5.6. Dùng thuốc, hút dịch và phẫu thuật
Tiêm dưới da hyaluronidase giúp làm vỡ tổ chức
liên kết, được áp dụng khi có thoát thuốc khối lượng
lớn, thuốc hóa chất có độ thẩm thấu cao hoặc thấp [38].
Dùng thuốc này trong vòng 1h sau khi thoát thuốc. Liều
dùng được đề cập thay đổi và hiệu quả tuy nhiên vẫn
chưa được thuyết phục. Các nghiên cứu trên động vật
cho thấy lợi ích [2,28,38], tuy nhiên nghiên cứu của
Palmer (1971) khi tiêm hyaluronidase vào thỏ khi bị
thoát thuốc, cho thấy phản ứng viêm tăng đáng kể.
Dùng thuốc corticoid, thuốc giãn mạch và các
thuốc khác để điều trị thoát mạch, nhưng phần lớn
nghiên cứu cho thấy kết quả thực sự chưa mang lại
hiệu quả.
Sử dụng kỹ thuật hút dịch từ vị trí thoát thuốc vẫn
còn tranh cãi, bởi vì lượng dịch hút được ra rất nhỏ
trong tổng lượng dịch thoát ra và làm tăng thêm nguy
cơ nhiễm trùng.
Phần lớn các bác sĩ phẫu thuật tạo hình tin rằng,
tổn thương thoát thuốc tự hồi phục và điều trị bảo tồn mà
không cần đến can thiệp ngoại khoa [32]. Dẫn lưu phẫu
thuật hoặc hút trong trường hợp cấp cứu được áp dụng
trong vòng 6 tiếng có thể hiệu quả [39] và sử dụng hút
đơn thuần hoặc phối hợp rửa bằng nước muối có thể
mang lại hiệu quả [11,40]. Tuy nhiên, các giải pháp này
không được phổ biến rộng trong thực hành lâm sàng.
5.7. Theo dõi bệnh nhân
Bệnh nhân được theo dõi 1-2 tiếng tại khoa
Xquang trước khi xuất viện. Tuy nhiên việc này chưa
được khẳng định hiệu quả qua tài liệu được công bố.
Bệnh nhân cần phải được thông báo về tai biến,
thông tin cần theo dõi và thông báo lại cho nhân viên ý
tế khi có bất thường.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thoát thuốc tương phản trong thăm khám hình ảnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 19 - 03/201556
DIỄN ĐÀN
MEDICAL FORUM
1. Giới thiệu
Thoát thuốc dưới da là biến chứng dễ nhận thấy
sau tiêm thuốc cản quang chứa Iốt [1,2,3]. Tỉ lệ thoát
thuốc tương phản khi tiêm bằng máy khoảng từ 0,1 đến
0,9% (1/1000 tới 1/106 bệnh nhân). Tỉ lệ thoát thuốc
cao hơn ở nhóm tiêm bằng máy so với nhóm tiêm bằng
tay hoặc với kỹ thuật truyền nhỏ giọt, nhưng không có
sự liên quan giữa tốc độ tiêm, thể tích, và tần số thoát
thuốc (extravasation frequency) [1,5]. Biểu hiện lâm
sàng thay đổi, phần lớn trường hợp thoát thuốc với thể
tích nhỏ gây nên phồng khu trú, hoặc đỏ da khu trú,
sau đó mất đi nhanh. Triệu chứng đau thường gặp [29].
Tiến triển hoại tử lan rộng và tổn thương da, dạng loét
thường hiếm và thường liên quan với thoát thuốc thể
tích lưu lượng lớn [2].
2. Yếu tố nguy cơ
2.1. Bệnh nhân
Trẻ còn bú, trẻ em, bệnh nhân hôn mê có tỉ lệ
gặp bị thoát thuốc cao hơn do không nhận biết được
đau tại vị trí trong lúc tiêm [2]. Bệnh nhân đang được
điều trị hóa chất có hệ thống ven tĩnh mạch giòn dễ vỡ.
Tổn thương thoát thuốc nghiêm trọng hay gặp ở nhóm
người ít cơ bắp, tổ chức dưới da mỏng hay teo. Bệnh
nhân suy giảm hệ động mạch (xơ vữa, tiểu đường,
bệnh lý tổ chức liên kết), hay có chèn ép hệ tĩnh mạch
(viêm tắc), chèn ép dẫn lưu hệ bạch mạch (xơ sau xạ
trị, phẫu thuật, phẫu thuật hạch) làm cho sự lưu thông
thải thuốc kém.
