Lời mở đầu
kinh tế ngoài quốc doanh là khu vực kinh tế không thuộc sở hữu nhà nước, chúng vận hành theo cơ chế thị trường, mục tiêu quan trọng nhất là lợi nhuận. Chính vì thế, nhà nước không thể can thiệp trực tiếp, dưới hình thức hành chính hay mệnh lệnh tới các doanh nghiệp này. Đảng và nhà nước cần tạo lập cho khu vực kinh tế NQD một môi trường hoạt động phù hợp, vừa thực hiện đúng định hướng phát triển chung của đất nước, vừa khuyến khích và tận dụng được những ưu việt vốn có của nó. Trong đó, cơ chế quản lý tài chính chính là một trong những vấn đề quan trọng nhất. Thiết lập được một cơ chế quản lý tài chính hiệu quả chính là tiền đề, là điều kiện cơ bản để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ khác.
Hiện nay ở nước ta, chưa có một cơ chế quản lý tài chính chính thức và độc lập đối với doanh nghiệp NQD, công tác quản lý tài chính đối với khu vực kinh tế này được thực hiện dựa trên cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp Nhà nước (Nghị định 59/NĐ-CP, và Nghị định 27/NĐ-CP ban hành kèm nghị định 59). Cơ chế này do đó chưa hoạt động thật sự hiệu quả, không phát huy được tối đa tiềm lực của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Trong thời gian qua, Chính phủ đang hướng dẫn chỉ đạo Bộ tài chính và các bộ ngành liên quan xây dựng và ban hành một Nghị định tương tự Nghị định 59/NĐ-CP nhưng là cho các doanh nghiệp NQD. Trước thực tế đó, em mạnh dạn đề cập và nghiên cứu đề tài :
Chương I: Những vấn đề cơ bản về cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
1.1. Khái quát về doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DN-NQD)
1.1.1. Khái niệm và phân loại DN-NQD
1.1.2. Vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đối với nền kinh tế
1.1.3. Đặc điểm và xu hướng phát triển của DNNQD
a) Đặc điểm
b) Xu hướng phát triển của DNNQD trong tương lai
1.2. Cơ chế quản lý tài chính đối với DNNQD
1.2.1 Khái niệm về cơ chế quản lý tài chính
1.2.2. Những nội dung chủ yếu trong cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp NQD
1.2.2.1. Sự thành lập và đăng kí kinh doanh
1.2.2.2. Quản lý vốn và tài sản
1.2.2.2.1. Quản lý vốn đối với DNNQD
1.2.2.2.2. Quản lý tài sản đối với doanh nghiệp NQD
1.2.2.3. Quản lý doanh thu và chi phí đối với doanh nghiệp NQD
1.2.2.3.1. Quản lý doanh thu đối với doanh nghiệp NQD
1.2.2.3.2. Quản lý chi phí đối với doanh nghiệp NQD
1.2.2.4. Quản lý việc phân phối lợi nhuận đối với doanh nghiệp NQD
1.2.2.5. Quản lý công tác kế toán kiểm toán và báo cáo tài chính doanh nghiệp NQD
1.2.3. Vai trò của cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp NQD
1.3 Sự cần thiết phải thiết lập cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp NQD
Chương II: Thực trạng cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp NQD ở Việt Nam hiện nay
2.1. Khái quát về khu vực kinh tế NQD
2.1.1. Quan điểm và đường lối chỉ đạo của đảng và nhà nước về sự phát triển của khu vực kinh tế NQD
2.1.2. Sự hình thành và phát triển của khu vực kinh tế NQD ở nước ta trong những năm qua
2.2. Thực trạng cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp NQD ở nước ta hiện nay
2.2.1. Khái quát về cơ chế quản lý tài chính khu vực NQD ở nước ta
2.2.2. Thực trạng cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp NQD ở nước ta hiện nay
2.2.2.1. Quản lý về thành lập và đăng kí kinh doanh
2.2.2.2. Quản lý vốn và tài sản
2.2.2.3. Quản lý doanh thu chi phí
2.2.2.4. Quản lý phân phối thu nhập
2.2.2.5. Công tác kiểm toán kế toán và báo cáo tài chính
2.3. Đánh giá về cơ chế quản lý tài chính DNNQD
2.3.1. Những thành tựu chung đã đạt được
2.3.2. Những hạn chế của cơ chế quản lý tài chính DNNQD
2.3.3. Nguyên nhân căn bản của những hạn chế trên
Chương III: Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với DNNQD ở nước ta
3.1. Những quan điểm cần quán triệt trong việc thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với khu vực kinh tế NQD
3.2. Giải pháp thiết lập cơ chế quản lý tài chính cho các DNNQD
3.2.1. Quản lý vốn và tài sản
3.2.2. Quản lý doanh thu chi phí
3.2.3 Quản lý thu nhập và phân phối thu nhập
3.2.4. Quản lý công tác kế toán, kiểm toán và báo cáo tài chính
3.2.5. Các giải pháp hỗ trợ khác
3.3. Kiến nghị điều kiện thực thi giải pháp
KẾT LUẬN
DANH MỤC THAM KHẢO
(>100 TRANG) .
102 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2018 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2.3.1. Những thành tựu chung đã đạt được đạt được:
Qua việc phân tích về thực trạng công tác quản lý tài chính đối với doanh nghiệp NQD bộc lộ qua từng khâu, từng mặt như trên, chúng ta phải thừa nhận thực tế là cơ chế hiện nay chưa hoàn toàn phù hợp, chưa thực sự hiệu quả, và còn rất nhiều vướng mắc cần giải quyết. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận vai trò mang tính lịch sử của nó cũng như những thành tựu mà cơ chế đó đem lại trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế ở nước ta.
Trước hết, cơ chế quản lý kinh tế đối với DNNQD đến thời điểm này đã phần nào thể hiện tư tưởng quán triệt đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước. Mọi thành phần kinh tế đều được khuyến khích phát triển và bình đẳng như nhau trước pháp luật. Quyền tự do kinh doanh, tự chủ độc lập trong việc tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã được coi trọng đến mức tối đa. Ngành nghề kinh doanh được mở rộng, doanh nghiệp có thể tổ chức sản xuất kinh doanh trong tất cả các ngành nghề mà nhà nước không cấm. Loại hình doanh nghiệp cũng đã được đa dạng hoá, các doanh nghiệp tư nhân, và cả các hộ kinh doanh cá thể cũng được hưởng những chính sách thông thoáng tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển.
Nhà nước đã hết sức chú ý đến việc tạo ra một hành lang pháp lý, một môi trường kinh tế phù hợp với sự phát triển của các doanh nghiệp nhưng vẫn đảm bảo chức năng quản lý và kiểm soát của nhà nước. Đó là những cải cách về mặt hành chính, nhiều loại giấy phép trong quá trình đăng ký kinh doanh, các thủ tục hành chính rườm rà đã được bãi bỏ. Đẩy mạnh việc thực hiện chế độ hoá đơn chứng từ trong việc mua bán giữa các doanh nghiệp. Các quy định trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp được ban hành một cách có hệ thống từ tổng thể đến chi tiết đảm bảo tính minh bạch công khai. Nghị định 59/CP và sau đó là nghị định 27/CP sửa đổi bổ sung Nghị định 59/CP chính là những minh chứng tiêu biểu cho điều này. Dưới hai nghị định trên phải kể đến một hệ thống các văn bản bao gồm thông tư, thông tri, quyêt định v.v hướng dẫn chi tiết và cụ thể việc thực hiện công tác quản lý tài chính trong doanh nghiệp NQD như quản lý vốn và tài sản, chế độ trích khấu hao, quản lý doanh thu chi phí, lập bảng kê và nộp thuế v.v
Chính do những hành động cụ thể từ phía Nhà nước như vậy, nên trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng về số lượng doanh nghiệp NQD đăng ký kinh doanh ngày một nhiều với quy mô ngày một lớn. Đa phần các doanh nghiệp mới thành lập đều hoạt động có hiệu quả và bước đầu đã có những đóng góp nhất định cho ngân sách. Tỷ lệ đóng góp vào GDP cũng như ngân sách nhà nước của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng dần theo năm tháng. Các doanh nghiệp NQD đã yên tâm hơn, vững tin vào đường lối chủ trương của Đảng và những chính sách cụ thể phù hợp và thuận lợi nên đã mạnh dạn hơn trong việc bỏ vốn đầu tư. Nhiều doanh nghiệp đã mở rộng phạm vi hoạt động ra thị trường quốc tế. Đây thực sự là những tín hiệu đáng mừng cho nền kinh tế nước ta nói chung và khu vực kinh tế NQD nói riêng. Những thành tựu đó cũng đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối đổi mới phát triển kinh tế mà toàn Đảng và toàn dân ta đang theo đuổi thực hiện.
