Sáu là, xây dựng quan hệ lao
động hài hòa, ổn định và tiến bộ. Xây
dựng công đoàn cơ sở vững mạnh. Tôn
trọng và bảo vệ quyền của người lao
động trong việc thành lập và gia nhập
tổ chức của người lao động tại cơ sở
doanh nghiệp. Đẩy mạnh thực hiện
quyền thương lượng tập thể thực chất.
Nâng cao năng lực của cơ quan thanh
tra lao động trong tiếp nhận, xử lý
thông tin, xử lý tranh chấp lao động để
đáp ứng các cam kết trong FTA.
Bảy là, thúc đẩy di cư lao động
an toàn và hiệu quả. Hỗ trợ cho lao
động di chuyển (dỡ bỏ các rào cản về
hành chính, tạo liên thông các dịch vụ
xã hội cơ bản, liên thông bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế .). Đối với lao động Việt Nam làm
việc tại nước ngoài theo hợp đồng, cần
tiếp tục khắc phục: i) lao động bỏ trốn
(bảo đảm cho người lao động về nước
đúng hạn) và tái hòa nhập tốt vào
TTLĐ; ii) liên kết và tạo dựng mạng
lưới ASXH; iii) chuyển tiền về nước an
toàn và sử dụng hiệu quả; iv) giảm các
tiêu cực trong tuyển dụng.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 10 trang
10 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 529 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Thị trường lao động Việt Nam trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 46/Quý I - 2016 
 9 
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH 
HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ QUỐC TẾ 
PGS.TS. Nguyễn Bá Ngọc, Ths. Trịnh Thu Nga, Ths. Đặng Đỗ Quyên 
Viện Khoa học Lao động và Xã hội 
Tóm tắt: Trong những năm qua, tiến trình hôị nhâp̣ kinh tế quốc tế của Viêṭ Nam đã 
đaṭ đươc̣ những kết quả vững chắc. Việt Nam đã gia nhâp̣ Tổ chức Thương mại Thế giới 
năm 2007 và tham gia 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA). Đặc biệt, việc tham gia Hiệp 
định Đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), FTA với Liên minh châu Âu (EU) 
và hình thành Cộng đồng ASEAN trong năm 2015 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng 
trong hội nhập mạnh mẽ của Việt Nam vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Thị trường lao 
động Việt Nam sẽ đứng trước các cơ hội và thách thức hội nhập, đồng thời cũng thể hiện 
những điểm mạnh và điểm yếu trong cạnh tranh khu vực và quốc tế. 
Từ khóa: thị trường lao động, hội nhập, khu vực ASEAN, quốc tế. 
Abstract: In recent years, the process of international economic integration of 
Vietnam has achieved solid results. Vietnam become a member of the World Trade 
Organization in 2007 and participated in 16 Free Trade Agreements (FTA). In particular, 
participation in the Strategic Partnership Agreement Trans-Pacific (TPP), the FTA with 
the European Union (EU) and the formation of the ASEAN Economic Community in 2015 
marked an important turning point of Vietnam economy in integrating into the regional 
and the world economy. Vietnam's labor market will face opportunities and challenges of 
integration. It will also express its strengths and weaknesses before regional and 
international competition. 
Keywords: labor market, integration, ASEAN, international. 
I. BỐI CẢNH 
Hiệp định đối tác xuyên Thái 
Bình Dương (TPP) đã được ký kết vào 
ngày 4 tháng 2 năm 2016, tại 
NewZealand giữa 12 quốc gia thành 
viên1, trong đó có Việt Nam, TPP có 
quy mô kinh tế chiếm 40% GDP và 
30% thương mại toàn cầu. Hiệp định 
TPP là FTA đầu tiên mà Việt Nam 
1 Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, 
Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, 
Hoa Kỳ và Việt Nam 
tham gia có chương riêng về lao động, 
bao gồm: (i) cam kết thực thi nghĩa vụ 
là thành viên ILO và không sử dụng 
các tiêu chuẩn về lao động nhằm mục 
đích bảo hộ thương mại; (ii) đảm bảo 
các quyền của người lao động được 
khẳng định trong Tuyên bố năm 1998 
của ILO, bao gồm: Tự do hiệp hội và 
thực hiện có hiệu quả quyền thương 
lượng tập thể, xóa bỏ mọi hình thức lao 
động cưỡng bức và lao động bắt buộc, 
xóa bỏ có hiệu quả lao động trẻ em và 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 46/Quý I - 2016 
10 
nghiêm cấm các hình thức lao động trẻ 
em tồi tệ nhất, xóa bỏ phân biệt đối xử 
trong công việc; (iii) đảm bảo điều kiện 
về tiền lương tối thiểu, thời giờ làm 
việc và an toàn vệ sinh lao động. 
