ, cơ cấu cung cầu các loại sản phẩm hàng hoá trên thị trường, chất lượng, giá cả hàng hoá, thậm chí cả thị hiếu, cách thức, phong tục tiêu dùng của người dân...Những thông tin thị trường chính xác là cơ sở quan trọng cho việc ra các quyết định.
Các chức năng trên của thị trường có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, làm cho thị trường thể hiện đầy đủ vai tṛ bản chất của ḿnh. Chức năng thừa nhận là quan trọng nhất, có tính quyết định. Chừng nào chức năng này được thực hiện th́ các chức năng khác mới phát huy tác dụng. Nếu chức năng thừa nhận đă được thực hiện mà các chức năng khác không thể hiện ra th́ chắc chắn đă có những yếu tố phi kinh tế nào đó can thiệp vào thị trường làm cho nó biến dạng đi.
3- Vai tṛ của thị trường.
Thị trường có một vai tṛ vô cùng quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế thị trường . Thị trường là lĩnh vực trao đổi hàng hoá và dịch vụ thông qua các quy luật của kinh tế hàng hoá, do đó nó là điều kiện cần và buộc phải có để kết thúc một chu tŕnh sản xuất kinh doanh, thực hiện lợi nhuận cho nhà đầu tư. Thông qua thị trường, tất cả các chủ thể kinh tế đều có thể tự do mua những ǵ ḿnh cần, bán những ǵ khách hàng muốn cũng như ḿnh có thể đáp ứng, nhằm thu lợi nhuận. Giá cả thị trường được xác định bởi sự cân bằng cung – cầu, do đó bí quyết để thành công trong kinh doanh là phải làm sao chiếm được ḷng tin của khách hàng, mở rộng thị trường, thị phần cho sản phẩm của ḿnh. Ngoài vai tṛ thực hiện lợi nhuận cho người kinh doanh, thị trường c̣n có vai tṛ trong việc phân bổ những nguồn lực khan hiếm đều cho các ngành, các lĩnh vực và các chủ thể kinh tế thông qua giá cả thị trường.
Qua những vai tṛ trên, hơn ai hết những người làm kinh tế và những người nghiên cứu kinh tế phải đánh giá đúng tầm quan trọng của thị trường, từ đó có những giải pháp để t́m kiếm và phát triển thị trường cho sản phẩm của ḿnh một cách phù hợp. Nắm được bí quyết để tiêu thụ tốt, nhiều sản phẩm trên thị trường là một trong những thành công lớn mà bất cứ người làm kinh tế nào cũng mong đạt được. Nhưng để đạt được thành công đó không phải là vấn đề đơn giản, mà là cả một quá tŕnh nghiên cứu, t́m ṭi cũng như chấp nhận mạo hiểm, rủi ro trong kinh doanh do chính thị trường mang lại.
Việt Nam, từ khi xác định phát triển nền kinh tế theo hướng kinh tế thị trường lấy việc tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật làm nền tảng, đă đưa nền kinh tế nước ta tiến được một bước tiến đáng kể so với cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xă hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tất cả các thành viên trong xă hội có đủ điều kiện kinh doanh theo luật doanh nghiệp Việt Nam đều được kinh doanh các mặt hàng mà nhà nước không cấm. Các thông tin thị trường luôn là những thông tin mở, nắm bắt nó một cách nhanh chóng, nhạy cảm sẽ đem lại những thành công lớn cho người làm kinh tế, qua đó góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển, rút ngắn khoảng cách với các nước công nghiệp hiện đại trên thế giới.
CHƯƠNG II
CƠ CẤU, CHỨC NĂNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG THUỶ SẢN
I- CƠ CẤU, CHỨC NĂNG CỦA THỊ TRƯỜNG THUỶ SẢN.
Cũng giống như cơ cấu của thị trường, cơ cấu của thị trường thuỷ sản gồm các nhóm chủ thể kinh tế với những chức năng nhất định có mối liên hệ với nhau thông qua hệ thống dây chuyền Marketinh:
Người sản xuất - Người bán buôn - Người chế biến - Người bán lẻ - Người tiêu dùng.
Mỗi mắt xích hay mỗi nhóm chủ thể kinh tế trong hệ thống dây chuyền Marketinh trên có một chức năng riêng trong hệ thống chức năng chung của thị trường:
Người sản xuất.
Người sản xuất sản phẩm thuỷ sản là những người làm công việc đánh bắt cá, tôm, hải sản các loại từ môi trường nội đồng, biển khơi và cả nhóm người nuôi trồng hải sản để kinh doanh. Người sản xuất thuỷ sản có thể là những doanh nghiệp lớn với những hạm tầu khai thác cá ở ngoài biển khơi, có thể là trang trại gia đ́nh nuôi trồng thuỷ sản và cũng có thể là những hộ gia đ́nh cá thể đánh bắt và nuôi trồng thủy sản nhỏ lẻ...Những người này có chức năng cung cấp sản phẩm thuỷ, hải sản phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu...
Người bán buôn.
Người bán buôn sản phẩm thuỷ sản có thể là các doanh nghiệp thương mại, các hộ gia đ́nh và các chủ thể nhỏ lẻ..Những người này đảm nhiệm công việc thu gom sản phẩm thuỷ sản từ các ngư trường hoặc các đơn vị kinh doanh nhỏ lẻ trong cả nước để cung cấp trực tiếp cho các đơn vị chế biến hoặc những người bản lẻ ở các chợ hàng.
Người chế biến.
Người chế biến thuỷ sản bao gồm các doanh nghiệp, các đơn vị tập thể, các hộ gia đ́nh cá thể. Họ thực hiện công việc mua gom sản phẩm thuỷ sản sơ chế từ những người bán buôn, sau đó đem chế biến sản phẩm thuỷ sản này thành những sản phẩm có tính công nghiệp phục vụ cho nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của con người,
Người bán lẻ.
Người bán lẻ ở đây gồm các đơn vị tập thể, hộ gia đ́nh cá thể có nhiệm vụ cung cấp hàng tiêu dùng thuỷ sản từ những đơn vị chế biến hoặc các đại lý tới tay người tiêu dùng cuối cùng.
Người tiêu dùng.
Người tiêu dùng là tất cả các thành viên trong xă hội có nhu cầu tiêu dùng sản phẩm thuỷ sản. Họ có trách nhiệm thanh toán tất cả các chi phí từ khi khai thác, chế biến, lưu thông hay nói khác đi là từ khâu sản xuất tới lúc tiêu dùng.
Các quá tŕnh trên được diễn ra liên tiếp để đảm bảo quá tŕnh sản xuất được khép kín, đồng vốn được quay ṿng nhanh đem lại hiệu quả kinh doanh cho người sản xuất thuỷ sản. Qua mỗi một mắt xích, sản phẩm thuỷ sản lại được tăng thêm giá trị cho đến khi tới tay người tiêu dùng cuối cùng nó trở thành một sản phẩm hoàn hảo, phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng. Mỗi một nhóm chủ thể kinh tế trong dây chuyền Marketinh trên, tuy có chức năng khác nhau nhưng chúng có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau, sản phẩm của mắt xích này là nguyên liệu đầu vào của mắt xích tiếp theo. V́ vậy, tất cả các quá tŕnh lưu thông hàng hoá qua các mắt xích trong dây chuyền Marketinh có diễn ra thông suốt th́ mới đảm bảo cho thị trường sản phẩm thuỷ sản được ổn định và phát triển,
II- ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG THUỶ SẢN.
Do đặc điểm của sản xuất, chế biến và tiêu dùng hàng thuỷ sản, thị trường đầu ra cho sản phẩm thuỷ sản là một thị trường đa cấp. Việc t́m hiểu, phân tích thị trường sản phẩm đầu ra cho thuỷ sản là phân tích trạng thái cân bằng ở mỗi cấp thị trường.