2.2. Yếu tố thuốc cản quang
Thoát mạch thuốc cản quang có trọng lượng phân
tử thấp thì hấp thu tốt hơn thuốc có trọng lượng phân
tử cao. Tuy nhiên, đã có 5 trường hợp công bố có tổn
* Bộ môn CĐHA Trường ĐHY Hà Nội. Khoa
Chẩn đoán hình ảnh BV Bạch Mai
THOÁT THUỐC TƯƠNG PHẢN TRONG
THĂM KHÁM HÌNH ẢNH
Contrast Media Extravasation Injury
Người dịch: Ts Vũ Đăng Lưu*
Bản dịch từ bài của tác giả: Å. Jakobsen thuộc Viện Trường Đại học Y Oslo, Na Uy, trong cuốn: Hướng dẫn sử
dụng an toàn thuốc tương phản và quy trình của Hội niệu dục Châu Âu (ESUR) của tác giả H. S. Thomsen and J.
A. W. Webb chủ biên tái bản lần thứ 3, năm 2014.
Contrast Media, Safety Issues and ESUR Guidelines; Third Edition
SUMMARY
Extravasation of contrast medium during injection, especially when doing contrast-enhanced CT, is now a
common problem. The risk factors include patient factors, the class of contrast medium used, and the injection
technique. The mechanisms discussed are effects of osmolality, cytotoxicity, volume, and compression. The clinical
picture varies from no subjective complaints to pain, ulcers, and compartment syndrome. However, nearly all cases
can be effectively handled by simple conservative treatment with a cold pack and elevation of the arm. The treatment
and follow-up of the patient must be documented.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 19 - 03/2015 57
DIỄN ĐÀN
thương nặng liên quan thuốc cản quang không ion trên
đứa trẻ 22 tháng tuổi mà cần phẫu thuật [7,8,9,29,30].
2.3. Thể tích thuốc
Phần lớn trường hợp thoát thuốc với lượng nhỏ
và triệu chứng thường tự khỏi trong vòng 24 giờ
[2,3,10,31]. Tuy nhiên cũng gặp trường hợp loét da
nặng, hoại tử sau khi thoát khoảng 10ml thuốc cản
quang, nhưng rất hiếm gặp [6]. Khi thoát thể tích lớn có
thể dẫn tới tổn thương nghiêm trọng nhu mô đặc biệt
khi tiêm thuốc cản quang bằng máy bơm tự động và
vị trí tiêm không đủ gần để theo dõi kiểm soát [2]. Tuy
nhiên, rất khó để tìm thấy báo cáo có liên quan giữa hội
chứng khoang chèn ép với vị trí thoát thuốc.
2.4. Đường chọc
Vị trí chọc rất quan trọng tới thoát thuốc cản quang.
78% của 36 bệnh nhân được tiêm qua tĩnh mạch mu
chân (lưng -dorsal vein) tại vị trí ngón chân cái trong
chụp tĩnh mạch có xuất hiện thoát thuốc ra ngoài [17].
Khi sử dụng ga rô hay có phù làm tăng nguy cơ thoát
mạch khi chụp tĩnh mạch [2]. Tiêm thuốc vị trí mu tay
cũng liên quan tăng nguy cơ thoát [11,5].
2.5. Tốc độ tiêm
Tiêm tự động dùng máy trong CLVT có thể được
xem là hay gây thoát mạch hiện nay. Tốc độ tiêm từ
1-2ml/s gây ra thoát mạch với tỉ lệ thay đổi từ 0,2-0,4%
[3,10,13,12,32]. Trong một nghiên cứu lớn trên 421
bệnh nhân bị thoát thuốc cản quang, có 27% gặp với
tốc độ tiêm dưới 2ml/s, có 50% gặp với tốc độ tiêm
từ 2-3ml/s và 23% gặp với tốc độ tiêm >3ml/s. [29,31]
nhận thấy rằng tỉ lệ thoát thuốc (0,6%) không có sự
khác biệt có ý nghĩa giữa nhóm bệnh nhân được tiêm
thuốc với tốc độ tiêm khác nhau. Trong một nghiên cứu
khác trên 4.475 bệnh nhân được chụp CLVT đa dãy với
nồng độ thuốc khác nhau, tốc độ tiêm, kích cỡ kim và vị
trí chọc cho thấy không có sự liên quan giữa tốc độ tiêm
với tỉ lệ thoát thuốc [5].
2.6. Kim lựa chọn không phù hợp (Indwelling
Cannulas or Lines)
Lựa chọn kim chọc tĩnh mạch để bơm cũng có
ảnh hưởng tới tần xuất thoát thuốc. Theo Sistrom và cs
1991, có 40% bệnh nhân có thoát thuốc liên quan lựa
chọn kim không hợp lý. Thoát thuốc thường gặp hơn
khi sử kim sắt hơn là kim nhựa [17]. Tiêm qua kim đặt
đường vào tĩnh mạch đã sử dụng >24h hoặc trên tĩnh
mạch đã chọc nhiều lần thì làm gia tăng nguy cơ thoát
thuốc cao hơn (ACR Manual 2012).