Những điều khoản về lao động trong 
TPP sẽ tạo ra “sức ép” trong thực thi 
chính sách và tiêu chuẩn lao động tại 
các nước đang phát triển, trong đó có 
Việt Nam. Việt Nam là nước kém phát 
triển nhất trong TPP, là nước xuất khẩu 
dựa vào hàng hóa thâm dụng lao động 
cao với lợi thế về lao động rẻ. Trong 
ngắn hạn, việc chấp nhận các tiêu 
chuẩn cao của Hiệp định TPP về lao 
động sẽ khó tránh khỏi những tác động 
bất lợi cho Việt Nam trong cạnh tranh 
quốc tế. 
Hình thành Cộng đồng ASEAN, 
TTLĐ các nước thành viên, trong đó 
có Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ 
việc thực thi các biện pháp xây dựng 
một cơ sở sản xuất ASEAN thống nhất, 
khu vực kinh tế cạnh tranh, phát triển 
kinh tế bình đẳng và hội nhập vào nền 
kinh tế toàn cầu. TTLĐ của các nước 
thành viên cũng sẽ có cơ hội phát triển 
mạnh mẽ trong 12 ngành ưu tiên hội 
nhập, gồm: 7 ngành sản xuất hàng hóa 
là nông sản, thủy sản, sản phẩm cao su, 
sản phẩm gỗ, dệt may, điện tử, ô tô; 2 
ngành dịch vụ là hàng không và e- 
ASEAN (hay thương mại điện tử); và 2 
ngành vừa hàng hóa vừa dịch vụ là y 
tế và công nghệ thông tin, ngành hậu 
cần. Đặc biệt, việc tự do dịch chuyển 
của lao động kỹ năng cao giữa các 
nước thành viên sẽ mang lại nhiều lợi 
ích nhưng cũng gây ra cạnh tranh gay 
gắt về lao động kỹ năng giữa các nước 
thành viên ASEAN. 
Việt Nam đã tham gia 16 hiệp 
định kinh tế - thương mại tự do, bao 
gồm: các hiệp định thương mại Viêṭ 
Nam - Hoa Kỳ (BTA) năm 2000, 
VJEPA Viêṭ Nam - Nhâṭ Bản năm 
2008 và FTA Viêṭ Nam - Chi-lê năm 
2011 và các hiệp định đa phương như 
các FTA giữa khối ASEAN với các đối 
tác như Trung Quốc vào năm 2004, với 
Hàn Quốc vào năm 2006, Nhâṭ Bản vào 
năm 2008, Ôt-xtrây-lia và Niu Di-lân 
vào năm 2009, Ấn Đô ̣năm 2009, FTA 
với Liên minh châu Âu (EU) và Hàn 
Quốc năm 2015. Nhìn chung, các Hiệp 
định này chủ yếu tập trung vào các cam 
kết về tự do hóa thương mại hàng hóa 
và dịch vụ, song tự do hoá thương mại 
hàng hoá và dịch vụ có tác động mạnh 
mẽ đến nhu cầu tuyển dụng lao động, 
cơ cấu việc làm, điều kiện làm việc và 
xu hướng tiền lương/tiền công. 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 46/Quý I - 2016 
 11 
Hình 1: Thay đổi việc làm theo ngành, kịch bản 
AEC so với kịch bản cơ sở, năm 2025 (nghìn) 
Nguồn: ILO&ADB, 2015. 
II. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 
VIỆT NAM VÀ HỘI NHẬP 
1. Cơ hội và điểm mạnh 
1.1. Cơ hội 
Gia tăng việc làm và nâng cao 
chất lượng việc làm. Hội nhập sâu hơn 
với kinh tế thế giới dẫn đến thu hút 
được nhiều vốn đầu tư và công nghệ từ 
bên ngoài, tham gia sâu hơn vào chuỗi 
sản xuất và cung ứng toàn cầu, mở rộng 
các kênh dịch chuyển lao động. Hội 
nhập mở ra các cơ hội phát triển nghề 
nghiệp, kèm theo là việc thực hiện các 
quyền cơ bản của người lao động, cơ 
chế đối thoại xã hội và bảo đảm ASXH 
sẽ góp phần quan trọng nâng cao chất 
lượng việc làm của Việt Nam. 
Theo ILO đến năm 2025, khi tham 
gia vào Cộng đồng Kinh tế ASEAN 
(AEC) Việt Nam sẽ tăng thêm 6 triệu 
việc làm so với kịch bản cơ sở, chiếm 
10% tổng việc làm tăng thêm của khối 
(60 triệu), chủ yếu ở các ngành sản xuất 
lúa gạo, xây dựng, vận tải, dệt may và 
chế biến lương thực. 