Mỗi một loại sản phẩm thuỷ sản ( sản phẩm tươi, sản phẩm chế biến, sản phẩm khô...) đáp ứng đ̣i hỏi của thị trường về tất cả các mặt như: thời gian, không gian, chất lượng, giá cả, số lượng...Do vậy, chủ thể kinh tế tham gia trên dây chuyền marketinh cần bỏ ra những chi phí nhất định để đáp ứng những đ̣i hỏi nói trên của thị trường. Những chi phí này sẽ được phản ánh vào giá cả. Khi thị trường chấp nhận giá, gồm giá sản phẩm thuỷ sản thô cộng với chi phí chế biến, chi phí marketinh th́ chênh lệch giữa giá đó với giá ở cấp thị trường trước đó được gọi là độ cận biên thị trường.Từ những lư luận trên, để thấy được trạng thái cân bằng của mỗi cấp thị trường, ta đi t́m hiểu về độ cận biên thị trường qua giá cả của sản phẩm.
Độ cận biên thị trường và giá cả sản phẩm thuỷ sản.
Độ cận biên thị trường sản phẩm thuỷ sản là một khái niệm thể hiện giá trị dôi ra ở mỗi mắt xích nào đó trên dây chuyền marketinh sản phẩm. Chẳng hạn, người ta xem xét độ cận biên giá bán lẻ và giá bán buôn hoặc độ cận biên giữa giá bán buôn và giá bán lẻ . Như vậy là người ta có thể xem xét độ cận biên thị trường sản phẩm thuỷ sản giữa bất kỳ hai cấp thị trường nào đă định giá.
Chúng ta tiếp cận ở phía người tiêu dùng thủy sản từ hai khía cạnh của quá tŕnh.
Thứ nhất là với tŕnh độ phát triển hiện nay của nền kinh tế nói chung và của ngành thuỷ sản nói riêng, người tiêu dùng các lượng sản phẩm thuỷ sản chế biến chưa nhiều, nhưng ở nông thôn người nông dân sử dụng sản phẩm thuỷ sản thô do ḿnh tự đánh bắt hoặc nuôi trồng lấy nhiều hơn, c̣n ở thành phố th́ người tiêu dùng các sản phẩm đă qua chế biến với số lượng lớn hơn. Điều đó chỉ ra rằng những người tiêu dùng khác nhau có những nhu cầu khác nhau về qui cách, mức chất lượng và dịch vụ cung cấp hàng hoá khác nhau.
Thứ hai là xét về lâu dài, khi thu nhập và mức sống tăng lên cùng với sự phát triển cao hơn của nền kinh tế, nhu cầu của người tiêu dùng ở cả thành thị và nông thôn đều tăng lên đối với các dịch vụ làm tăng giá trị của sản phẩm thuỷ sản. Kết quả là trong cơ cấu giá mua hàng thuỷ sản của người tiêu dùng, phần trả cho cho các dịch vụ có chiều hướng tăng lên, c̣n trả cho sản phẩm thô, sơ chế có chiều hướng giảm xuống. Cùng với sự phát triển kinh tế, độ cận biên thị trường sẽ tăng lên. Độ cận biên thị trường giữa giá bán lẻ và giá tại các cơ sơ đánh bắt ( ngư trường, trang trại nuôi cá, hộ gia đ́nh...) là sự chênh lệch giữa giá bán lẻ cuối cùng cho người tiêu dùng cuối cùng và giá mà người sản xuất thuỷ sản nhận được khi bán sản phẩm thuỷ sản sơ chế.
Có thể coi nhu cầu ở cấp thị trường bán lẻ bao gồm hai phần: Nhu cầu đối với sản phẩm thuỷ sản chưa qua chế biến và nhu cầu đối với một loạt các dịch vụ. Nhu cầu đối với sản phẩm thuỷ sản chưa qua chế biến gọi là nhu cầu phái sinh, xuất phát từ nhu cầu ban đầu ở cấp bán lẻ có kết hợp cả sản phẩm thuỷ sản thô và dịch vụ. Đường cầu này được tạo ra khi đem mỗi điểm trên đường cầu ban đầu trừ đi giá trị về các dịch vụ. Tương tự như vậy, đường cung phái sinh cũng được tạo ra khi đem các giá trị trên đường cung ban đầu cộng với các giá trị về các dịch vụ mà người tiêu dùng yêu cầu đối với người sản xuất. Giao điểm của các đường cung và cầu này sẽ tạo nên giá cả của sản phẩm thuỷ sản trên thị trường.
Khi người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cho độ thoả dụng mà hệ thống thị trường tạo ra về thời gian, không gian, h́nh thức sản phẩm...th́ ở đây độ cận biên thị trường phản ánh mức chuẩn bị đầy đủ thoả dụng đó cho người tiêu dùng. Mức độ và các loại chi phí cho sự “ chuẩn bị “ này hoàn toàn tuỳ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường
Muốn phân tích đầy đủ và cụ thể ta phải đi xét hai trường hợp cụ thể đó là:
Trường hợp độ cận biên thị trường không thay đổi ( trong thời gian ngắn) và trường hợp độ cận biên thị trường thay đổi ( xét trong khoảng thời gian dài).
Sự h́nh thành giá cả theo thời vụ.
Ngành nông nghiệp nói chung và thuỷ sản nói riêng là một ngành sản xuất vật chất có nhiều đặc điểm riêng, trong đó t́nh thời vụ khá cao là nét đặc trưng nhất. T́nh thời vụ của sản xuất thuỷ sản thể hiện rơ ở sự biến động của giá cả thị trường theo thời vụ, đặc biệt là tính không ổn định của giá cả thị trường đầu ra. ở đây, việc phân tích thị trường đầu ra cho sản phẩm thuỷ sản tập trung vào sự h́nh thành giá cả thị trường theo thời gian.
Do đặc của ngành thuỷ sản, việc sản xuất kinh doanh phải dựa trên các qui luật sinh học động thực vật thuỷ sinh nên tính mùa vụ của ngành thuỷ sản là khá cao. Vào đúng mùa vụ, người sản xuất cung ứng sản phẩm theo nhu cầu của người tiêu dùng và do đó giá cả được h́nh thành dựa trên quan hệ cung cầu. Nhưng vào lúc trái vụ, trong khi nhu cầu của người tiêu dùng là không thay đổi th́ người sản xuất lại không có sản phẩm để bán hoặc do chi phí để dự trữ sản phẩm thuỷ sản là quá lớn làm cho giá cả của sản phẩm trên thị trường tăng lên, và ta dễ dàng nhận thấy là mức tăng lên của giá phải lớn hơn chi phí mà người cung ứng bỏ ra để dự trữ sản phẩm( ở đây ta phải hiểu là sản phẩm thuỷ sản rất khó dự trữ v́ đặc tính mau ươn, chóng hỏng của nó..)
Qua những phân tích trên ta thấy rằng tính mùa vụ trong sản xuất thuỷ sản đă làm cho giá cả của sản phẩm thuỷ sản thay đổi rất lớn theo thời gian. Người sản xuất, cung ứng sản phẩm cần nắm rơ đặc điểm này để có chiến lược kinh doanh phù hợp sao cho mức lợi nhuận từ hoạt động đầu tư của ḿnh là lớn nhất.
Tính độc quyền của thị trường thuỷ sản.
Trên thị trường thuỷ sản ta thấy thường chỉ tồn tại dạng độc quyền nhất thời. Tính chất độc quyền này do tŕnh độ sản xuất của ngành thuỷ sản chưa cao mang lại,thêm vào đó ngành thuỷ sản lại là ngành sản xuất phân tán ở nhiều vùng trên cả nước dẫn tới t́nh trạng độc quyền nhất thời là không tránh khỏi.