3. Cơ chế và nhiễm độc
3.1. Nồng độ thẩm thấu
Ngưỡng trọng lượng phân tử có thể gây tổn
thương tổ chức được ước tính là 1.025-1.420 mOsm/
kg nước [14,32]. Chất tương phản chứa Iốt có nồng
độ thẩm thấu thấp thì độ thanh thải tốt hơn sới với
thuốc có nồng độ thẩm thấu cao [10]. Các thuốc sử
dụng trong đối quang từ thì độ thẩm thấu và thể tích
thuốc ít ảnh hưởng hơn so với thuốc cản quang trong
CLVT. Tuy nhiên khi có sự thoát thuốc trong chụp
CHT chứa dimeglumine gadopentetate (1960 mmol/kg
water) thì có tỉ lệ hoại tử, chảy máu, phù cao hơn so
với thuốc chứa gadoteridol (789 mmol/kg water) [4].
Gadoteridol với nồng độ 0.5 mol/L không gây nhiễm
độc hơn so với nước muối sinh lý 0,9%. Theo Runge
và cs (2002) cũng cho thấy, sau khi tiêm 0,3ml thuốc
gadopentetate dimeglumine và gadoversetamide (1110
mmol/ kg water) có độ thẩm thấu cao trên chuột, thì
nguy cơ hoại tử cao hơn thuốc độ thẩm thấu thấp như
gadodiamide (789 mmol/ kg water) và gadoteridol (630
mmol/kg water).
3.2. Nhiễm độc tế bào
Nhiễm độc tế bào có thể xảy ra cả thuốc cản quang
chứa Iốt loại ion hoặc không ion. Trên thỏ, thoát thuốc
cản quant chứa iod có thể gây viêm cấp tính, sau đó
tiến triển thành mạn tính gây xơ, teo cơ lân cận tại vị trí
tiêm sau 8 tuần [15]. Phản ứng viêm cấp tính gồm thay
đổi mô tế bào, xuất hiện cao điểm giờ thứ 24 và 48h
sau thoát mạch [33]. Các tác giả đều thống nhất rằng,
chất cản quang ion gây nhiễm độc mạnh hơn các chất
cản quang không ion. Sự hiện diện meglumine như là
ion dương đóng vai trò nhiễm độc tế bào của chất cản
quang chứa iod loại ion [34].
3.3. Thể tích thuốc và chèn ép
Thể tích thuốc thoát mạch xem là yếu tố quan trọng
gây chèn ép, dẫn tới hội chứng khoang [7,8,9,30]. Mặc
dù các tổn thương da nặng có thể gặp khi thoát thuốc
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 19 - 03/201558
DIỄN ĐÀN
dưới 15ml, tuy nhiên phần lớn trường hợp khi xuất hiện
khi có thoát lượng lớn thuốc [16].
3.4. Kim không phù hợp
Thoát thuốc do kim chọc bơm thuốc không thích
hợp do viêm tắc mạch đối với trường hợp đã đặt đường
truyền [2]. Tắc tĩnh mạch dẫn tới tăng trở kháng mạch,
cũng giống như xuất hiện trong quá trình tiêm. Cơ chế
khác liên quan kim chọc là kích cỡ kim không phù hợp,
chọc tĩnh mạch nhiều lần, áp lực bơm cao dẫn tới vỡ
thành mạch. Lý thuyết, dùng đường vào tĩnh mạch
trung tâm có thể tăng nguy cơ, đặc biệt nếu ống thông
không phù hợp với áp lực cao và lưu lượng lớn.
4. Lâm sàng
Bệnh cảnh lâm sàng thoát mạch thuốc cản quang
hay cản từ thay đổi từ nhẹ như ban đỏ, sưng nề tới hoại
tử loét da, hội chứng khoang. Các tổn thương này có
thể khỏi, hoặc hiếm khi dẫn tới di chứng như giảm cảm
giác, yếu và đau [3].
4.1. Triệu chứng và dấu hiệu
Triệu chứng thoát thuốc rất thay đổi bao gồm: đau
nhức, đau kiểu nóng rát. Trên thăm khám lâm sàng, tại vị
trí thoát thuốc thấy sưng, đỏ, mật độ mềm. Phần lớn các
trường hợp thoát thuốc tiêu tự nhiên trong 2 đến 4 ngày.
Ở tại thời điểm thăm khám ban đầu, khó để xác
định liệu thoát thuốc sẽ thoái triển, hay tiến triển thành
loét, hoại tử. Một vài dấu hiệu lâm sàng gợi ý tổn thương
mức độ nặng cần hút trích bởi bác sĩ ngoại như: phỏng
da, thay đổi tưới máu phần mềm, loạn cảm và tăng lên
hoặc đau tồn tại sau 4 tiếng [2].