Chuyển dịch tích cực cơ cấu việc 
làm. Các dòng vốn đầu tư và công nghệ 
sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu từ 
những ngành kinh tế năng suất thấp 
sang những ngành có năng suất lao 
động cao hơn và tham gia vào chuỗi giá 
trị nhiều hơn. Việt Nam có cơ hội thu 
hút lao động có trình độ cao như các 
bác sỹ từ Singapore, kỹ sư từ Hàn Quốc 
hay Nhật Bản, các nhà quản lý dự án từ 
Philippines, v.v... nhằm bù đắp sự thiếu 
hụt lao động chất lượng cao trong 
nước, thúc đẩy đầu tư, tăng trưởng, thu 
hẹp khoảng cách phát triển. Tham gia 
mạng sản xuất toàn cầu sẽ tạo ra những 
việc làm với trình độ công nghệ cao 
(công nghệ thông tin và internet, vận tải 
đa phương thức và dịch vụ logistics, tự 
động hóa....), mức lương cao và điều 
kiện làm việc tốt. 
Tạo điều kiện để đổi mới hệ 
thống giáo dục – đào tạo. Đề đảm bảo 
cho lao động Việt Nam hội nhập tốt 
vào TTLĐ, hệ thống giáo dục- đào tạo 
đứng trước áp lực và có điều kiện đổi 
mới căn bản và toàn diện nhằm đáp ứng 
nhu cầu lao động kỹ năng của 
TTLĐ trong nước và quốc tế 
cả về số lượng, cơ cấu ngành 
nghề- cấp trình độ và chất 
lượng sinh viên ra trường. 
Tạo xung lực để cải 
cách TTLĐ Việt Nam và kết 
nối hiệu quả với thế giới. 
Hội nhập tạo điều kiện để cải 
cách TTLĐ Việt Nam theo 
hướng an ninh-linh hoạt, kết 
nối với TTLĐ quốc tế và thúc 
đẩy dịch chuyển lao động kỹ 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 46/Quý I - 2016 
12 
Hình 2: Dự báo 10 ngành có nhu cầu việc làm cao nhất 
theo kịch bản AEC 2010-2025 (nghìn) 
Nguồn: ILO&ADB, 2015 
năng. Trước mắt, lao động thuộc 8 
nhóm nghề được tự do di chuyển trong 
các nước ASEAN thông qua các thỏa 
thuận công nhận tay nghề tương đương: 
kỹ sư, kiến trúc sư, kế toán, khảo sát, 
bác sỹ, nha sỹ, điều dưỡng, du lịch với 
trình độ tiếng Anh thông thạo sẽ có 
điều kiện di chuyển tự do với cơ hội 
việc làm tốt hơn, đóng góp nhiều hơn 
cho phát triển đất nước. 
Hiện nay, Việt Nam có khoảng 500 
nghìn lao động đang làm việc tại hơn 40 
nước và vùng lãnh thổ. Bên cạnh đó, 
Việt Nam cũng thu hút được ngày càng 
đông đội ngũ các chuyên gia, các nhà 
quản lý nước ngoài đến làm việc, tính 
đến 2015, cả nước có 83,6 nghìn lao 
động nước ngoài đến chủ yếu từ 
Trung quốc (31%), Hàn Quốc 
(18%), Đài Loan (13%), Nhật Bản 
(10%) và nhiều nước Châu Âu, 
Châu Mỹ, Châu Phi và Châu Á 
khác. 
1.2. Điểm mạnh 
So với các nước trong 
ASEAN, Việt Nam có mức độ hội 
nhập sâu rộng nhất và tác động 
tích cực nhất đến TTLĐ. Hội 
nhập sâu rộng khuyến khích cả lao 
động có kỹ năng và không có kỹ 
năng tham gia vào chuỗi cung ứng 
toàn cầu và các cơ hội sẽ tiếp tục 
gia tăng mạnh trong thời gian tới. 
Tự do hóa thương mại, tăng trưởng 
xuất khẩu và dịch vụ cũng thúc đẩy áp 
dụng công nghệ mới và hình thành 
những hình thức tổ chức sản xuất mới. 
Điều này sẽ tạo ra những cơ hội phát 
triển việc làm trong những ngành công 
nghệ cao, giá trị gia tăng lớn và có tính 
cạnh tranh toàn cầu. Cùng với hội nhập 
sâu rộng, hệ thống luật pháp, chính 
sách về việc làm, TTLĐ ngày càng 
được hoàn thiện sẽ là cơ sở pháp lý 
quan trọng, tạo ra những chuyển biến 
mạnh mẽ trong phát triển TTLĐ Việt 
Nam hướng tới mục tiêu việc làm bền 
vững và năng suất cho mọi người lao 
động. 