Ta hiểu, độc quyền nhất thời trên thị trường thuỷ sản như sau: Với một hệ thống các cơ sở sản xuất thuỷ sản phân bố ở khắp nơi trên cả nước, trong khi đó tŕnh độ phát triển của nền kinh tế nói chung và của ngành thuỷ sản nói riêng cón thấp dẫn tới trang thiết bị vận chuyển, cơ sở chế biến c̣n thiếu thốn lạc hậu, cả một vùng rộng lớn sản xuất và đánh bắt mới có một cơ sở mua gom, chế biến. Điều này dẫn tới sự độc quyền trong mua gom sản phẩm và phân phối các sản phẩm chế biến của các cơ sơ nói trên. Tuy nhiên, đây chỉ là t́nh trạng độc quyền nhất thời, khi tŕnh độ phát triển của nền kinh tế cao hơn, sự trang bị cho ngành thuỷ sản hiện đại hơn, tŕnh độ sản xuất, đánh bắt cũng như chế biến của ngành thuỷ sản ở mức độ hiện đại hơn, các cơ sở mua gom được xây dựng nhiều hơn th́ t́nh trạng độc quyền này sẽ mất đi và như vậy việc ép giá của người mua với người sản xuất, nuôi trồng sẽ không c̣n nữa, tiến tới một thị trường cạnh tranh hoàn hoả cho sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam.
Thị trường sản phẩm trong nước c̣n mang tính nhỏ, lẻ.
Với vị thế của hệ thống bờ biển và sông ng̣i, ao hồ của Việt Nam dẫn tới các cơ sở sản xuất thuỷ sản phân bố rộng khắp trên cả nước. Tŕnh độ phát triển của ngành thuỷ sản chưa cao làm cho hệ thống thị trường sản phẩm thuỷ sản cũng phân bố rộng khắp trên cả nước với tính chất là nhỏ và lẻ. Ở trong nước, sản phẩm thuỷ sản được bán chủ yếu tại các chợ ở các địa phương với quy mô không lớn. Các khu chế biến cung ứng sản phẩm thuỷ sản lớn chưa được h́nh thành hoặc đang manh nha, không đáng kể. Do vậy, h́nh thành nên một mạng lưới hệ thống thị trường nhỏ và lẻ phân bố rộng trên các vùng trong cả nước.
CHƯƠNG III
THỊ TRƯỜNG SẢN PHẨM THUỶ SẢN
THỰC TRẠNG VÀ TIỀM NĂNG
I- THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA.
1- Cung - cầu và giá của các sản phẩm thuỷ sản trong nước.
Trong một vài năm gần đây, ngành thuỷ sản Việt Nam phát triển rất mạnh vươn lên là một ngành lớn trong hệ thống kinh tế của cả nước. Năm 2000,tỷ trọng xuất khẩu thuỷ sản đạt 1.4 tỷ USD chiếm tỷ trọng gần 10% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Đến năm 2003,ngành thuỷ sản quyết tâm đạt chỉ tiêu 2.3 tỷ USD đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia hàng đầu về xuất khẩu thuỷ sản. Tuy vậy, có một thực trạng đặt ra là ngành thuỷ sản đă quá chú trọng tới xuất khẩu, trong khi đó theo nghiên cứu của nhóm chuyên gia của FAO tiến hành tại Việt Nam từ cuối 2001 đến nay, thông qua 85 cuộc phỏng vấn và 2000 cuộc điều tra mẫu với các đối tượng người tiêu dùng khác nhau ở 12 tỉnh, thành của cả ba miền th́ có tới 70% lượng thuỷ sản hàng năm được tiêu thụ tại thị trường nội địa. Như vậy, có thể khẳng định thị trường trong nước cho sản phẩm thuỷ sản là rất lớn, cần được chú trọng phát triển.
V́ là nghiên cứu nhấn mạnh vào thị trường trong nước nên người ta đặc biệt quan tâm đến các vấn đề vốn dĩ c̣n yếu kém của Việt Nam như cách tiếp cận thị trường ở ngay tại vùng nuôi, cảng cá cũng như nhu cầu và tiêu thụ các sản phẩm thuỷ sản ở cấp độ người tiêu dùng liên quan đến các hoạt động của người bán sỉ, lẻ và các cơ sở chế biến. Tính đến năm 2002, tổng số dân cả nước khoảng 80 triệu(17 triệu hộ gia đ́nh), trong đó có khoảng 62.315 triệu người ( chiếm 77%) đang sống ở vùng nông thôn, cho thấy phần lớn người tiêu dùng trong nước hiện đang sống ở vùng nông thôn. Về mặt dân tộc, tôn giáo không thấy có rào cản hoặc hạn chế nào đối với người tiêu thụ thuỷ sản v́ phần lớn dân cư thuộc dân tộc Kinh và theo đạo Phật hoặc các tôn giáo khác. Tất cả những khía cạnh này tạo ra cơ sở có lợi cho tiêu thụ thuỷ sản trong người tiêu dùng nội địa dựa vào nghề nghiệp và thu nhập của người dân, đặc biệt là phải ưu tiên cho chiến lược phát triển thị trường vào người tiêu dùng ở đô thị và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của họ.
Xét về hành vi tiêu thụ thuỷ sản của người tiêu dùng dựa vào thói quen ăn uống th́ hộ gia đ́nh được coi là đơn vị tiêu dùng cơ bản, hầu hết các thành viên trong gia đ́nh ăn tại nhà(95% thành viên có mặt trong bữa tối) do đó thường thấy hành vi tiêu thụ thuỷ sản trong mô h́nh tiêu thụ hộ gia đ́nh. Ngoài ra có tới 34.4% số người ăn ở các hàng ăn b́nh dân. Từ đấy cho thấy rằng, sản phẩm thuỷ sản được chấp nhận rộng răi trong người tiêu dùng. Có tới 79.7% số người rất thích ăn cá và không có sự khác biệt về vùng, miền nơi họ đang sống, chỉ có một số rất ít nói rằng họ không thích.
Vậy mô h́nh tiêu thụ thuỷ sản nào là phù hợp với người tiêu dùng trong nước? Về tần suất mua hàng, trong một gia đ́nh người phụ nữ thường đảm trách vai tṛ này ( 83.8%). Cứ hai ngày người ta đi mua thuỷ sản một lần, mỗi lần mua khoảng chừng 1kg, ở thành thị người tiêu dùng sẵn sàng bỏ trung b́nh 20 ngàn đồng/lần c̣n ở khu vực cận đô thị và nông thôn các con số tương ứng là 15 và 10 ngàn đồng/lần. Nói tóm lại, hiện nay mức tiêu dùng thuỷ sản đủ lớn trong các hộ gia đ́nh, tuy nhiên có hạn chế là đa số thuỷ sản tiêu dùng có trọng lượng dưới 1 kg.
Nhu cầu tiêu dùng hàng thuỷ sản trong nước là lớn như vậy, song phần lớn là chưa được đáp ứng hoặc đáp ứng không đầy đủ, nếu biết khai thác tiềm năng về thị trường trong nước sẽ c̣n lớn hơn rất nhiều. Ở nông thôn, ngoài sản phẩm thuỷ sản do người nông dân tự đánh bắt được qua hệ thống sông ng̣i , ao hồ tự nhiên th́ nhu cầu tiêu dùng thuỷ sản ngon cũng khá lớn nhất là trong điều kiện hiện nay, do việc đánh bắt bừa băi, không khoa học đă làm cho lượng cá, tôm ở các ḍng sông lâm vào t́nh trạng cạn kiệt.
Việt Nam thuộc vùng nhiệt đới, á nhiệt đới, ở các tỉnh phía Bắc pha trộn tính ôn đới. Đặc điểm này tạo cho ngành thuỷ sản một số thuận lợi đó là: sự phong phú về giống loài sản phẩm dẫn tới sự đa dạng trong các mặt hàng thuỷ sản đặc biệt là các loài có giá trị kinh tế và xuất khẩu; việc nuôi trồng thuỷ sản diễn ra quanh năm làm cho thị trường thuỷ sản luôn phong phú.