2.3.2. Những hạn chế trong cơ chế quản lý tài chính DNNQD:
Một thời gian dài trước đây, Đảng và Nhà nước ta đã không chủ trương khuyến khích phát triển chu vực kinh tế tư nhân, bởi vậy việc tích luỹ vốn, trau dồi kinh nghiệm, kinh doanh trong cơ chế thị trường và mở rộng quan hệ quốc tế của các doanh nghiệp gần như không có. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, ban hành Luật Doanh nghiệp v.v nhằm tạo hành lang pháp lý và môi trường thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển. Tuy nhiên trong thực tế, nhiều chủ trương, chính sách bị biến dạng qua các tầng nấc hành chính, cơ quan nhà nước vẫn "hành dân là chính, sự tha hoá trong bộ máy và đội ngũ cán bộ không có những chuyển biến mạnh mẽ và thực sự tích cực" ( "Đổi mới sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ"- phát biểu của Thủ tướng Phan Văn Khải tại kỳ họp Chính phủ kiểm điểm sự chỉ đạo điêu hành năm 1999 và bàn chương trình công tác năm 2000. Báo nhân dân, 11-1-1999). Do vậy, vẫn chưa đạt được lòng tin từ phía các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp NQD. Mặt khác, ở tầm vĩ mô cũng chưa hình thành một hệ thống tổ chức có đủ thẩm quyền để quản lý: từ đề xuất định hướng đến chiến lược phát triển, chính sách hỗ trợ, tổ chức đào tạo, chuyển giao công nghệ, thông tin thị trường, giáo dục pháp luật v.v cho các cơ sở sản xuất và các doanh nghiệp tư nhân. Tình trạng tự phát, mạnh ai nấy làm, phát triển thiếu định hướng, thiếu sự phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau trong khu vực kinh tế tư nhân còn diễn ra khá phổ biến, đã không tạo nên sức mạnh chung mà nhiều khi còn kìm hãm lẫn nhau. Đó là những khó khăn lớn cả về vật chất lẫn tinh thần, cả khách quan và chủ quan. Vì vậy, trong những năm qua, kinh tế tư nhân ở nước ta tuy phát triển khả nhanh về số lượng nhưng phổ biến vẫn là quy mô nhỏ, tiềm lực chưa mạnh, khả năng liên doanh, hợp tác và vươn ra thị trường nước ngoài con hạn chế.
Tiếp theo, thiếu một sự phối hợp giữa kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế NQD trong kế hoạch phát triển mang tầm chiến lược. Trong kế hoạch phát triển các ngành, vai trò của kinh tế tư nhân còn rất hạn chế. Đó cũng là một vấn đề xuất phát từ sự yếu kém trong việc xây dựng và hoạch định cơ chế quản lý tài chính cấp nhà nước của ta. Sự trùng lặp trong cơ chế quản lý khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân đã khiến cho các doanh nghiệp tư nhân giảm động lực phát triển, cảm thấy bị chèn ép và lấn át, gây khó khăn.
Đồng thời, chúng ta cũng chưa có sự phối hợp chặt chẽ và phân công rõ ràng giữa ngành và địa phương trong việc quản lý khu vực kinh tế tư nhân, cụ thể là chưa có một cơ quan được giao chuyên trách quản lý khu vực kinhtế tư nhân, có quản lý thì lại rơi vào tình trạng nhập nhằng, sự phân chia quyền hạn không rành mạch giữa sở Tài chính vật giá các tỉnh, Bộ tài chính và các cơ quan ngành dọc khác.
Hiện thực cho thấy rằng, cơ chế quản lý tài chính nói riêng và quản lý nhà nước nói chung đối với doanh nghiệp NQD còn nhiều điểm chưa chặt chẽ, rõ ràng, dẫn đến việc những sơ hở trong quản lý, cấp phép sản xuất kinh doanh không được kịp thời rút kinh nghiệm, bổ sung, sửa đổi. Sau khi đã cấp phép kinh doanh thì việc quản lý bị buông lỏng, không có cơ quan nhà nước cụ thể chịu trách nhiệm kiểm tra và hướng dẫn hoạt động của doanh nghiệp một cách thường xuyên và chặt chẽ. Tình trạng hoạt động không theo đăng ký kinh doanh, trốn lậu thuế, gian lận thương mại v.v cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên thực tế không kiểm soát được. Những vấn đề nảy sinh giữa chủ doanh nghiệp và người làm thuê phát sinh trong thực tế nhưng văn bản pháp luật (quy định về chế độ bảo hiểm, ký kết hợp đồng lao động, chế độ tiền lương v.v) không được ban hành kịp thời và nhất là thiếu sự kiểm tra giám sát của cơ quan có thẩm quyền nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động cũng như giới chủ doanh nghiệp.
Cho đến nay, việc xác định cụ thể những tiêu chí để đánh giá, phân loại kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân cũng chưa rõ ràng, thống nhất; trong thực tế việc nhìn nhận, đánh giá các loại hình kinh tế này còn tuỳ tiện, chủ quan. Có lẽ vì thế mà nhiều chính sách, giải pháp quản lý tài chính vĩ mô tỏ ra chưa thực sự sát hợp với khu vực kinh tế tư nhân, do vậy mà hạn chế sự phát triển của khu vực này.
Bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận khá lớn các chủ doanh nghiệp tư nhân chưa thực sự yên tâm khi bỏ vốn đầu tư vào kinh doanh do chính sách của Nhà nước còn nhiều bất cập và chưa đồng bộ, do những hạn chế về thông tin kinh tế, trình độ năng lực yếu, kinh nghiệm kinh doanh chưa nhiều, v.v và nhất là sự suy nghĩ Nhà nước "vỗ béo rồi làm thịt". Vì vậy, để phát triển ổn định, lâu dài cho kinh tế NQD thì giải quyết những trở ngại trên là cực kì cần thiết.
Tiếp theo, đó là những vấn đề xung quanh cơ chế thương mại, thể chế tài chính tín dụng, chính sách thuế và các tổ chức hỗ trợ tài chính v.v cho khu vực kinh tế NQD còn thiếu và yếu.
Các doanh nghiệp tư nhân chưa được tiếp cận đầy đủ các nguồn nhập khẩu và mạng lưới xuất khẩu. Trước đây, những quy định ngặt nghèo về vốn, năng lực xuất nhập khẩu, xin hạn ngạch... đã hạn chế việc tiếp xúc với thị trường thế giới của kinh tế tư nhân qua xuất nhập khẩu. Giờ đây, Chính phủ đã nới lỏng các quy định, cho phép mọi doanh nghiệp được quyền xuất nhập khẩu trực tiếp không cần có một lượng vốn nhất định như trước, nhờ vậy đã tháo gỡ bớt khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều doanh nghiệp tư nhân tham gia vào thị trường thế giới. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn chưa hết những phiền hà, khó khăn cho doanh nghiệp như thời gian làm thủ tục hải quan cũng như các thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu.