Cùng với quá trình hội nhập, Hội 
đồng Tiền lương Quốc gia đi vào hoạt 
động ổn định với những nội dung thiết 
thực, bước đầu tạo ra sự chuyển biến 
mạnh mẽ trong xã hội về đối thoại và 
thương lượng về tiền lương. 
Việt Nam đang trong thời kỳ 
“cơ cấu dân số vàng” với LLLĐ trẻ 
và dồi dào. Đến năm 2015, lực lượng 
lao động cả nước đạt gần 54,79 triệu 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 46/Quý I - 2016 
 13 
Hình 3: Tỷ lệ lao động di chuyển trong ASEAN của các nước 
thành viên ASEAN 
Ghi chú: Dữ liệu về ASEAN đưa ra tỷ lệ tổng hợp cho khu vực 
Nguồn: ILO&ADB, Báo cáo Cộng đồng ASEAN 2015, Quản lý 
hội nhập hướng tới thịnh vượng chung và việc làm tốt hơn. 
người, trong đó thanh niên (15-29 
tuổi) chiếm gần 30% LLLĐ. Giai đoạn 
2005-2015, LLLĐ tăng với tốc độ bình 
quân 2,11%/năm, gấp 2 lần tốc độ tăng 
dân số, phản ánh “lợi ích cơ cấu dân số 
vàng”. Với cơ cấu này, chúng ta có lợi 
thế khá lớn so với các nước trong khu 
vực như Thái Lan, Malayxia, 
Singapore. 
Người lao động Việt Nam khéo 
tay, cần cù, chịu khó, ham học hỏi, 
tiếp thu nhanh và có ưu thế trong 
một số ngành nghề. Lao động Việt 
Nam được đánh giá là có những kỹ 
năng cơ bản như đọc, viết, tính toán tốt. 
Việt Nam cũng có ưu thế về lao động 
chuyên gia ở một số nhóm ngành nghề 
như toán học, vật lý, công nghệ thông 
tin, bác sĩ, điều dưỡng, kiến trúc sư.... 
Việt Nam đã chú trọng phát triển 
TTLĐ gắn với giải quyết các vấn đề 
xã hội và hỗ trợ các nhóm lao động 
yếu thế. Các chính sách hỗ trợ việc 
làm, tín dụng ưu đãi cho doanh nghiệp 
nhỏ và vừa, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm 
thất nghiệp... đã góp phần giảm nghèo, 
đào tạo, tạo việc làm cho những đối 
tượng lao động yếu thế. Hội nhập sâu 
rộng cùng với các cam kết và thỏa 
thuận đa phương hay song phương về 
lao động và xã hội giữa các nước trong 
khu vực và quốc tế sẽ tiếp tục 
tạo ra mạng lưới ASXH rộng 
khắp, kết nối với hệ thống của 
các nước và khu vực. 
2. Thách thức và điểm yếu 
2.1. Thách thức 
Nội luật hóa, tuân thủ các 
nguyên tắc và chuẩn mực 
hội nhập. Các cam kết, thông 
qua việc ký kết các Hiệp định, 
đặt ra yêu cầu về sự phù hợp 
giữa hệ thống luật pháp quốc 
gia với các nguyên tắc và 
chuẩn mực quốc tế, đảm bảo 
sự minh bạch, trách nhiệm giải 
trình theo các cam kết quốc tế. 
Do đó, đặt ra yêu cầu về sửa 
đổi và hướng dẫn các luật liên quan cho 
phù hợp với thông lệ quốc tế (như sửa 
đổi Bộ luật Lao động, Luật Việc làm, 
Luật Người lao động Việt Nam đi làm 
việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Luật 
Bảo hiểm Xã hội; hướng dẫn các luật 
mới như Luật Giáo dục Nghề nghiệp, 
Luật An toàn Vệ sinh Lao động). Môi 
trường hội nhập tạo ra sự thay đổi lớn 
trên TTLĐ về nguyên lý vận hành và 
cách thức tổ chức. Theo đó, cả cơ quản 
quản lý nhà nước, doanh nghiệp và 
người lao động Việt Nam cần được 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 46/Quý I - 2016 
14 
chuẩn bị đầy đủ để thích nghi và hoạt 
động hiệu quả trong môi trường kinh 
doanh đa văn hóa, đa quốc gia. 