Một số loại sản phẩm thuỷ sản nội đồng được ưa chuộng trên thị trường như:
- Đối với vùng nông thôn: cá mè, cá chép, cá bống, cá trắm cỏ, trắm đen,trê, rô phi, tôm đồng, trôi ấn độ....
- Đối với vùng thành phố và đô thị th́ những sản phẩm được tiêu dùng chủ yếu là: Cá ba sa, trê lai, trắm cỏ, tôm rảo, chim trắng, chim hồng, cá nục, cá đối, mực, cua, ram.....
Để thấy được sự đa dạng của thị trường thuỷ sản trong nước ta t́m hiểu một vài thị trường cá chủ yếu ở các, vùng, miền trong cả nước:
a- Thị trường miền Bắc
Ở miền Bắc, thị trường cá chủ yếu là ở các chợ, đối với vùng nông thôn th́ chợ cá có quy mô nhỏ, vừa. Sản phẩm chủ yếu là các loài cá nội đồng, tôm, sản phẩm biển không nhiều. Một vài con số thống kê cho thấy thị trường tôm ở miền Bắc ( gồm 8 tỉnh như: Quảng Ninh, Hải Pḥng, Thái B́nh, Nam Định, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh) trong mấy năm gần đây phát triển khá nhanh:
Năm 1998 nuôi tôm trên diện tích 6153 ha cho 838 tấn, năm 1999: 9155 ha cho 1612 tấn, năm 2000: 14305 ha cho 3090 tấn. Đến năm 2002 trở lại đây, mô h́nh nuôi tôm công nghiệp( thâm canh), bán thâm canh với năng suất cao đă phát triển ở các tỉnh Quảng Ninh, Thái B́nh,...đă làm cho thị trường tôm được mở rộng và phong phú hơn. Khối lượng tôm cung cấp cho nhu cầu tiêu thụ trong và ngoài nước tăng nhanh đáng kể: năm 2002, sản lượng tôm sú của 8 tỉnh miền Bắc đă đạt 12805 tấn cao gấp 3 lần sản lượng tôm năm 2000 với đà phát triển trên, năm nay Bộ Thuỷ sản dự kiến sẽ phấn đấu tổ chức nuôi đạt sản lượng 15000 tấn và kết quả này sẽ được tổng kết vào cuối năm nay.
Riêng đối với sản phẩm cá ba sa, sau thất bại tại thị trường Mỹ Agifish đă quyết định mở rộng, t́m kiếm thị trường ở ngoài Bắc cho sản phẩm này và đă chọn Công ty TNHH Thái B́nh An Giang-một đối tác có bề dày về tiêu thụ sản hàng thuỷ sản làm tổng đại lý phân phối độc quyền cá ba sa tại khu vực phía Bắc. Thành lập từ tháng 12/2002 (trụ sở tại 345 phố Vọng-Hà Nội), đến nay Thái B́nh An Giang đă có 42 đại lý phân phối sản phẩm từ Nghệ An, Thanh Hoá đến Quảng Ninh, Lạng Sơn,... Các mặt hàng mang thương hiệu Agifish rất đa dạng và phong phú, với danh mục dài hơn 50 món, gồm 4 nhóm sản phẩm chính: khai vị, làm sẵn, khô, sơ chế như lạp xưởng cá ba sa, bánh phồng, khô cá, chà bông, kho tộ, ốc biêu nhồi ba sa hoành thánh, cải cuộn ba sa... Các bà mẹ biết đến bởi nó có giá trị dinh dưỡng rất cao đặc biệt là thành phần DHA, ômêga3 giúp tăng cường trí năo, chống lăo hoá. Đa số khách hàng đều cho rằng, các món ăn cá ba sa của Agifish đa dạng hấp dẫn, tiện dụng cho nhu cầu người tiêu dùng trong thời đại công nghiệp.
Những sản phẩm được người tiêu dùng Hà Nội mua nhiều nhất là cá kho tộ, philê đông lạnh, chả quế, canh chua ba sa.
Khảo sát thực tế ở một số đại lý phân phối tại Hà Nội cho thấy t́nh h́nh kinh doanh của công ty nói chung tại các đại lý nói riêng là rất khả quan. Doanh thu tại một số đại lý là 25-30 triệu đồng/tháng, siêu thị 45 triệu đồng/tháng. Đa số người dân Hà Nội đă bắt đầu quen với tên tuổi loại thực phẩm này. Trước đây, Thanh Tŕ là địa bàn thường xuyên trung chuyển cá tươi cho người dân trong thành phố, cá nhiều, giá lại rẻ nhưng khi sản phẩm của Agifish xuất hiện trên thị trường, người dân nơi đây đă và thường xuyên dùng cá ba sa cho bữa ăn hàng ngày. Hiện nay, Thái B́nh An Giang đă có một số mạng lưới phát triển thị trường vững mạnh tại một số tỉnh, tạo tiền đề để thương hiệu Agifish thâm nhập đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong mọi thành phần dân cư. Mở rộng thị trường, mở rộng mạng lưới kinh doanh, đặc biệt tại một số tỉnh, nhằm đưa sản phẩm cá ba sa đến được với mọi người dân một cách nhanh, hiệu quả, chất lượng và chiếm thị phần ngày càng lớn trên thị trường nội địa là tham vọng của Thái B́nh An Giang nói riêng và của người sản xuất thuỷ sản nói chung.
b- Thị trường miền Trung.
Đối với miền Trung, do điều kiện địa lý tạo nên cho vùng một lợi thế
lớn để phát triển thuỷ sản dẫn tới các thị trường thuỷ sản rất đa dạng. Việc đánh bắt hải sản ngoài biển khơi phát triển hơn các vùng khác. Các chợ cá miền trung thường sôi động và mang nhiều nét riêng. Trước hết, đó chủ yếu là những chợ bán buôn, là nơi trung chuyển sản phẩm đánh bắt, nuôi trồng từ những ngư dân qua tay các chủ nậu vựa, người mua buôn. Phải qua một vài bàn tay nữa sản phẩm mới đến được với tay người tiêu dùng. Thứ hai, các chợ này đều hoạt động từ nửa đêm đến sáng. Ví dụ như tại cảng cá Thuận Phước-cảng cá lớn nhất của Đà Nẵng- là một trong những cảng cá được xây dựng trong dự án nâng cấp cơ sở hạ tầng nghề cá mới đưa vào sử dụng.
Cập cảng Thuận Phước ngoài tàu thuyền bản địa c̣n là nơi tập trung nguồn nguyên liệu từ các nơi khác đến cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Thời gian hoạt động chính của cảng từ 2 giờ đến 11 giờ, cao điểm từ 3 đến 7 giờ. Tuỳ thuộc vào lượng cá đưa về từng ngày, trung b́nh có 1000-2000 người tham gia vào các hoạt động buôn bán ở đây. Cảng có Ban quản lý và những đơn vị phục vụ như: đội bảo vệ, đội thu phí, đội vệ sinh môi trường, tổ dịch vụ điện nước, văn pḥng giao dịch. Ngoài ra c̣n tổ giữ hàng, người gánh thuê, tổ cho thuê bạt thuê cân, đội xuồng vận chuyển nhỏ. Nghĩa là moị nhu cầu dịch vụ đều được đáp ứng.
Các chủ nậu có vai tṛ rất quan trọng. Họ là những người cung ứng nhu yếu phẩm, nhiên liệu cho tầu cá, đồng thời cũng là người tiếp nhận hàng từ các tàu thuyền cập cảng giao cho người buôn, chịu trách nhiệm thu tiền giao cho các chủ thuyền. Họ thường là người địa phương, có nhiều kinh nghiệm, manh mối trong làm ăn, gồm khoảng 20 đến 30 người. Người buôn được phân làm hai loại, những người buôn với số lượng lớn tập trung để xuất khẩu và những người mua với lượng nhỏ hơn để tiêu thụ tại địa phương. Quang cảnh của chợ cá Thuận Phước càng về sáng càng sôi động.