Về tài chính tín dụng, khả năng tiếp cận nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn hiện nay của các doanh nghiệp tư nhân vẫn còn khó khăn bởi các thủ tục về thế chấp, thể chế tín dụng ngân hàng chưa làm được vai trò hỗ trợ, giúp đỡ tích cực và hiệu quả cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển.
Chính sách thuế đã có nhiều thay đổi tích cực, nhất là hiện nay Nhà nước đang tiếp tục triển khai rất mạnh công tác cải cách thuế theo hướng đơn giản, dễ tính, dễ thực hiện, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Những vấn đề thuế suất, các loại thuế, khung thuế và việc áp dụng cho các đối tượng khác nhau đang tiếp tục được bàn luận và tìm hướng giải quyết. Chúng ta rất hy vọng rằng sau những cải cách thuế mạnh mẽ như hiện nay, cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp tư nhân sẽ trở nên trong sáng và hiệu quả hơn.
Tóm lại, khắc phục những yếu kém, tồn tại trong hoạch định chủ trương, chính sách và giải pháp tổ chức, quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân, nhằm thay đổi, hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính cho khu vực kinh tế tư nhân, tạo môi trường thuận lợi cho khu vực kinh tế này phát triển là cách tốt nhất để phát huy khả năng nó phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước, thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá hiện nay.
2.3.3. Nguyên nhân căn bản của những hạn chế trên:
Những hạn chế trong cơ chế quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp NQD trong thời kỳ vừa qua do nhiều nguyên nhân, cả từ phía các doanh nghiệp cũng như từ phía chính sách, cơ chế của Nhà nước.
a) Từ phía doanh nghiệp:
Thực trạng của các doanh nghiệp tư nhân hiện nay đa phần là quy mô nhỏ không phù hợp với những báo cáo tài chính chi tiết quá. Trình độ quản lý và trình độ kế toán của khu vực kinh tế này còn thấp, không nhận thức, tiếp cận và hiểu một cách đầy đủ cơ chế quản lý tài chính.
b) Từ phía cơ chế chính sách của Nhà nước :
Doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân khác nhau về quan hệ sở hữu, quy mô, trình độ quản lý,... nhưng hiện tại vẫn áp dụng chung một cơ chế quản lý tài chính. Bất cập lớn nhất là nhà nước can thiệp quá sâu và quá cụ thể nhưng lại không đầy đủ và toàn diện vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân. Quan điểm này nên được thay đổi triệt để và khẩn chương, Nhà nước chỉ mang tính hướng dẫn và quản lý trên giác độ tổng thể vĩ mô, còn quyền chủ động ra quyết định và hành vi thì dành lại cho doanh nghiệp.
Hành lang pháp lý đã có để quản lý tài chính đối với doanh nghiệp NQD là chưa đầy đủ, đã thế lại có trường hợp chồng chéo phủ định lẫn nhau. Kinh tế NQD chưa được quyền bình đẳng thực sự trước pháp luật. Tư duy kinh tế của một số nhà hoạch định chưa thực sự cởi mở và bắt kịp nhu cầu của thời đại.
Nhà nước chưa có chiến lược mạnh trong việc phát triển kinh tế tư nhân. Vì vậy, chưa có nhiều những chính sách mang tính chất vĩ mô trong khuyến khích hỗ trợ sự phát triển của khu vực này. Một số vấn đề về cơ chế quản lý tài chính và các chính sách mang tính hỗ trợ còn đơn điệu kém hiệu quả, vẫn chủ yếu là miến giảm thuế, vay ưu đãi nhưng những chính sách này cũng chỉ có tác dụng và ảnh hưởng hạn chế
Tóm lại, quan trọng là vấn đề về kinh nghiệm, nền kinh tế nước ta nhìn chung còn non trẻ, trình độ phát triển chưa cao vì vậy những bất cập trong cơ chế quản lý cũng là một tất yếu khách quan khó có thể tránh khỏi. Song, chúng ta cần tự tìm ra nguồn gốc của những hạn chế và có giải pháp tháo gỡ để dần hoàn thiện. Tất nhiên đây không phải là việc có thể hoàn thành một sớm một chiều, đó là cả một quá trình phấn đấu tốn nhiều thời gian và công sức.
Chương III: THIẾT LẬP CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI DNNQD Ở NƯỚC TA
3.1. Những quan điểm cần quán triệt trong việc thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với khu vực kinh tế NQD:
Trước khi bắt đầu công tác xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính cho các DNNQD, chúng ta cần quán triệt một số quan điểm chung nhằm thống nhất về mặt ý chí, quan điểm và đường lối tiến hành như sau:
Thứ nhất, phải thừa nhận đây là một vấn đề bức xúc, quan trọng và mang tính cấp bách trong quá trình đổi mới, cải tiến và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế ở nước ta hiện nay. Là nhiệm vụ mà những người hoạch định chính sách phải làm và phải làm ngay khi mà những vận hội và thách thức mới đang đón đợi chúng ta trong quá trình cải cách nền kinh tế, trong điều kiện tiến trình hội nhập đang mỗi lúc một khẩn trương hơn.
Thứ hai, một cơ chế quản lý tài chính mới không có nghĩa là phải phủ nhận hoàn toàn cái cũ, những thành quả đạt được trong thời gian qua mà nó phải mang tính kế thừa và phát huy trên cơ sở những gì đã có, trên công sức của những thế hệ trước đã xây dựng. Chúng ta cần coi đây như là một bước tiến hoá, một sự vận động tất yếu khách quan trong công tác quản lý kinh tế nói riêng và cả của nền kinh tế nước ta nói riêng, nhất là trong thời kì tích cực cải cách cơ chế, cải cách kinh tế hiện nay.
Thứ ba, một cơ chế mới chắc chắn phải mang tính thống nhất và đồng bộ cao, một mặt được sự ủng hộ của các doanh nghiệp, một mặt phải đảm bảo cho các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn, tháo gỡ và giải quyết về cơ bản những vấn đề đã tồn tại trong cơ chế cũ. Qua đó, đạt mục đích cuối cùng là nâng cao đóng góp của khu vực kinh tế NQD vào sự phát triển kinh tế của đất nước mà cụ thể là nâng cao phần đóng góp vào ngân sách nhà nước.
Thứ tư, cơ chế mới đảm bảo môi trường bình đẳng, đúng mực trong hoạt động của các doanh nghiệp NQD, phù hợp với những đặc điểm đặc thù của nền sản xuất trong nước, kết hợp và tận dụng tối đa mọi tiềm năng sẵn có cũng như huy động từ bên ngoài của nền kinh tế đất nước.
Cuối cùng và cũng tất yếu, đó là đảm bảo tính quản lý chặt chẽ, có hệ thống của Nhà nước, thực hiện đúng định hướng phát triển chung về kinh tế chính trị xã hội mà đảng và nhà nước đã đề ra.