Chất lượng nguồn nhân lực Việt 
Nam đang ở mức thấp của bậc thang 
năng lực quốc tế. Tỷ troṇg lao đôṇg 
qua đào taọ có bằng cấp/chứng chỉ mới 
chỉ đạt 20,5% năm 2015, tương ứng với 
khoảng 11 triêụ người. Việt Nam đang 
thiếu lao động có trình độ tay nghề, 
công nhân kỹ thuật bậc cao. Đặc biệt, 
lao động Việt Nam còn thiếu và yếu về 
ngoại ngữ và các kỹ năng mềm như 
làm việc nhóm, giao tiếp, tác phong 
công nghiệp (trách nhiệm và đạo đức 
nghề nghiệp) và kỷ luật lao động 
kém. Theo đánh giá của Ngân 
hàng Thế giới, chất lượng nhân 
lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 
điểm (thang điểm 10), xếp thứ 
11 trong số 12 nước châu Á 
tham gia xếp hạng; chỉ số cạnh 
tranh nguồn nhân lực Việt Nam 
đạt 4,3/10 điểm và năng lực 
cạnh tranh của nền kinh tế Việt 
Nam xếp thứ 56/133 nước được 
xếp hạng (WB, 2015). 
Do chất lượng nguồn nhân lực 
thấp, lao động Việt Nam chủ yếu làm 
việc trong các ngành sử dụng nhiều lao 
động, tiền lương thấp. Việc làm trong 
các ngành then chốt của CNH- HĐH 
chiếm tỷ trọng thấp, một số ngành mũi 
nhọn như công nghiệp chế biến chế tạo, 
điện từ - viễn thông, năng lượng mới và 
năng lượng tái tạo chiếm tỷ trọng thấp 
(21% tổng việc làm). Sự phát triển của 
doanh nghiệp trong các ngành công 
nghiệp chế biến chế tạo không đồng 
đều, sự bứt phá tập trung chủ yếu tại 
các doanh nghiệp có yếu tố xuất khẩu, 
đầu tàu là khối FDI. Doanh nghiệp nội 
địa còn gặp nhiều khó khăn trong hội 
nhập và môi trường kinh doanh, tiếp 
cận các nguồn lực và tìm thị trường cho 
xuất khẩu. Năng lực cạnh tranh của lao 
động Việt Nam thấp. Năng suất lao 
động của Việt Nam rất thấp, bằng 1/18 
của Singapore, bằng 1/6,5 Malaysia, 
1/3 Thái Lan và Trung Quốc. Trong 
khu vực ASEAN, năng suất lao động 
Việt Nam chỉ cao hơn Myanmar, 
Cambodia và đang xấp xỉ Lào. 
Thách thức trong thu hút và giữ 
nhân tài. Việt Nam phải đối mặt với 
tình trạng thiếu nhân lực chuyên môn 
kỹ thuật cao vì thiếu sự hấp dẫn của 
tiền lương và môi trường, điều kiện làm 
việc. Những vị trí việc làm tốt, đặc biệt 
là trong các doanh nghiệp FDI sẽ dễ rơi 
vào lao động nước ngoài bởi họ luôn có 
lợi thế về ngoại ngữ, tính chuyên 
nghiệp và tác phong công nghiệp. 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 46/Quý I - 2016 
 15 
Xuất hiện một số hình thức rủi ro 
mới. Hội nhập sẽ làm tăng nguy cơ mất 
việc làm đối với các doanh nghiệp và 
ngành có sức cạnh tranh thấp (doanh 
nghiệp nhỏ và vừa, ngành chăn nuôi, 
ngành dệt may) hay điều kiện làm 
việc thiếu an toàn đối với một số nhóm 
lao động yếu thế, trong khi hệ thống 
bảo hiểm xã hội và các đảm bảo xã hội 
còn yếu và thiếu (độ bao phủ của 
BHXH đối với người lao động mới chỉ 
20% LLLĐ, chưa có cơ chế đóng-
hưởng hay chuyển tiếp BHXH cho lao 
động di cư Việt Nam và nước ngoài). 
Đặc biệt, lao động trong các doanh 
nghiệp nhà nước được bảo hộ nhiều sẽ 
có nguy cơ bị mất việc hàng loạt, dẫn 
đến các thách thức về ASXH. Với 
khoảng 50% LLLĐ Việt Nam tham gia 
chuỗi cung ứng toàn cầu (con số này sẽ 
tiếp tục gia tăng mạnh trong thời gian 
tới), nhưng phần lớn vẫn là lao động 
giản đơn và thường làm việc trong khu 
vực phi chính thức hay các cơ sở sản 
xuất nhỏ với môi trường và điều kiện 
lao động không an toàn, mức lương 
thấp, quan hệ lao động yếu, thiếu các 
đảm bảo về xã hội. Những năm gần 
đây, số vụ tai nạn lao động tiếp tục tăng 
bình quân 2,6% giai đoạn 2007-2014, 
xảy ra nghiêm trọng trong lĩnh vực khai 
thác mỏ, xây dựng, gia công kim loại, 
cơ khí, vận hành máy, thiết bị. Trong 
thời gian tới, sự phát triển mạnh của 
các doanh nghiệp vừa và nhỏ với trình 
độ công nghệ còn lạc hậu hay việc nhập 
khẩu và đưa vào sử dụng các máy, công 
nghệ, vật liệu mới chưa kiểm soát được 
sẽ còn tiềm ẩn những nguy cơ về an 
toàn- vệ sinh lao động khó lường. 