Tại miền Trung, tuy nghề thuỷ sản phát triển từ khá sớm, rất đông các hộ tham gia làm thuỷ sản nhưng ngoài cảng Thuận Phước của Đà Nẵng là khá lớn th́ các chợ cá khác chỉ vừa và nhỏ như cảng cá Cù Lao-Nha Trang. Tại đây, lượng hàng nhập rất thưa thớt, một vài năm gần đây tàu không đưa cá về cảng nữa do diện tích cảng chật hẹp, không có đủ các cơ sở dịch vụ hậu cần và những tư thương tại đây mua sản phẩm với giá không cao. Hiện nay, Nha Trang đang bắt tay vào để xây dựng một cảng mới-cảng Ḥn Rớ với hy vọng thị trường sản phẩm thuỷ sản ở đây phát triển hơn. Giá cá và hàng thuỷ sản khác thường xuyên giao động nhưng ở mức độ không lớn. Tuỳ theo lượng hàng về bến hay nhu cầu tiêu thụ mà sản phẩm có giá khác nhau, nhưng được chia làm hai nhóm rơ rệt: nhóm sản phẩm cao cấp có giá trị rất cao chỉ dành cho xuất khẩu và một số ít được đưa vào các nhà hàng, chẳng hạn như cá mú 70000 đồng/kg, ngừ đại dương 72000 đồng/kg, mực ống 70000 đồng/kg...nhóm c̣n lại có giá trị phải chăng, phù hợp với tiêu thụ nội địa như cá dũa 7000 đồng/kg, cá thu 22000 đồng/kg.
c- Thị trường miền Nam.
Thị trường miền Nam, đây là một thị trường hết sức đa dạng và phong phú, có thể nói là thị trường rộng và lớn nhất trong cả nước. Với lợi thế tự nhiên nhiều ao hồ, cộng với một hệ thống sông ng̣i dày đặc, miền Nam là một nơi lư tưởng để nghề nuôi trồng thuỷ sản phát triển. Trước đây, trong những năm tháng chiến tranh, khi mà nền kinh tế nước nhà c̣n nghèo nàn, lạc hậu, người dân đồng bằng Nam bộ đă coi nghề đánh bắt cá là nghề nuôi sống họ qua những năm tháng đói khổ. Giờ đây, khi đất nước đang trên đà phát triển, người dân đồng bằng sông Cửu Long đă biết tận dụng những lợi thế do thiên nhiên ưu đăi để phát triển nghề cá một cách khá thành công, điều đó được minh chứng qua sự sôi động của thị trường thuỷ sản. Các sản phẩm thuỷ sản của vùng đồng bằng sông Cửu Long rất đa dạng và phong phú bao gồm tất cả các loại cá, tôm nội đồng và hải sản biển như: cá trê lai, cá quả, cá rô phi, cá tra, cá ba sa, tôm nội đồng và tôm biển, đặc biệt ở đồng bằng sông Cửu Long có nghề nuôi cá lồng, bè rất phát triển cung cấp rất nhiều sản phẩm thuỷ sản cho thị trường trong nước và nước ngoài.
Một số thị trường sản phẩm thuỷ sản lớn của khu vực phía Nam là: Bạc Liêu, An Giang, TP Hồ Chí Minh, Kiên Giang, Bà Rịa- Vũng Tàu....
Ở Bạc Liêu, với diện tích nuôi trồng thuỷ sản lên tới 38000 ha, bờ biển dài 56 km, diện tích các ngư trường rộng hàng chục ngàn km2...Bạc Liêu là một trong những vùng biển có trữ lượng hải sản lớn nhất của cả nước, cung cấp cho thị trường một lượng lớn sản phẩm hải sản các loại, đặc biệt là trong đó có các loại tôm chiếm đến 20% tổng sản lượng khai thác của vùng. Trong hai năm qua ngành thuỷ sản Bạc Liêu đă có tốc độ tăng trưởng về năng lực sản xuất, sản lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu (khoảng 30%/năm)
Đối với ngành thuỷ sản của Bà Rịa-Vũng Tàu, sản lượng hải sản đánh bắt đạt51.845 tấn, sản lượng nuôi trồng thực hiện được 735 tấn. Nói chung, ngành thuỷ sản của nơi đây khá phát triển, đặc biệt là ngành nuôi trồng, đánh bắt, chế biến xuất khẩu và công tác dịch vụ hậu cần...
Trong năm qua, tuy ngành thuỷ sản của đồng bằng sông Cửu Long có nhiều biến động, nhưng nói chung thị trường của nó vẫn rất sôi động và thu hút đối với nhà đầu tư ngành thuỷ sản, và có thể khẳng định rằng đây vẫn là một thị trường hấp dẫn, mang lại lợi nhuận cao cho những người đầu tư vào lĩnh vực thuỷ sản, trở thành một thành viên trong kênh phân phối của san phẩm thuỷ sản.
2- Những yếu tố ảnh hưởng tới thị trường thuỷ sản nội địa.
- Thứ nhất: Bên cạnh những thuận lợi mà thiên nhiên đă ưu đăi, ban tặng cho nước ta những điều kiện tuyệt vời để phát triển ngành sản xuất thuỷ sản, th́ đồng thời cũng chính những yếu tố tự nhiên đă làm cho ngành thuỷ sản nước ta gặp không ít những rủi ro do hạn hán, băo, lụt gây nên. Tất cả những điều đó làm cho ngành sản xuất thuỷ sản luôn ở thế bấp bênh dẫn tới thị trường sản phẩm thuỷ sản luôn biến động bất thường, giá cả hàng thuỷ sản phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố tự nhiên này. Khi thời tiết thuận lợi, người sản xuất nuôi trồng, đánh bắt được nhiều làm cho lượng hàng thuỷ sản cung cấp trên thị trường nhiều hơn, giá cả rẻ hơn. Ngược lại, lúc mất mùa do thiên tai gây nên, lượng cung sản phẩm trên thị trường ít hơn đẩy giá hàng hoá cao lên. Và những biến động do thiên tai gây nên này là khó tránh khỏi đồng thời cũng khó biết trước được. Đây là một trong những nguyên nhân khách quan dẫn tới sự biến động của thị trường sản phẩm thuỷ sản.
- Thứ hai: Do điều kiện phát triển kinh tế của nước ta chưa cao, tŕnh độ phát triển của ngành thuỷ sản c̣n ở mức lạc hậu so với thế giới dẫn tới thị trường của sản phẩm thuỷ sản chưa phát triển ở tŕnh độ cao. Những sản phẩm thuỷ sản khi đánh bắt, nuôi trồng với số lượng nhiều nhưng khâu bảo quản, chế biến c̣n chưa đáp ứng được một cách thoả đáng làm cho hàng thuỷ sản nước ta chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao và khó tính của người tiêu dùng trong cũng như ngoài nước. T́nh trạng công nghệ bảo quản, chế biến, thu gom c̣n thấp dẫn tới nhiều sản phẩm thuỷ sản sau khi đánh bắt bị hỏng, ôi làm lăng phí một lượng đáng kể, và đây là một nguyên nhân quan trọng làm ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của thị trường thuỷ sản trong nước.
-Thứ ba: Do những biến động về kinh tế trong khu vực và trên thế giới làm cho sản phẩm thuỷ sản Việt Nam trên thị trường thế giới khó tiêu thụ và điều này cũng ảnh hưởng trực tiếp tới sự biến động của thị trường thuỷ sản trong nước. Sản phẩm hàng hoá không xuất khẩu được dẫn tới lượng tạm trữ trong nước cũng như lượng hàng cung cấp cho thị trường trong nước tăng lên, giá sản phẩm rẻ, gây nên những biến động không nhỏ trên thị trường.