3.2. Giải pháp thiết lập cơ chế quản lý tài chính cho các DNNQD:
Chúng ta có thể khẳng định rằng, tài chính là vấn đề cốt tử của doanh nghiệp cơ chế pháp lý tài chính đúng đắn và thông thoáng là điều rất quan trọng và cần thiết đối với từng khối doanh nghiệp NQD. Trong thời điểm hiện nay, chúng ta nên bắt đầu công tác xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với DNNQD bằng việc ban hành một Nghị định quy định về cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp NQD. Đây là một vấn đề không thể chậm chễ được nữa. Việc ban hành một Nghị định như vậy sẽ mang lại những tác dụng sau đối với việc hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với DNNQD: i) Tạo ra một nền tảng thống nhất, căn bản cho các quan hệ tài chính trong khu vực KTTN, mà theo đó, các văn bản hướng dẫn cụ thể từng mặt trong quan hệ tài chính doanh nghiệp có một cơ sở chung, tạo điều kiện dễ dàng thống nhất và phát huy hiệu lực của các văn bản đó; ii) Các văn bản dưới cấp nghị định này sẽ bị loại bỏ nếu không còn phù hợp với điều kiện hiện tại, tránh tình trạng không thống nhất, thậm chí là trái ngược giữa các văn bản cùng cấp; iii) Nâng cao hiệu quả, hạn chế những thiếu sót trong việc thực hiện Luật doanh nghiệp; iv) Tạo ra một văn bản pháp luật ngang cấp với Nghị định 59/NĐ_CP và Nghị định 27/NĐ_CP sửa đổi bổ xung một số điều của Nghị định 59, do đó tách được cơ chế trong quản lý tài chính đối với DNNQD và DNNN, đồng thời tạo sự bình đẳng trong mối quan hệ giữa hai khu vực kinh tế này. Mục tiêu của việc ban hành Nghị định này là quy định rõ ràng và công khai những vấn đề nhà nước yêu cầu phải quản lý thống nhất có tính nguyên tắc như quản lý vốn tài sản, doanh thu chi phí, khấu hao tài sản cố định, lương, bảo hiểm xã hội, trích lập các quỹ bắt buộc đối với doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực đặc biệt và những hướng dẫn làm căn cứ cho doanh nghiệp lựa chọn tổ chức việc huy động vốn, nội dung, hình thức, phương pháp trả lương, phân phối thu nhập... Các doanh nghiệp NQD được yêu cầu phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về bảo về quyền lợi cho người lao động như việc trích đóng bảo hiểm xã hội, trich quỹ dự phòng mất việc, công khai tài chính... Nghị định này cũng cần phải khẳng định sự khác biệt giữa công tác quản lý tài chính doanh nghiệp và việc xác định nghĩa vụ nộp thuế nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp NQD tiếp cận với những nội dung về quản lý tài chính doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế. Căn cứ trên những tác dụng mục đích và các yêu cầu nêu trên, một Nghị định như vậy đã và đang được Chính phủ chỉ đạo Bộ tài chính và các bộ ngành có liên quan thực hiện. Trong đó, chú ý vào các nội dung sau đây:
3.2.1. Quản lý vốn và tài sản:
Vốn của doanh nghiệp gồm vốn thuộc sở hữu của doanh nghiệp và vốn huy động. Đối với những ngành nghề pháp luật có quy định về vốn pháp định thì vốn thực tế của doanh nghiệp không được thấp hơn mức vốn pháp định. Việc xác định giá trị của phần vốn góp giữa các thành viên được thực hiện theo nguyên tắc thương lượng nhất trí trong nội bộ các thành viên của doanh nghiệp theo những quy định hiện có của pháp luật (ví dụ như Điều 23 Luật doanh nghiệp) và có sự chứng kiến, trọng tài của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Doanh nghiệp tất nhiên được phép thay đổi vốn điều lệ hoặc vốn đầu tư của chủ sở hữu doanh nghiệp, nhưng việc thay đổi này phải thực hiện theo trình tự và quy định của Pháp luật. Các vấn đề cụ thể xung quanh quy định này bao gồm thời gian đăng ký thay đổi vốn, giới hạn về vốn pháp định, và công bố ra đại chúng về việc thay đổi vốn của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp được sử dụng mọi hình thức huy động vốn để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
*Công ty TNHH được sử dụng các hình thức sau:
a) Vay vốn từ các tổ chức tài chính tín dụng trong và ngoài nước
b) Phát hành trái phiếu công ty
c) Vay cá nhân trong và ngoài công ty
d) Vay của các tổ chức cá nhân nước ngoài theo các quy định pháp luật
Hội đồng thành viên được quyết định thời điểm, phương thức mức vốn huy động. Công ty TNHH không được phát hành cổ phiếu
*Công ty cổ phần được huy động theo các cách thức sau:
a) Vay vốn từ các tổ chức tài chính tín dụng trong và ngoài nước
b) Phát hành trái phiếu công ty, trái phiếu chuyển đổi và các loại trái phiếu khác theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty
c) Vay cá nhân trong và ngoài công ty
d) Tăng vốn cổ phần băng phát hành cổ phiếu
e) Vay của các tổ chức cá nhân nước ngoài theo các quy định pháp luật
Hội đồng quản trị quyết định loại, tổng giá trị, mức giá và thời điểm phát hành trái phiếu cổ phiếu.
*Công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân được sử dụng các hình thức huy động vốn sau:
a) Vay vốn từ các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật
b) Vay cá nhân trong và ngoài công ty
Thành viên hợp danh của công ty hợp danh, Chủ doanh nghiệp tư nhân quyết định thời điểm, phương thức, mứcvốn huy động.
Công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất cứ một loại chứng khoán nào.
Tiếp theo, Doanh nghiệp được chủ động lựa chọn hình thức đầu tư, kể cả liên doanh, góp vốn vào doanh nghiệp khác, chủ động mở rộng quy mô và ngành, nghề kinh doanh.
- Đầu tư mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng chỉ có giá trị ở thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán;
- Đầu tư trực tiếp vào các cơ sở sản xuất kinh doanh nhưng không tham gia vào việc giám sát hoạt động của các cơ sở đó
- Đầu tư đồng thời tham gia trực tiếp vào công việc quản lý và giám sát hoạt động của các cơ sở này.
- Đầu tư ra nước ngoài theo luật định.
- Trường hợp doanh nghiệp sử dụng giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn liên doanh phải thực hiện theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp giá tài sản cố định của doanh nghiệp có sự thay đổi, doanh nghiệp được đề nghị cơ quan đăng kí kinh doanh chỉ định tổ chức có thẩm quyền thực hiện việc đánh giá lại tài sản cố định của doanh nghiệp, nhưng không được thay đổi tỷ lệ vốn góp ban đầu. Giá tài sản cố định phải được xác định dựa trên cơ sở giá trị thị trường tại thời điểm đánh giá lại.
Tổn thất tài sản của doanh nghiệp là sự mất mát, hư hỏng tài sản của doanh nghiệp do các nguyên nhân khách quan và chủ quan gây ra
- Doanh nghiệp phải xácđịnh rõ nguyên nhân gây tổn thất tài sản, giá trị tổn thất và có phương án xử lý cụ thể.
- Đối với những tổn thất do nguyên nhân chủ quan, doanh nghiệp cần phải xác định mức độ thiệt hại và trách nhiệm của những người có liên quan để buộc đền bù thiệt hại
- Đối với tổn thất do nguyên nhân khách quan, Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên hoặc giám đốc ( đối với doanh nghiệp không có hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên) phải lập phương án xử lý cụ thể.
Doanh nghiệp có quyền chủ động nhượng bán thanh lý tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp, chênh lệch giữa số tiền thu được do nhượng bán thanh lý tài sản với giá trị còn lại của tài sản nhượng bán thanh lý và chi phí nhượng bán thanh lý tài sản được hạch toán vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
3.2.2. Quản lý doanh thu chi phí:
Doanh thu của doanh nghiệp bao gồm doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, gia công và doanh thu từ các hoạt động khác.
- Doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh và gia công bao gồm:
a) Toàn bộ số tiền doanh nghiệp thu về từ việc bán hàng hoá, dịch vụ và tiền gia công sau khi đã trừ đi các khoản chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán và hàng bán bị trả lại.
b) Thu từ phần trợ của Nhà nước khi thực hiện việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ theo đơn đặt hàng của Nhà nước.
c) Giá trị các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đem biếu tặng, cho hoặc tiêu dùng trong nội bộ doanh nghiệp.
Thời điểm ghi nhận doanh thu hoạt động sản xuất, kinh doanh và gia công là khi hàng hoá, dịch vụ đã được cung cấp, người mua người đặt hàng đã trả tiền hoặc chấp nhận thanh toán.