2.2. Điểm yếu 
TTLĐ bị phân mảng giữa các 
khu vực, quy mô khu vực chính thức 
nhỏ bé. Năm 2015, tỷ lệ lao động làm 
công ăn lương mới đạt gần 40%, còn ở 
mức thấp so với các nước trong khu 
vực (năm 2013: Campuchia là 40,6%, 
Indonexia là 46,5%, Philippines 58,2%, 
Thái Lan 41,4%, Malayxia 75%, 
Singapore 85,1%, theo ADB và ILO, 
2014). Việt Nam vẫn là nước có cơ cấu 
lao động lạc hậu trong ASEAN với tỷ 
lệ lao động nông nghiệp cao thứ 4 (sau 
Lào, Campuchia và Myanmar) – 
khoảng 45% LLLĐ Việt Nam vẫn làm 
việc trong lĩnh vực nông nghiệp với 
năng suất và thu nhập thấp và gần 2/3 
LLLĐ làm các công việc dễ bị tổn 
thương. 
Kết quả nghiên cứu được Trường kinh doanh 
INSEAD (Pháp), Viện nghiên cứu nguồn 
nhân lực lãnh đạo HCLI (Singapore) và Tập 
đoàn dịch vụ tuyển dụng nhân sự Adecco 
(Thụy Sĩ) khảo sát trong cả năm 2014 cho 
thấy: Việt Nam xếp hạng thứ 75 trong tổng số 
93 nước về năng lực cạnh tranh tài năng toàn 
cầu (Global Talent Competitiveness Index – 
GTCI), phản ánh sự xếp hạng dựa trên khả 
năng phát triển, thu hút, giữ chân nhân tài, 
cũng tình trạng nghịch lý giữa chỗ làm việc 
trống và tỉ lệ thất nghiệp tăng cao. Theo báo 
cáo này, Việt Nam có điểm số khá cao trong 
kỹ năng tri thức toàn cầu, nhưng lại có hiệu 
suất thấp đối với việc phát triển tài năng 
thông qua hệ thống giáo dục chính quy. 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 46/Quý I - 2016 
16 
Quan hệ lao động tại doanh 
nghiệp chưa hài hòa, ổn định và tiến 
bộ. Quản trị TTLĐ còn yếu, đối thoại 
và thương lượng tập thể, ký kết thỏa 
ước lao động tập thể chưa được thực 
hiện hoặc chỉ là hình thức. Tranh chấp 
lao động và đình công còn nhiều và 
phức tạp, vai trò của tổ chức công đoàn 
chưa được phát huy tốt, trong khi năng 
lực hòa giải và trọng tài còn yếu kém. 
Cơ sở hạ tầng của TTLĐ còn 
thiếu và yếu. Hệ thống dự báo và 
thông tin TTLĐ, hệ thống dịch vụ việc 
làm và đào tạo nghề chưa đáp ứng nhu 
cầu của TTLĐ. Công tác tư vấn, 
hướng nghiệp chưa hiệu quả, dẫn đến 
việc phân luồng học sinh sau THCS và 
THPT vào học nghề hạn chế. 
Mức độ sẵn sàng hội nhập và sự 
vào cuộc của doanh nghiệp, người 
lao động Việt Nam chậm. Mức độ
 sẵn sàng hội nhập và năng lực quản trị 
TTLĐ thích ứng với điều kiện hội 
nhập khu vực và quốc tế còn hạn chế 
về thể chế, thủ tục hành chính, đội ngũ 
cán bộ và công tác thanh tra. Phần lớn 
các doanh nghiệp chưa hiểu rõ về nội 
dung TPP, FTA; 76% doanh nghiệp 
không biết hoặc không hiểu gì về 
AEC, 94% doanh nghiệp không biết 
về nội dung đàm phán trong AEC, 
63% doanh nghiệp không hiểu gì về 
thách thức và cơ hội khi tham gia 
AEC. 28% số sinh viên năm cuối được 
hỏi không biết đến AEC, trong số sinh 
viên biết AEC có tới 81% cho rằng 
thách thức lớn nhất thuộc về ngoại ngữ 
(phỏng vấn 240 sinh viên năm cuối tại 
5 trường ĐH ở Tp.HCM, đầu tháng 
2/2016). 