- Thứ tư: Một vài năm gần đây, để tạo điều kiện cho ngành sản xuất thuỷ sản Nhà nước ta đă cho phép ngành thuỷ sản tự t́m kiếm thị trường trong và ngoài nước để giới thiệu sản phẩm đồng thời tự trang trải kinh phí để phát triển do đó đă làm cho thị trường sản phẩm của thuỷ sản được mở rộng và có những bước phát triển đáng kể.
Đó là một vài nguyên nhân chính ảnh hưởng trực tiếp tới sự biến động và phát triển của thị trường thuỷ sản nội địa của nước ta.
3- Những tiềm năng của thị trường thuỷ sản nội địa.
Khai thác, nuôi trồng và xuất khẩu thuỷ sản đă được xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam trong thế kỷ 21. Và phải khẳng định rằng, thời gian qua, chúng ta đă làm được không ít tiền đề quan trọng trong việc tạo lực bẩy, khơi thông luồng ra, phát triển năng suất và phát huy hiệu quả kinh tế của ngành. Tuy nhiên, để nâng ngành thuỷ sản lên tương xứng với tầm vóc của nó, chúng ta đang rất cần có những chiến lược lâu dài và sự phối hợp đồng bộ của nhiều ban ngành khác nhau đặc biệt là việc khơi thông tiềm năng về thị trường đầu ra cho sản phẩm. Ở phạm vi bài này, em xin được nêu một số tiềm năng nội lực cơ bản để phát triển thị trường đầu ra cho sản phẩm hàng hoá như sau;
Trước tiên, về mặt thông tin-tiếp thị thị trường, ngành thuỷ sản đă có nhiều nỗ lực cải thiện trong thời gian qua. Tuy nhiên, đi vào thực tế, vẫn có nhiều vấn đề khách quan cần phải được nh́n nhận. Cũng như nhiều ngành nghề khác, hiện nay, ngành kinh doanh thuỷ sản đang rất chú trọng tới phát triển thị trường cho sản phẩm đầu ra. Có thể nói thị trường trong nước đối với sản phẩm này đang có rất nhiều tiềm năng lớn: số lượng người tiêu dùng đông đảo, việc tiêu dùng cá trong mỗi bữa ăn của các hộ gia đ́nh đă trở thành một thói quen, phong tục; Việt Nam đang xây dựng và phát triển một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, trong đó mọi thông tin thị trường đều được cung cấp một cách tự do và đặc biệt luật cạnh tranh cho ngành thuỷ sản đang c̣n nhiều thuận lợi...
Bên cạnh vấn đề thông tin- tiếp thị thị trường, một việc quan trọng cũng cần được quan tâm nghiên cứu như là một tiềm năng lớn đó là tăng cường đầu tư nâng cấp công nghệ chế biến sau đánh bắt để khai thác hết giá trị của sản phẩm thuỷ sản Việt Nam, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của khách hàng. Không ai có thể phủ nhận trong thời gian qua nước ta đă có nhiều nỗ lực cải tiến trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, thực tế mà nói, những ǵ phần đông doanh nghiệp trong nước đă và đang có vẫn chưa thể gọi là hiện đại, đủ để đáp ứng yêu cầu gắt gao của người tiêu dùng trong và ngoài nước. Sản phẩm sản xuất ra chưa được đưa vào chế biến một cách kịp thời, đúng cách dẫn tới chất lượng hàng hoá chưa cao đồng thời cùng không khai thác được hết những giá trị vốn có của sản phẩm tươi sống.. Với điều kiện công nghệ hiện đại như hiện nay, việc áp dụng những thành tựu phù hợp để khai thác giá trị của sản phẩm chế biến đang được coi là một tiềm năng lớn của ngành thuỷ sản của nước ta và nó đang được chú trọng khai thác.
Cuối cùng, đó là việc tận dụng những tiềm năng sẵn có mà thiên nhiên ban tặng cho nước ta để phát triển một ngành thuỷ sản tương xững với tiềm năng sẵn có của Việt Nam.
II- THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM.
Thị trường các nước Châu Á
Ngoài việc xuất khẩu sang các nước của khu vực ASEAN ,Đài Loan, Trung Quốc th́ hàng thuỷ sản của Việt Nam được bán chủ yếu tại thị trường Nhật Bản- đây cũng là thị trường xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất của nước ta trong một số năm gần đây (sáu tháng đầu năm nay chiếm 27% giá trị kim ngạch thuỷ sản xuất khẩu). Trong bài viết này, để t́m hiểu thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tại khu vực CHÂU Á, em xin nêu một số t́nh h́nh về xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật Bản.
Có thể nói thị trường Nhật Bản là một thị trường lớn, hấp dẫn đối với các sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam, tuy ngành thuỷ sản của Nhật Bản phát triển cao nhưng họ vẫn nhập rất nhiều sản phẩm của Việt Nam do hàng thuỷ sản của nước ta có chất lượng tốt, giá cả phải chăng và đặc biệt là do chủng loại sản phẩm của nước ta rất đa dạng và phong phú nhất là các sản phẩm cá, tôm nước ngọt và nước lợ.
Hai mươi năm qua, Nhật Bản vẫn là thị trường nhập khẩu thuỷ sản với khối lượng lớn từ Việt Nam, bởi vậy đă có 150 doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường này. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản năm 1999 đạt 353 triệu USD; năm 2000 đạt 469 triệu USD; tới năm 2002 đạt hơn 500 triệu USD.
Những sản phẩm chủ yếu mà Việt Nam xuất khẩu sang Nhật là: tôm, hải sản biển, cá nước ngọt và một số loại hải sản quư hiếm khác...
Với những tiềm năng thuỷ sản mà chúng ta sẵn có, nếu biết khai thác, chế biến phù hợp đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng của người dân Nhật Bản th́ đây sẽ c̣n là một thị trường lư tưởng cho các nhà kinh doanh xuất khẩu thuỷ hải sản của Việt Nam.
Thị trường EU.
Thị trường EU có 15 thành viên với 337 triệu dân, GDP hơn 9000 tỷ USD/năm, tiêu thụ các mặt hàng thuỷ sản có chất lượng cao. Hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào EU những năm gần đây xếp vào danh sách II, đến năm 2000 đưa lên danh sách I. Một số nhà xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam cho rằng, EU đă mở rộng cánh cửa cho thị trường này.
Thị trường EU không phải là thị trường đồng nhất mà là thị trường của 15 nước khác biệt, trên thực tế các nhóm dân cư, các vùng địa lý với những nét đặc trưng ẩm thực khác nhau. Do đó kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường này chỉ ổn định trong khoảng 80-100 triệu USD.
Trên đây là một số thành tựu mà ngành thuỷ sản Việt Nam đă đạt được tại thị trường EU, nhưng chúng ta không thể không nh́n ra một thực tế là thị trường EU là một thị trường khó tính, những đ̣i hỏi của thị trường này đối với các sản phẩm thuỷ sản nước ta ngày càng cao, trước tiên là về vệ sinh an toàn thực phẩm, sau đó đến mẫu mă, chủng loại sản phẩm. Muốn mở rộng thị trường tại nơi đây, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam chỉ có một con đường duy nhất là giữ được chữ tín trong ḷng khách hàng thông qua việc không ngừng đổi mới chất lượng, mẫu mă sản phẩm của ḿnh. Có như vậy ngành thuỷ sản mới mong giữ được thị trường Châu Âu nói chung và thị trường EU nói riêng. Trong một vài năm gần đây, t́nh h́nh xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào Châu Âu tương đối ổn định , nhưng nh́n chung có xu hướng giảm, mà rơ rệt nhất là ở mặt hàng tôm- sản phẩm chiếm tỷ trọng cao nhất của ta. Những biến động dù là nhỏ này cũng nói lên một điều là sản phẩm thuỷ sản của nước ta chưa thoả măn một cách tốt nhất những nhu cầu của người tiêu dùng nơi đây. Thấy được những đặc điểm này là một trong những tín hiệu thị trường giúp cho các nhà đầu tư vào lĩnh vực xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam có hướng điều chỉnh sao cho phù hợp để EU măi là một thị trường lớn cho sản phẩm thuỷ sản của nước ta.