Doanh thu từ hoạt động khác gồm thu từ hoạt động liên doanh, liên kết; thu từ hoạt động mua bán tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu; thu từ hoạt động cho thuê tài sản; thu lãi tiền gửi, lãi cho vay; thu tiền phạt, nợ phải thu đã xoá nay thu hồi được; thu do hoàn nhập các khoản dự phòng đã trích năm trước nhưng không sử dụng đến và các khoản thu khác.
Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế được xác định theo quy định tại Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành luật Thuế thu nhập doanh nghiệp
Toàn bộ chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh thực tế phát sinh của doanh nghiệp có chứng từ hợp pháp, hợp lệ được hạch toán vào sổ kế toán.
- Chi phí từ hoạt động sản xuất kinh doanh và gia công bao gồm:
a) Chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, động lực: là giá trị của nguyên nhiên vật liệu, động lực đã sử dụng và tiêu hao thực tế cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
b) Chi phí tiền lương: là các khoản tiền lương, tiền công, chi phí có tính chất tiền lương doanh nghiệp phải trả cho người lao động tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; tiền ăn giữa ca và các khoản mang tính chất tiền lương, tiền công đã chi.
c) Các khoản trích nộp bảo hiễm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn cho người lao động theo quy định thuộc trách nhiệm của doanh nghiệp được sử dụng lao động;
d) Chi phí khấu hao tài sản cố định: Là số khấu hao tài sản cố định sử dụng cho hoạt động sản xuât kinh doanh trích trong kỳ;
e) Chi phí nghiên cứu khoa học, công nghệ, sáng kiến cải tiến kĩ thuật;
f) Chi phí quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh;
g) Chi phí dịch vụ mua ngoài: Là các chi phí trả cho tổ chức, cá nhân ngoài doanh nghiệp về các hàng hoá, dịch vụ được cung cấp như : tiền bốc vác, vận chuyển, chi phí điện nước, điện thoại, chi phí thuê sữa chữa tài sản cố định, tư vấn, kiểm toán, quảng cáo, bảo hiểm tài sản, đại lý, môi giới uỷ thác xuất nhập khẩu, chi trả tiền thuê tài sản cố định và các dịch vụ khác.
h) Chi phí bằng tiền khác bao gồm: Các khoản thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất phải nộp có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ (trừ thuế thu nhập doanh nghiệp); chi tiếp tân, khánh tiết, giao dịch, đối ngoại; chi bảo hộ lao động trả lãi ngân hàng.
i) Các khoản chi cho hoạt động sản xuất kinh doanh khác bao gồm: dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng phải thu khó đòi; Trợ cấp thôi việc cho người lao động theo quy định; chi phí cho thuê tài sản; chi cho công tác bảo vệ môi trường, chi bảo hành sản phẩm.
- Chi phí cho các hoạt động khác gồm: chi phí cho việc mua, bán trái phiếu tín phiếu cổ phiếu; dự phòng giảm giá cácloại chứng khoán trong hoạt động tài chính; Chi phí cho hoạt động liên doanh, liên kết, góp vốn cổ phần; chi phí cho việc thu hồi các khoản nợ, chi phí để thu tiền phạt.
Doanh nghiệp không được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh các khoản sau đây:
+ Các khoản chi tiêu không có chứng từ hợp pháp, hợp lệ.
+ Các khoản chi không liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp như chi trợ cấp khó khăn cho người lao động, chi ủng hộ địa phương, tổ chức và cá nhân.
+ Các khoản tiền phạt vi phạm pháp luật.
+ Các khoản lỗ do liên doanh, liên kết, lỗ từ hoạt động khác;
+ Các khoản thiệt hại được Chính phủ trợ cấp hoặc được các công ty bảo hiểm bồi thường thay cho bên gây thiệt hại.
+ Các khoản chi thuộc nội dung chi của các quỹ được trích lập sau thuế;
+ Chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi mua sắm tải sản cố định, các khoản đầu tư khác;
Chi phí sản xuất kinh doanh hợp lý được trừ để tính thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp xác định theo quy định tại Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp được lựa chọn phương pháp tính và trích khấu hao tài sản cố định phù hợp với đặc điểm kinh doanh, yêu cầu quản lý và khả năng của doanh nghiệp, nhưng phải ổn định với phương pháp đã chọn.
Mức khấu hao tài sản cố định tính vào chi phí sản xuất, kinh doanh hợp lý để tính thu nhập chịu thuế, doanh nghiệp thực hiện theo quy định của Luật thuế và các quy định khác của Nhà nước.
Để thu hồi vốn nhanh và tăng khả năng đầu tư, mở rộng sản xuất, doanh nghiệp có thể trích khấu hao lớn hơn mức tối đa theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên trước mắt chỉ nên áp dụng một cách có điều kiện và nên giao cho một cơ quan chức năng có thẩm quyền thẩm định nhu cầu và điều kiện cụ thể của doanh nghiệp.
Về chi phí tiền lương, tiền công. Các doanh nghiệp phải thực hiện đăng kí hợp đồng lao động với cơ quan quản lý lao động, cơ quan Bảo hiểm xã hội tại địa bàn. Đối với cơ quan thuế trực tiếp quản lý doanh nghiệp thì khoản tiền lương, tiền công doanh nghiệp trả cho người lao động theo hợp đồng lao động được tính vào chi phí sản xuất, kinh doanh hợp lý để tính thu nhập chịu thuế.
Trường hợp doanh nghiệp không thực hiện đăng ký hợp đồng lao động với các cơ quan chức năng, thì tiền lương, tiền công và các khoản mang tính chất tiền lương, tiền công phải trả cho người lao động được tính vào chi phí kinh doanh hợp lý để tính thu nhập chịu thuế căn cứ vào mức tiền lương, tiền công bình quân của từng ngành nghề tại địa phương do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định.
Việc trích nộp BHXH vẫn phải căn cứ và dựa trên hợp đồng lao động và tiền lương, tiền công doanh nghiệp trả cho người lao động, đối với các trường hợp doanh nghiệp không lập hợp đồng lao động thì việc trích nộp BHXH được tính dựa trên những quy định do UBND tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương quy định cho từng ngành nghề.
Doanh nghiệp có thể được quyền tự xây dựng và thực hiện định mức kinh tế - kỹ thuật (như định mức tiêu hao nguyên, nhiên vật liệu, định mức lao động, định mức các khoản chi phí gián tiếp) phù hợp với tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh và đặc điểm kinh tế kỹ thuật, mức độ trang thiết bị của doanh nghiệp trên cơ sở đảm bảo tiết kiệm, hạ giá thành, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
Doanh nghiệp tự quyết định về mức chi tiếp khách, hội họp, giao dịch, đối ngoại nhưng phải đảm bảo hợp lý và phải gẵn với kết quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
3.2.3 Quản lý thu nhập và phân phối thu nhập
Thu nhập của doanh nghiệp là khoản chênh lệch giữa doanh thu trừ các chi phí có liên quan và khoản thuế thu nhập phải nộp. Thu nhập của doanh nghiệp bao gồm thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh và thu nhập từ hoạt động khác.
Thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh là khoản chênh lệch giữa doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh trừ đi chi phí sản xuất, kinh doanh thực tế có chứng từ hợp pháp, hợp lệ của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đã tiêu thụ và khoản thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp ( tính riêng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh).
Thu nhập từ các hoạt động khác là khoản chênh lệch giữa thu nhập từ các hoạt động khác trừ đi các chi phí hợp lý, hợp lệ của những hoạt động khác và thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp (tính cho các hoạt động khác)
Thu nhập của doanh nghiệp được xác định hàng năm khi kết thúc năm tài chính.
Doanh nghiệp phải lập bảng kê khai các loại thuế phải nộp và nộp thuế đầy đủ đúng hạn theo quy định của từng luật thuế. Kết thúc năm tài chính, doanh nghiệp phải quyết toán thuế với cơ quan thuế theo quy định của Pháp luật.