III. HÀM Ý CHÍNH SÁCH 
Một là, hoàn thiện thể chế về lao 
động- xã hội theo tiêu chuẩn khu vực 
và quốc tế. Chủ động nghiên cứu, ký 
kết Công ước cơ bản của ILO (đặc biệt 
là 3 Công ước cơ bản còn lại về quyền 
tự do liên kết và thương lượng tập thể 
của người lao động và người sử dụng 
lao động, xóa bỏ lao động cưỡng bức 
và lao động bắt buộc). Nội luật hóa các 
điều ước, tiêu chuẩn và cam kết quốc tế 
về lao động- xã hội mà Việt Nam là 
thành viên. Áp dụng các phương pháp 
tiếp cận, tiêu chí đánh giá về lao động- 
xã hội theo thông lệ quốc tế và khu 
vực. Chủ động dự báo, xử lý kịp thời 
các vấn đề lao động- xã hội phát sinh 
trong quá trình phát triển, thực thi các 
cam kết quốc tế. Lồng ghép bình đẳng 
Theo Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 
năm 2015-2016 do Diễn đàn Kinh tế thế 
giới (WEF) công bố, điểm năng lực cạnh 
tranh (GCI) của Việt Nam là 4,3/7, đứng 
thứ 56/140 quốc gia được khảo sát về 12 
tiêu chí cạnh tranh bao gồm: thể chế pháp 
luật, cơ sở hạ tầng, y tế và giáo dục, quy 
mô thị trường, môi trường kinh tế vĩ mô, 
mức độ phát triển của thị trường tài chính, 
hiệu quả thị trường lao động Việt Nam 
chỉ được 3,8/7 điểm về đào tạo và giáo dục 
bậc cao (higher education and training), 
đứng thứ 95/140; được 4,4/7 điểm về hiệu 
quả của thị trường lao động, xếp thứ 
52/140; được 3,3/7 điểm về mức độ sẵn 
sàng về công nghệ, đứng thứ 92/140. 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 46/Quý I - 2016 
 17 
Hình 4: Việt Nam cần thời gian bao lâu để bắt kịp 
với các nước láng giềng phát triển hơn về năng 
suất lao động? 
Nguồn: Vũ Minh Khương, 2014, “Nâng cao năng suất lao động 
là phương pháp chiến lược để tăng cường cải cách kinh tế 
giới trong quá trình xây dựng, hoàn 
thiện thể chế về lao động- xã hội theo 
yêu cầu hội nhập quốc tế. 
Hai là, tăng cường truyền thông, 
phổ biến kiến thức và nâng cao nhận 
thức. Tuyên truyền, phổ biến sâu rộng 
chủ trương hội nhập quốc tế về lĩnh vực 
lao động- xã hội trên các 
phương tiện thông tin đại 
chúng; xây dựng cổng thông 
tin điện tử hội nhập quốc tế về 
lao động- xã hội. Tổ chức bồi 
dưỡng kiến thức hội nhập quốc 
tế về lao động- xã hội trong 
các Bộ, ngành, cơ quan trung 
ương, địa phương và các 
doanh nghiệp nhằm nâng cao 
nhận thức về nhu cầu, nội 
dung, cơ hội và thách thức 
trong hội nhập quốc tế, trong 
việc thực hiện các cam kết 
quốc tế, tạo đồng thuận và tăng 
cường trách nhiệm, có hành 
động thống nhất thực hiện các 
hoạt động và hợp tác quốc tế. 
Ba là, nâng cao chất lượng nguồn 
nhân lực sẽ là nhân tố quyết định 
mức độ thành công của hội nhập. 
Tập trung vào: (i) Đổi mới đào tạo, 
trong đó chú trọng việc xác định lại cơ 
cấu đào tạo; hoàn thiện thể chế đào tạo, 
gắn kết đào tạo với nhu cầu TTLĐ và 
tham gia của doanh nghiệp; tăng cường 
liên kết, tham gia vào “chuỗi giá trị đào 
tạo toàn cầu hoặc khu vực”,v.v. Đào 
tạo theo các tiêu chuẩn năng lực khu 
vực và quốc tế; (ii) Xây dựng và hoàn 
thiện hệ thống tiêu chuẩn kỹ năng nghề 
quốc gia phù hợp với tiêu chuẩn quốc 
tế, chuyển đổi sang hệ thống tiêu chuẩn 
năng lực phù hợp; tổ chức đánh giá, 
cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia 
cho người lao động. Triển khai các hoạt 
động hợp tác đánh giá và công nhận kỹ 
năng nghề giữa Việt Nam và các nước 
ASEAN. 
Bốn là, hoàn thiện và phát triển 
TTLĐ trong nước. Kết nối cung- cầu 
lao động hiệu quả. Tổ chức tốt hệ thống 
thông tin TTLĐ, bao gồm thị trường 
trong nước để giới thiệu và chắp nối 
việc làm trong nước và TTLĐ ngoài 
nước. Đặc biệt, tăng cường và nâng cao 
chất lượng dự báo nhu cầu lao động. 