Thị trường Mỹ.
Thị trường Mỹ luôn là một thị trường hấp dẫn không chỉ đối với các nước Châu á (trong đó có Việt Nam), mà c̣n là mục tiêu của nhiều nước châu lục khác. Bởi không chỉ có 270 triệu dân với GDP năm 1997 là 800 tỷ USD, kinh tế liên tục tăng trưởng: năm 1998 là 3.4%; năm 1999 là 3.6%; năm 2000 ḱm hăm tốc độ cũng đạt 3% đến 3.2%. Sức mua của người dân Mỹ lớn, giá cả ổn định mặt hàng chất lượng cao càng đắt giá lại càng dễ tiêu thụ.
Năm 1999 nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ đạt con số kỷ lục 9.3 tỷ USD. Vào thị trường Mỹ có nghĩa là hàng hoá uy tín chất lượng cao, bởi v́ phải đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn HACCP.
Nắm bắt được tính cách và tiềm năng của thị trường này, Việt Nam đă cử chuyên gia thuỷ sản đầu tiên tham gia lớp tập huấn quốc tế về HACCP(Hazard Analysis critical control Point) từ năm 1991. Ngành thuỷ sản cũng đă thành lập cơ quan kiểm tra chất lượng hàng thuỷ sản, cho nên năm 1998 đă có 27 nhà máy đông lạnh chế biến thuỷ sản đạt tiêu chuẩn HACCP, năm 1999 lên 47 nhà máy, năm 2000 có 67 nhà máy đạt tiêu chuẩn HACCP.
Năm 1997 hàng thuỷ sản Việt Nam xuất sang thị trường Mỹ mới đạt 39.3 triệu USD; năm 1998 lên 80.15 triệu USD tăng 204% so với năm 1997; năm 1999 lên 130 triệu USD , tăng 162.2 % so với năm 1998; năm 2000 tăng 220%. Trong những mặt hàng thuỷ sản vào thị trường Mỹ th́ con tôm vẫn là mặt hàng chủ lực, năm 1997 xuất được 3074 tấn tôm với giá trị kim ngạch 31.32 triệu USD, chiếm 79.6% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ; năm 1998 xuất khẩu được 6125.7 tấn với giá trị kim ngạch 66.89 triệu USD; năm 1999 xuất được 9100 tấn với giá trị kim ngạch 96.5 triệu USD, chiếm 74.23% kim ngạch năm 1999. Giá tôm ở thị trường Mỹ tương đối cao so với các thị trường khác. Ngoài tôm sú, các mặt hàng khác thường được xuất khẩu sang Mỹ bao gồm các loại thuỷ sản khác như: cá ba sa, cá tra, cá nheo, cá bơn nuôi nước ngọt và cá ngừ biển khơi...Tất cả những mặt hàng trên đều được thị trường Mỹ chấp nhận với giá cả tương đối cao. Tuy nhiên, trong năm vừa qua, sau thất bại của vụ kiện về việc bán phá giá cá tra, cá ba sa của Việt Nam trên thị trường Mỹ th́ t́nh h́nh xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào Mỹ gặp phải nhiều khó khăn.
Để tránh gặp phải t́nh trạng này, đồng thời cũng là cách tốt nhất để bảo vệ người sản xuất cá của Việt Nam, chúng ta phải làm sao xây dựng được một thương hiệu có giá trị cho các sản phẩm của ḿnh, và hơn thế nữa ngành thuỷ sản phải không ngừng cải tiến sản phẩm của ḿnh về chất lượng, mẫu mă, chũng loại...Có như thế sản phẩm thuỷ sản Việt Nam với khẳng định được vị trí của ḿnh trên thị trường Mỹ nói riêng và thị trường thế giới nói chung. Để thị trường xuất khẩu luôn là một thị trường rộng lớn, hấp dẫn đối với người sản xuất thuỷ sản của Việt Nam.
Ngày nay, khi tŕnh độ phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới cao hơn th́ nhu cầu của con người đối với sản phẩm thuỷ sản càng được chú trọng, do đó thị trường sản phẩm đầu ra của thuỷsản trên thế giới không ngừng được mở rộng. Tuy nhiên, do đặc điểm, thị hiếu tiêu dùng của mỗi quốc gia là khác nhau v́ vậy mà yêu cầu đối với từng thị trường cũng khác nhau. Để mở rộng thị trường xuất khẩu cho thuỷ sản th́ những người kinh doanh không thể không chú ư tới việc nghiên cứu thị trường, từ đó có những chiến lược kinh doanh hợp lý, đáp ứng một cách tốt nhất, phù hợp nhất những nhu cầu ngày càng cao của thị trường thế giới. Có như vậy ngành thuỷ sản nói chung và xuất khẩu thuỷ sản nói riêng mới có cơ hội để phát triển nhanh hơn, mạnh hơn, khai thác một cách tối ưu những tiềm năng thuỷ sản dồi dào mà thiên nhiên đă ban tặng cho đất nước chúng ta.
III- MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ THỰC TRẠNG VÀ TIỀM NĂNG.
1- Khai thác hải sản.
Ở Việt Nam nghề khai thác hải sản xuất hiện từ rất sớm, tuy nhiên nó lại phát triển rất chậm, chỉ đến một vài năm gần đây mới đạt được một thành tựu đáng kể.
Trước đây, do tŕnh độ phát triển kinh tế c̣n kém, đất nước lại bị chiến tranh tàn phá, người làm nghề biển không có điều kiện để tiếp cận với khoa học hiện đại v́ vậy mà trong một thời gian rất dài nghề đánh bắt, khai thác hải sản phát triển rất chậm. Hiện nay, khi đất nước đang trong thời kỳ mở cửa, điều kiện chuyển giao công nghệ được thuận lợi, ở Việt Nam đă bắt đầu xuất hiện những hạm tầu đánh bắt cá xa bờ do đó mà khối lượng hải sản khai thác được ngày một nhiều hơn. Đứng trước một thực tế là do t́nh trạng đánh bắt ven bờ quá bừa băi dẫn tới những vùng biển ven bờ lâm vào t́nh trạng cạn kiệt, ô nhiễm, v́ vậy mà xu hướng đánh bắt cá ngoài biển khơi là một xu hướng khách quan, tuy nhiên tŕnh độ khai thác hải sản biển của Việt Nam c̣n khá lạc hậu so với thế giới, chưa khai thác hết được nguồn tài nguyên biển dồi dào mà thiên nhiên đă ưu ái ban tặng cho chúng ta.
Nghề khai thác thuỷ sản biển của Việt Nam c̣n khá thô sơ. Phương tiện tàu công suất thấp, trang thiết bị ngư cụ nghèo nàn và quy mô nhỏ, lại kiêm nhiệm tất cả các khâu: khai thác, bảo quản, dịch vụ trên một tàu. Công nghệ khai thác chủ yếu tầng mặt nước, thời gian bám biển ngắn, tŕnh độ hợp tác trên biển thấp. Khả năng khai thác tầng nước sâu trên 50 m kém, trong khi rất nhiều loài hải sản quư hiếm, có giá trị kinh tế cao, khả năng xuất khẩu lớn lại chủ yếu sống ở tầng nước sâu. Tính đến hiện nay, cả nước ta mới chỉ có được 7 hạm tầu lớn khai thác xa bờ, nhưng những hạm tầu này cũng không sử dụng hết công suất do tŕnh độ chế biến, bảo quản của ta c̣n thấp, cá khai thác xong không được bảo quản tốt, thời gian trên biển dài nên khi về đến bờ một lượng cá khá lớn bị hư hỏng không sử dụng được rất lăng phí.