Việc phân phối thu nhập sau thuế của doanh nghiệp do người chủ sở hữu quyết định, trừ việc trích lập các Quỹ theo quy định của Pháp luật mà cụ thể là quy định của nghị định. Thẩm quyền quyết định việc phân phối thu nhập đối với các loại hình doanh nghiệp được thực hiện theo nguyên tắc sau:
+ Đối với Công ty TNHH, Hội đồng thành viên quyết định việc phân phối thu nhập.
+ Đối với công ty cổ phần, thu nhập của công ty được phân phối theo quy định của điều lệ của công ty (Điều lệ công ty do Đại hội cổ đông thông qua).
+ Đối với doanh nghiệp tư nhân, chủ doanh nghiệp là người có quyền quyết định việc phân phối thu nhập.
+ Đối với công ty hợp danh, thu nhập của công ty được phân phối theo quy định tại Điều lệ công ty.
Sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, thu nhập của công ty được phân phối theo hình thức như sau:
+ Trừ các khoản chi phí thực tế phát sinh nhưng không được tính vào chi phí sản xuất, kinh doanh để tính thu nhập chịu thuế.
+ Phần còn lại được phân phối, sử dụng như sau:
i) Trích lập các quỹ theo luật định:
Những doanh nghiệp kinh doanh trong một số ngành đặc thù mà pháp luật quy định phải trích lập các quỹ đặc biệt từ lợi nhuận thì doanh nghiệp phải thực hiện trích lập các quỹ này theo những tỷ lệ quy định.
Quỹ dự phòng mất việc làm
Quỹ khen thưởng dự tính là 10% thu nhập sau thuế, mức thưởng do doanh nghiệp quyết định.
ii) Tuỳ điều kiện và nhu cầu của từng doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể trích lập các quỹ được nhà nước khuyến khích như: Quỹ đầu tư phát triển để sử dụng vào mục đích tăng vốn đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh hoặc đổi mới cải tiến kỹ thuật, thay đổi quy trình công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Đối với phần thu nhập sau thuế được dùng để đầu tư trở lại cho sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp được áp dụng mức khuyến khích đầu tư cao nhất phủ hợp với các quy định tại các Luật thuế, Luật khuyến khích đầu tư trong nước; hay các quỹ dự phòng tài chính và các quỹ khác.
iii) Chia thu nhập cho các thành viên góp vốn, các cổ đông nếu có đủ điều kiện quy định tại điều 44,48 và 67 của Luật doanh nghiệp .
Nhà nước thực hiện hỗ trợ đối với doanh nghiệp thông qua các chính sách ưu đãi thuế, ưu đãi về đầu tư, ưu đãi về tín dụng, bảo lãnh hỗ trợ tín dụng khi cần.
3.2.4. Quản lý công tác kế toán, kiểm toán và báo cáo tài chính:
Doanh nghiệp có trách nhiệm mở sổ kế toán, theo dõi đầy đủ chính xác toàn bộ tài sản, tiền vốn doanh nghiệp đang quản lý, phản ánh kịp thời tình hình sử dụng, biến động tài sản, tiền vốn. Thực hiện kế toán, thống kê theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm việc ghi chép kế toán đầy đủ, kịp thời, đầy đủ căn cứ pháp lý, lập báo cáo tài chính trung thực, khách quan và gửi đầy đủ, đúng hạn theo quy định.
Thường xuyên kiểm tra, đối chiếu tình hình công nợ, xác định và phân loại các khoản nợ tồn đọng, đánh giá khả năng thu hồi để có biện pháp xử lý thích hợp./
Thực hiện đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế và các nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.
Mọi trường hợp các quy định về kế toán, thống kê và các nghĩa vụ tài chính đều bị xử lý theo pháp luật. Cơ quan Đăng ký kinh doanh phối hợp với cơ quan Thuế kiểm tra và xử lý các trường hợp vi phạm theo quy định.
Việc ghi sổ kế toán phải thực hiện bằng Đồng Việt Nam. Trường hợp có phát sinh các nghiệp vụ bằng ngoại tệ phải quy đổi thành đồng Việt Nam theo tỷ giá do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm thu, chi ngoại tệ. Việc hạch toán ngoại tệ, xử lý chênh lệch tỷ giá được thực hiện theo quy định pháp luật.
Năm tài chính của doanh nghiệp bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 năm dương lịch và kết thúc vào ngày 31 tháng 12 cùng năm. Năm tài chính đầu tiên của doanh nghiệp bắt đầu từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và kết thúc vào ngày cuối cùng của năm đó.
Kết thúc năm tài chính doanh nghiệp phải ;
+ Lập báo cáo tài chính và báo cáo thống kê theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm về tính trung thực, khách quan của báo cáo.
+ Gửi báo cáo tài chính hàng năm đến cơ quan thuế và cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính.
+ Đối với các công ty cổ phần và các công ty khác mà pháp luật yêu cầu phải được kiểm toán thì báo cáo tài chính hàng năm phải được kiểm toán hoặc có sự xác nhận của tổ chức kiểm toán trước khi trình Đại hội cổ đông xem xét thông qua. Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm trước khi gửi cho cơ quan thuế và cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc trước khi phân phối thu nhập.
Doanh nghiệp phải công bố công khai các thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp, vấn đề này cần được Bộ tài chính và các cơ quan hữu quan có những quy định cần thiết.
Tất nhiên, các thông tin liên quan đến việc quản trị, kinh doanh và những thông tin không thuộc phạm vi phải công khai thì doanh nghiệp được quyền giữ bí mật: ví dụ như thông tin về sản phẩm mới, cải tiến kỹ thuật, đầu tư v.v
Các công ty cổ phần có cổ phiếu niêm yết tại thị trường chứng khoán tập trung phải thực hiện công khai theo các nội dung quy định của thị trường chứng khoán.
3.2.5. Các giải pháp hỗ trợ khác:
Bên cạnh việc nhanh chóng hoàn thiện và ban hành một văn bản pháp luật cấp Nghị định về quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh như đã nói ở trên, chúng ta cũng phải đồng bộ tiến hành các chính sách và biện pháp khác nhằm phát huy tối đa hiệu lực của nó. Việc triển khai nghiên cứu xây dựng cơ chế tài chính đối với khu vực KTTN đang trở thành nhu cầu ngày một bức thiết và cấp bách trong tình hình hiện nay để quy định một cách rõ ràng, công khai những vấn đề Nhà nước yêu cầu quảnlý thống nhất, có tính nguyên tắc như : trích nộp bảo hiểm xã hội, trích lập các quỹ bắt buộc đối với một số doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực đặc thù… và những hướng dẫn làm căn cứ cho các doanh nghiệp lựa chọn hình thức thực hiện (như huy động vốn, hình thức và phương pháp trả lương, phân phối thu nhập… ). Những quy định này sẽ góp phần tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cả về nghĩa vụ và các ưu đãi của Nhà nước đối với các doanh nghiệp “dân doanh”. Các doanh nghiệp “dân doanh” phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi cho người lao động, trích lập các quỹ dự phòng mất việc làm, thực hiện công khai tài chính một cách thích hợp…
Bổ sung, sửa đổi cơ chế, chính sách tài chính đối với khu vực KTTN: Có cơ chế kiểm tra chặt chẽ việc đăng ký kinh doanh và quản lý sau đăng ký, khắc phục tình trạng doanh nghiệp lợi dụng đăng ký dễ dàng để làm ăn phi pháp, buôn bán hoá đơn, trốn thuế. Đề nghị bổ sung, sửa đổi khoản 3 - Điều 118 Luật Doanh nghiệp theo hướng: Một năm doanh nghiệp báo cáo tài chính làm 2 kỳ, báo cáo phải gửi cho cơ quan quản lý Nhà nước về tài chính doanh nghiệp, cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan thuế và thống kê.