Đổi mới và đẩy mạnh công tác tư vấn 
hướng nghiệp, đảm bảo phân luồng học 
sinh hiệu quả ngay từ cấp trung học cơ 
sơ và trung học phổ thông. Tổ chức lại 
và nâng cao năng lực của hệ thống 
trung tâm dịch vụ việc làm nhằm tăng 
cường sự liên kết, chia sẻ thông tin, hỗ 
trợ nhau trong công tác cung ứng và 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 46/Quý I - 2016 
18 
tuyển dụng lao động cho các doanh 
nghiệp. Thành lập Hội đồng nghề 
nghiệp Quốc gia theo từng nhóm nghề 
(gồm đại diện doanh nghiệp, hiệp hội 
nghề nghiệp, công đoàn, cơ quan quản 
lý các cấp, trường đào tạo, viện nghiên 
cứu), trước mắt ưu tiên những nghề 
có khả năng phát triển mạnh hoặc bị tác 
động lớn của hội nhập quốc tế (như 
nghề chăn nuôi, trồng rau củ quả, da 
giày, dệt may, điện tử); Hội đồng có 
nhiệm vụ đánh giá khả năng phát triển, 
nhu cầu lao động về số lượng, cơ cấu, 
chất lượng và đề xuất nhu cầu đào tạo 
nhân lực gắn với các chính sách phát 
triển công nghiệp. 
Năm là, chú trọng theo đuổi các 
mục tiêu của việc làm bền vững. Chú 
trọng vào cả 4 trụ cột của việc làm bền 
vững về bảo đảm quyền và tiếng nói 
của người lao động, cơ hội việc làm, 
ASXH và thực hiện cơ chế đối thoại xã 
hội. Các nhiệm vụ cấp bách bao gồm: 
phát triển mọi cơ hội việc làm và nghề 
nghiệp; chủ động xây dựng những 
chính sách, biện pháp bảo vệ an toàn 
cho người lao động; khuyến khích 
nghiên cứu và phổ biến các sáng kiến 
cải thiện điều kiện lao động, tăng năng 
suất và chất lượng sản phẩm; phát huy 
năng lực toàn diện của các doanh 
nghiệp trong tự cải thiện điều kiện lao 
động, đảm bảo AT-VSLĐ; chính sách 
tiền lương tối thiểu bảo đảm mức sống 
tối thiểu cho người lao động; áp dụng 
các mô hình tiền lương hiệu quả trong 
thương lượng tiền lương ở những 
ngành có mức tăng trưởng nhanh và 
năng suất lao động cao; lồng ghép bình 
đẳng giới trong mọi mục tiêu lao động- 
việc làm. 
Sáu là, xây dựng quan hệ lao 
động hài hòa, ổn định và tiến bộ. Xây 
dựng công đoàn cơ sở vững mạnh. Tôn 
trọng và bảo vệ quyền của người lao 
động trong việc thành lập và gia nhập 
tổ chức của người lao động tại cơ sở 
doanh nghiệp. Đẩy mạnh thực hiện 
quyền thương lượng tập thể thực chất. 
Nâng cao năng lực của cơ quan thanh 
tra lao động trong tiếp nhận, xử lý 
thông tin, xử lý tranh chấp lao động để 
đáp ứng các cam kết trong FTA. 
Bảy là, thúc đẩy di cư lao động 
an toàn và hiệu quả. Hỗ trợ cho lao 
động di chuyển (dỡ bỏ các rào cản về 
hành chính, tạo liên thông các dịch vụ 
xã hội cơ bản, liên thông bảo hiểm thất 
nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y 
tế.). Đối với lao động Việt Nam làm 
việc tại nước ngoài theo hợp đồng, cần 
tiếp tục khắc phục: i) lao động bỏ trốn 
(bảo đảm cho người lao động về nước 
đúng hạn) và tái hòa nhập tốt vào 
TTLĐ; ii) liên kết và tạo dựng mạng 
lưới ASXH; iii) chuyển tiền về nước an 
toàn và sử dụng hiệu quả; iv) giảm các 
tiêu cực trong tuyển dụng. 
Tám là, tăng cường thực hiện các 
chính sách ASXH. Mở rộng đối tượng 
hưởng các chính sách ASXH, xây dựng 
sàn ASXH và các lưới bảo vệ người lao 
động khi bị rơi vào yếu thế, dễ bị tổn 
thương. Tiếp tục hoàn thiện thể chế 
chính sách ASXH phù hợp với thông lệ 
quốc tế trong bối cảnh già hoá dân số./. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 thi_truong_lao_dong_viet_nam_trong_boi_canh_hoi_nhap_khu_vuc.pdf thi_truong_lao_dong_viet_nam_trong_boi_canh_hoi_nhap_khu_vuc.pdf