Tiềm năng hải sản biển của nước ta rất dồi dào, diện tích vùng biển rộng lớn, phần nhiều chưa được khai thác nên khối lượng hải sản có thể khai thác là đáng kể. Vấn đề hiện nay là làm sao để khai thác được hết tiềm năng biển dồi dào này để đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng trong nước và trên thế giới. Trước thực trạng trên, ngành thuỷ sản đă tập trung đầu tư cho khai thác hải sản biển trên một số lĩnh vực sau:
- Hiện đại hoá trang thiết bị lưới ngư cụ; bảo quản sau thu hoạch tốt, tổ chức sản xuất, khai thác theo tập đoàn.
- Tổ chức đội tàu dịch vụ hậu cần, tổ chức dịch vụ thu gom sản phẩm trên biển, bảo quản sản phẩm sau thu hoạch để tăng chất lượng và đảm bảo đủ tiêu chuẩn xuất khẩu cá ăn tươi, ngon.
- Tăng cường công tác đào tạo chuyển giao công nghệ cho ngư dân. Cải tiến trang thiết bị bảo quản sau thu hoạch.Nghiên cứu cải tiến ngư cụ hiện có phù hợp với tàu hiện có để phát huy đội tầu của ngư dân.
- Khuyến khích các h́nh thức thuê mướn chuyên gia, tổ chức cho như dân tham quan học tập kinh nghiệm của đơn vị khai thác thuỷ sản có hiệu quả trong nội bộ địa phương và tỉnh bạn, cũng như của nước ngoài khi có điều kiện.
- Tiếp tục thực hiện chính sách tín dụng ưu đăi đầu tư và đủ vốn lưu động cho các doanh nghiệp khai thác hải sản xa bờ.
- Biển Việt Nam c̣n một số loài cá có giá trị xuất khẩu cao, được thị trường thế giới ưa chuộng, cần được tổ chức khai thác tốt, đi đôi với tăng cường hậu cần dịch vụ để đảm bảo chất lượng như: cá Mú, cá Cam, cá Thu, cá Hồng..
2- Chế biến và dự trữ.
Theo xu hướng hiện nay, nhất là các thị trường lớn đang hướng sang tiêu thụ các mặt hàng chế biến giá trị gia tăng và yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm ngày một khắt khe hơn. Các xí nghiệp chế biến hàng thuỷ sản đă và đang nâng cấp, đổi mới trang thiết bị, công nghệ, đáp ứng yêu cầu cao của thị trường, tăng sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Vài năm qua, có nhiều doanh nghiệp chế biến đă tích cực đầu tư đổi mới công nghệ, thực hiện các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Đến cuối năm 2000 đă có 61 doanh nghiệp chế biến thuỷ sản Việt Nam được vào danh sách xuất hàng hải sản vào EU.
Hiện nay, sản lượng chế biến ngày càng lớn(7 tháng có trên 30 vạn tấn), để chủ động cho thị trường, cần một kho lạnh hiện đại trong cả nước. Yêu cầu vận tải tăng, vận tải đường sắt cần có toa vận tải lạnh cho hàng thuỷ sản...
Cũng chính v́ công tác chế biến thuỷ sản được tổ chức tốt hơn v́ vậy mà lượng cá được dự trữ để tránh yếu tố thời vụ và sự dư thừa sản phẩm hàng hoá đă được thực hiện tốt hơn. Lấy ví dụ như trong năm vừa qua, chúng ta đă tiến hành dự trữ một lượng lớn cá tra và cá ba sa do không xuất khẩu được để chuyển sang tiêu thụ tại miền Bắc và miền Trung. Công tác dự trữ tốt đă làm cho khối lượng hàng thuỷ sản cung cấp trên thị trường ổn định và tránh lăng phí một lượng lớn sản phẩm thuỷ sản đem lại hiệu quả kinh tế cao.
3- Tiêu thụ sản phẩm.
Có thể nói, thị trường tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản cả trong và ngoài nước đều rất lớn và có nhiều khả năng mở rộng. Đối với thị trường trong nước việc tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản có chất lượng cao ở khu vực nông thôn đang rất cần được chú trọng khai thác v́ phần lớn dân số Việt Nam sinh sống tại nông thôn. Hơn nữa thị trường này chưa được phát triển một cách thoả đáng, c̣n rất nhiều tiềm năng, nhất là trong điều kiện đời sống của người nông dân đang ngày càng được cải thiện như hiện nay. Đối với thị trường thế giới, một vài năm gần đây có một số biến động lớn làm cho khối lượng thuỷ sản tiêu thụ xuất khẩu của nước ta giảm đi đáng kể. Nhưng nh́n chung đây vẫn là một thị trường lớn cho sản phẩm thuỷ sản của nước ta, người tiêu dùng trên thế giới có những nhu cầu rất khác nhau và ngày càng tăng về chất lượng và số lượng, vấn đề đặt ra đối với chúng ta để mở rộng thị trường này là phải làm sao tăng chất lượng, quy cách, mẫu mă sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của từng quốc gia trên thế giới. Và hơn thế nữa là phải tạo cho sản phẩm của nước ta một thương hiệu xác định nhằm xây dựng ḷng tin đối với người tiêu dùng. Có như vậy mới mong mở rộng được thị trường xuất khẩu cho sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam đưa ngành thuỷ sản Việt Nam lên ngang tầm với các quốc gia phát triển trên thế giới.
KẾT LUẬN
Với những tiềm năng dồi dào và sản phẩm mang lại giá trị kinh tế cao, ngành thuỷ sản đang được một số nhà nghiên cứu kinh tế đánh giá là ngành kinh tế của Việt Nam trong 5 năm tới. Dựa vào giá trị kim ngạch mà ngành thuỷ sản đóng góp vào GDP của cả nước th́ nhận định trên là hoàn toàn có cơ sở và có khả năng trở thành hiện thực. Điều này sẽ giúp cho một số lượng lớn người dân làm nghề nuôi trồng thuỷ sản có điều kiện để tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống, một lượng lớn lao động thất nghiệp sẽ có việc làm, qua đó góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của cả nước.
Nhưng để làm được điều kỳ diệu trên đ̣i hỏi những người làm kinh tế nói chung và những người kinh doanh thuỷ sản nói riêng phải có chiến lược kinh doanh phù hợp. Một trong những chiến lược quan trọng nhất đó là làm thế nào để mở rộng thị trường, khai thác hết tiềm năng tiêu thụ rộng lớn trong dân cư và trên thế giới, tạo cho người sản xuất thuỷ sản một thị trường đầu ra ổn định, giúp họ an tâm sản xuất, có như vậy ngành thuỷ sản mới mau chóng trở thành một nền kinh tế trọng điểm tương xứng với tiềm năng sẵn có của nó.
(ST)
DANH MỤC TÀI LIỆI THAM KHẢO
Giáo tŕnh Kinh Tế Nông Nghiệp.
Giáo tŕnh Marketinh Nông Nghiệp.
Giáo tŕnh Kinh Tế Thuỷ Sản.
Tạp chí Thuỷ Sản .
số 5/2001; 5/2002; 6/2003; 7/2003 .
Tạp chí Thị Trường Giá Cả Và Dự Báo.
số 11/2000; 4/2003.
Tạp chí Thương Mại.
số 6/1999; 19/2001.
Tạp chí Công Nghiệp Việt Nam.
số 10/2001.
Tạp chí Thương Nghiệp Thị Trường Việt Nam.
số 10/2001.
Tạp chí Kinh Tế và Dự Báo.
số 8/2001.
10-Tạp chí Nông Thôn Ngày Nay.
số 121/2003.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M7908C L7908C.doc