Chính phủ cần sớm quy định tiêu chí để dánh giá, phân định hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp tư nhân cho đúng tính chất của từng loại hình kinh doanh, làm cơ sở cho việc áp dụng cơ chế và phương thức quản lý thu thuế, chống gian lận trong kê khai, nộp thuế.
Xuất phát từ thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cần xây dựng cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này áp dụng phương thức quản lý tài chính thống nhất, phù hợp với điều kiện của các doanh nghiệp, đồng thời tạo thuận lợi cho công tác quản lý, hướng dẫn của các cơ quan chức năng.
Xây dựng cơ sở pháp lý cho việc hình thành, thực hiện, theo dõi, thanh lý, giải quyết tranh chấp các hợp đồng tài chính và xử lý các vấn đề tài chính khi doanh nghiệp phá sản hay giải thể theo quy luật kinh tế thị trường.
Chính sách thuế: Có thể nói rằng chính sách thuế luôn có tác động nhạy cảm và là vấn đề mang tính thời sự đối với khu vực KTTN. Xin đưa ra một số giải pháp cải tiến chính sách thuế như sau:
Thuế GTGT và TTĐB, về nguyên tắc, Nhà nước khuyến khích các hộ kinh doanh cá thể thực hiện đầy đủ chế độ sổ sách kế toán, không hạn chế đối tượng này được áp dụng phương pháp khấu trừ thuế nếu đầy đủ các điều kiện quy định. Vì vậy, để tháo gỡ, cần thiết phải có biện pháp hỗ trợ nhằm nâng cao trình độ quản lý sản xuất, kinh doanh giúp đỡ các hộ kinh doanh hoạt động theo đúng khuôn khổ luật pháp và môi trường kinh doanh thuận lợi mà Nhà nước tạo ra. Ngoài ra, trong thời gian tới cần kiên quyết loại bỏ quy định về khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào.
Đối với thuế TNDN, cần giải quyết tiếp những vướng mắc về vấn đề xác định chi phí hợp lý để tính thuế (chẳng hạn như chi phí tiền lương, tiền công) dẫn đến xác định lợi nhuận không thực tế. Các doanh nghiệp NQD trả lương cho người lao động là tiền lương thực tế, phù hợp với mức sống và đóng góp của họ, nhưng quy định về xác định chi phí tiền lương lại tuân theo nguyên tắc tiền lương thực tế không vượt quá định mức tiền lương của DNNN hoạt động trong cùng lĩnh vực. Một vấn đề khác cần quan tâm là Luật thuế TNDN quy định điều tiết một phần thu nhập đối với hộ gia đình, cá nhân nông dân sản xuất hàng hoá lớn, có thu nhập cao nhưng đến nay (sau gần 3 năm) vẫn chưa thực hiện được. Điều này dẫn đến hiện tượng ở nông thôn, có một số ít hộ, cá nhân giàu lên rất nhanh mà không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước, không đảm bảo công bằng xã hội ( giữa các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, giữa các hộ gia đình, cá nhân nông thôn).
Chính sách tín dụng ngân hàng: Ngoài việc khuyến khích cho vay ưu đãi theo loại dự án đầu tư có khuyến khích không kể dự án đó thuộc thành phần kinh tế nào, đối với khu vực kinh tế tư nhân cần phải loại bỏ những hàng rào ngăn cản khu vực này tiếp cận với các loại hình tín dụng trong hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước, đó là mức tín dụng, mức lãi suất và vấn đề về thế chấp, thủ tục xin vay tín dụng. Hiện nay, Ngân hàng chỉ quy định mức lãi suất cơ bản song trên thực tế, khu vực kinh tế tư nhân vẫn phần nào bị phân biệt đỗi xử, do đó, thường được vay vốn với lãi suất cao hơn so với các DNNN. Các điều tra gần đây cũng cho thấy tỷ lệ vay vốn của các doanh nghiệp tư nhân chỉ chiếm một tỷ lệ hết sức khiêm tốn khoảng 2%-5% tổng vốn mà ngân hàng cho các doanh nghiệp trong nước vay. Theo một số ý kiến, nên có chính sách ưu đãi tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua việc cấp tín dụng trung và dài hạn cho các doanh nghiệp này. Hoặc cho các doanh nghiệp tư nhân có quyền thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn ngân hàng.
Mở rộng phương thức thanh toán, trước hết, các doanh nghiệp tư nhân có khả năng sản xuất kinh doanh và có uy tín trên thị trường cần mạnh dạn áp dụng phương thức mua, bán trả chậm bằng tín dụng xuất khẩu hoặc áp dụng hình thức cho vay theo tài khoản thấu chi. Phương thức này vừa tạo thuận lợi cho việc kiểm tra, kiểm soát của Ngân hàng vừa giảm được thủ tục và thời gian vay và thanh toán của khách hàng.
Nhanh chóng thành lập và đua vào hoạt động các công ty mua bán nợ nhằm giải quyết bớt những khó khăn, nợ nần dây dưa cho các doanh nghiêp tư nhân đang gặp khó khăn về tài chính, tạo điều kiện để vực dậy các doanh nghiệp này.
Chính sách khuyến khích đầu tư: Hầu hết các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN là các doanh nghiệp vừa và nhỏ với số vốn dưới 5 tỷ đồng. Sau khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực, số lượng các doanh nghiệp tăng lên khá nhanh, nhìn chung các doanh nghiệp mới có số vốn đăng ký trên dưới 1 tỷ đồng. Tuy nhiên vẫn cần những giải pháp thu hút đầu tư nâng mức tín nhiệm tạo thuận lợi cho việc huy động vốn cho các doanh nghiệp. Hiện nay, chưa có tổ chức trung gian đứng ra bảo lãnh tín dụng, nên vấn đề vốn vẫn là một trong những khó khăn lớn đối với các doanh nghiệp KTTN. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 51/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 quy định chi tiết thi hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi). Bộ tài chính cũng đã ban hành Thông tư 146/1999/NĐ-CP. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng đối với việc huy động vốn và quản lý, sử dụng các nguồn lực trong xã hội, tuy nhiên, khu vực KTTN mới được phát triển, chưa đủ thời gian để tích tụ vốn nên hầu như chưa có các dự án đầu tư lớn.
Chính sách thiết lập các định chế tài chính hỗ trợ Kinh tế tư nhân: Thành lập và sử dụng có hiệu quả các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong đó, đặc biệt là quỹ hỗ trợ phát triển, hàng năm trích khoảng 30% quỹ HTPT để đầu tư vào khu vực kinh tế tư nhân. Tích cực hình thành các ngân hàng đầu tư phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tiếp tục các chính sách thu hút các quỹ, các tập đoàn đầu tư tài chính quốc tế như Dragon Capital, hay Mekong Capital v.v. Thúc đẩy quả trình cổ phần hoá, phát triển hoạt động thị trường chứng khoán.
Tăng cường áp dụng hình thức thuê mua tài chính, tạo điều kiện cho doanh nghiệp NQD ít vốn nhưng vẫn có thể được quyền sử dụng các máy móc thiết bị hiện đại, phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, thanh toán nợ dần giống kiểu mua hàng trả góp cho đến khi được sở hữu các máy móc thiết bị hiện đại đó.
Chế độ kế toán kiểm toán: Cải tiến chế độ báo cáo tài chính ban hành theo Quyết định 167/2000/QĐ-BTC ngày 25/10/2000 của Bộ tài chính theo hướng đơn giản và phù hợp hơn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện. Tiếp tục đẩy mạnh công tác hướng dẫn, chỉ đạo kiểm tra đôn đốc thực hiện và kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp.
Bổ sung, sửa đổi về phân công phân cấp quản lý khu vực KTTN: Căn cứ khoản 2, Điều 115 của Luật doanh nghiệp, đề nghị Chính phủ phân công rõ chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước đối với đoanh nghiệp NQD:
Bộ KH-ĐT thực hiện chức năng tiền kiểm trong việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Chỉ đạo thực hiện chức năng này đối với các Sở KH-ĐT của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tổng hợp tình hình hoạt động, giải thể, phá sản của doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Bộ tài chính thực hiện nhiệm vụ hậu kiểm, hướng dẫn thực hiện chính sách tài chính, thực hiện nghĩa vụ thu nộp NSNN; Chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ “hậu kiểm” đối với Sở Tài chính - Vật giá các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương; Tổng hợp tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, báo cáo tài chính, tình hình thực hiện nghĩa vụ với NSNN của doanh nghiệp ngoài quốc doanh, xây dựng cơ chế giám sát hoạt động của các doanh nghiệp NQD.
UBND các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm quản lý và tổng hợp tình hình hoạt động của các doanh nghiệp NQD, hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn.
Để thúc đẩy KTTN phát triển mạnh mẽ, tương xứng với tiềm năng và góp phần xứng đáng vào việc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đòi hỏi Nhà nước phải tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các cơ chế chính sách, trong đó chính sách tài chính có ý nghĩa quan trọng, theo hướng tăng cường quyền tự do, tự chủ kinh doanh của khu vực KTTN, tạo sân chơi, thật sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển KTTN trong khuôn khổ luật pháp.
3.3. Kiến nghị điều kiện thực thi giải pháp:
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các giải pháp trên cũng như việc áp dụng có hiệu quả cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp NQD.
- Duy trì sự ổn định kinh tế xã hội trong nước. Đây là nhiệm vụ mà có thể nói chúng ta đã thực hiện rất thành công trong những năm qua. Các nhà đầu tư nước ngoài, các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước luôn đánh giá nước ta là một nước có chế độ chính trị ổn định, môi trường phát triển kinh tế lành mạnh và thoáng đạt. Bằng chứng là trong cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam á, và sau đó lan ra toàn cầu, trong khi phần lớn các nước trong khu vực phải gánh chịu những thiệt hại nặng nề, như Thái lan, Nhật bản và Hàn Quốc nền kinh tế bị kéo lại hàng chục năm thì Việt Nam là một trong những quốc gia vẫn duy trì được một tốc độ tăng trưởng nhất định. Điều này là minh chứng rõ ràng nhất cho tính đúng đắn trong việc phát triển kinh tế của nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Nhiệm vụ đặt ra trước mắt là tiếp tục phát huy thành tựu đó.
- Hoàn thiện môi trường pháp lý và quản lý: Cần nghiên cứu ban hành các văn bản pháp luật tạo môi trường phát triển thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế, trong đó có khu vực kinh tế tư nhân. Tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp, và kích thích các doanh nghiệp phát triển phù hợp với pháp luật và hiến pháp của nước ta. Các văn bản pháp luật phải đảm bảo tính thống nhất, có hệ thống cao. Bên cạnh đó là tiếp tục đẩy mạnh việc quán triệt và thực hiện pháp luật đến đông đảo dân chúng. Tích cực giáo dục, tuyên truyền phổ biến nội dung và hướng dẫn thực hiện pháp luật như Luật doanh nghiệp, Nghị định về phát triển thị trường chứng khoán v.v
- Đây mạnh quá trình cải cách hành chính theo hướng đơn giản, dễ thực hiện. Phân định rõ ràng chức năng và quyền hạn của các cơ quan, thực hiện cơ chế cá nhân chịu trách nhiệm. Thực hiện cơ chế cá nhân chịu trách nhiệm.
- Phát triển nguồn nhân lực, trong đó, tập trung phát triển chất lượng nguồn nhân lực. Đẩy mạnh công tác đào tạo các cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, bản lĩnh chính trị vững vàng, khả năng nghiên cứu và làm việc độc lập tốt. Phát huy các sáng kiến, đổi mới trong tư duy, cách nghĩ cách làm, tận dụng tối đa khả năng của mỗi người. Nâng cao chất lượng của đội ngũ những người làm công tác hoạch định chính sách nhất là chính sách kinh tế hiện nay.
Kết luận
Qua những nghiên cứu tổng hợp trên, chúng ta có thể nhận thấy tiềm năng phát triển mạnh mẽ của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, và sự tiếp tục phát triển lớn mạnh của khu vực kinh tế này là một chân lý không phải bàn cãi vì nó hợp với định hướng phát triển của Đảng và Nhà nước cũng như được nhân dân ủng hộ. Tuy nhiên, để có thể phát huy hết tiềm năng thế mạnh, phát triển với hiệu quả cao nhất thì vấn đề cấp thiết mang tính thời sự đối với các DNNQD hiện nay là cơ chế quản lý tài chính. Một cơ chế quản lý tài chính độc lập, phù hợp với quan hệ sở hữu, với quy mô và những đặc điểm riêng có của khu vực kinh tế này là vấn đề đặt ra cho tất cả chúng ta phải suy nghĩ mà nhất là những người làm công tác hoạch định chính sách. Trong giới hạn của đề tài nghiên cứu, luận văn đã tập trung nghiên cứu về cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay. Bằng phương pháp tổng hợp, phân tích và diễn giải, đề tài đã đi từ những vấn đề lý luận chung, đến thực tiễn và nêu lên một số giải pháp cụ thể để có thể thiết lập và hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên do đây là một vấn đề thực sự khó, phạm vi rộng, là một vấn đề kinh tế nhưng không thể tách rời mối quan hệ phức tạp đến cơ cấu tổ chức xã hội chính trị của quốc gia nên chắc chắn đề tài còn rất nhiều hạn chế, có những vấn đề mâu thuẫn mà bản thân em không giải quyết được. Hy vọng rằng, với thời gian, khi được đào tạo cao hơn em sẽ có thể tiếp tục giải quyết các vấn đề này một cách thấu đáo và triệt để hơn.
Cuối cùng, em thực hiện chuyên đề này với niềm tin sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng và khả năng quản lý của Nhà nước. Chắc chắn trong thời gian tới, cùng với sự phát triển chung của đất nước, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ, đạt được những thành công vang dội, đóng góp quan trọng vào quá trình đổi mới kinh tế của đất nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- "Báo cáo kinh tế Việt Nam 1998", Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương,3-1999
- "Báo cáo một số nét về thực trạng hiện nay của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam" , Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương,1-1999
- Tổng cục thống kê: Chỉ tiêu kinh tế xã hội ở Việt Nam 1990-1995, Nxb. Thống kê, Hà nội, 1-1997.
- Báo cáo kinh tế của Ban kinh tế Trung ương:"Về kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư nhân...", Lê Đăng Doanh, Tổng cục Thống kê, Hà Nội,5-1999
- Tổng cục Thống kê:"Kinh tế xã hội Việt Nam - thực trạng xu thế và giải pháp", Nxb.Thống kê, Hà Nội, 1996, tr 225
- Báo cáo của Ban kinh tế Trung ương:"Một số chỉ tiêu cơ bản của 5 thành phần kinh tế", Lê Đăng Doanh, Tổng cục Thống kê, Hà Nội, 5-1999
- Báo cáo: Vai trò doanh nghiệp vừa và nhỏ trong phát triển kinh tế tư nhân và định hướng doanh nghiệp nhỏ và vừa đến năm 2010, Hà Nội,3-1999.
- Các văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần V,VI,VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1982,1987, và 1994 (các năm tương ứng).
- Các Tạp chí tài chính 7/2002, 5/2002, 12/2002
- Tạp chí tài chính doanh nghiệp ( Tạp chí chuyên ngành do Bộ tài chính phát hành) các số 9/2000, 10/2000, 4/2001
Và một số các tạp chí và tài liệu có liên quan khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TC-03.docx