Các trường hợp thoát thuốc gây hội chứng khoang, sẽ
thấy phần xa chi căng, thay đổi màu sắc thành thâm, sưng
phồng, mạch đập yếu. Khi có hội chứng khoan thì cần thiết
phải rạch mạc cơ cấp để giải ép thần kinh và mạch máu
[7,8,9,30]. May mắn là biến chứng này rất hiếm gặp.
Các trường hợp thoát thuốc cần phải phân biệt với
phản ứng tại chỗ với dịch được tiêm như tăng phản
ứng nhạy cảm, hiệu ứng kích thích tại chỗ của Iốt với
thành mạch. Các phản ứng tại chỗ này thường không
thấy phù, không có đỏ dam và kim luồn chọc hoàn toàn
trong tĩnh mạch. Triệu chứng đau thoáng qua có thể
gặp từ 2-5% các bệnh nhân sau tiêm tĩnh mạch thuốc
cản quang chứa Iốt loại ion hóa. Trong khi đau tồn tại
muộn tại vị trí tiêm hoặc trên vị trí tiêm khi có thoát
mạch gặp từ 0,1 đến 14% [17,35]. Triệu chứng đau có
thể kéo dài vài ngày (từ 1-30 ngày, trung bình 3 ngày)
và hiếm gặp có thể tiến triển tới viêm tĩnh mạch [18].
4.2. Dấu hiệu hình ảnh
Hình thoát thuốc cản quang chứa Iốt quan sát trên
Xquang có dạng khối tăng cản quang, hội tụ tại vị trí
tiêm [20,21,22]. Trên CLVT quan sát thấy rõ phần thuốc
thoát với phần tổ chức. (Hình 1). Thuốc cản từ cũng
thấy rõ có vùng trống tín hiệu trên ảnh với thời gian thư
giãn ngắn [23]. Trên hình ảnh có thể đánh giá độ sâu
của thoát thuốc (Hình 2).
A B C
Hình 1. Hình chụp CLVT thoát thuốc cản quang vùng khuỷu. Ảnh hướng ngang (A), tái tạo đứng dọc (B)
và đứng ngang (C). Bệnh nhân được tiêm 100ml thuốc cản quang chứa I ốt không ion, với tốc độ bơm
5ml/s, qua kim nhựa 18G. Hình thoát thuốc (dấu *) tỉ trọng tăng, nằm ngoài cơ nhị đầu.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 19 - 03/2015 59
DIỄN ĐÀN
5. Phòng ngừa, điều trị và tư vấn cho bệnh nhân
Hiện nay vẫn chưa có bằng chứng về phương pháp
tốt nhất để quản lí thoát thuốc ([2,3,24,25]. Các khuyến
cáo sau được rút ra từ các bài báo, được xem như quy
trình hướng dẫn từ Trường Đại học Điện quang Mỹ, Hiệp
hội niệu dục châu Âu (American College of Radiology,
the Royal Collegeof Radiologists, an earlier publication
from European Society of Urogenital Radiology (ESUR)
[26], và trên phiên bản mới nhất ESUR 8.1 guidelines
(‘‘ESUR Guidelines on Contrast Media Version 8.1’’).
5.1. Dừng bơm thuốc cản quang
Khi nghi ngờ có thoát thuốc cản quang thì tiến
hành dừng ngay bơm thuốc. Kỹ thuật viên hoặc bệnh
nhân là những người đầu tiên ghi nhận nghi ngờ thoát
thuốc trong quá trình bơm. Về mặt lý tưởng, kỹ thuật
viên hoặc y tá ở cạnh bệnh nhân để phát hiện thoát
thuốc cản quang, tuy nhiên trong quá trình chụp CLVT
liên quan nhiễm xạ nên rất khó thực hiện yêu cầu này
mà chỉ quan sát thời gian rất ngắn ngay lúc ban đầu
tiêm. Thiết bị mới phát hiện thoát thuốc cản quang
đang được nghiên cứu, trong nghiên cứu 5000 bệnh
nhân [36] sử dụng thiết bị phụ trợ phát hiện thoát thuốc
(extravasation detection accessory (EDA)) có độ nhạy
100% và đặc hiệu 98%, phát hiện được khi có thoát
thuốc khoảng 10ml. Thiết bị theo dõi trong tĩnh mạch dễ
sử dụng, an toàn và chính xác có thể được ứng dụng
trong CLVT. Thiết bị khác cũng được sử dụng là siêu
âm Doppler [37].
5.2. Lựa chọn vị trí tiêm, cỡ kim và thuốc cản quang
Vị trí tĩnh mạch có nguy cơ vỡ cao nên tránh sử
dụng như mu tay, mắt cá chân, cổ. Vị trí tĩnh mạch đã
chọc nhiều lần thì nên tránh. Cỡ kim nhỏ 22G có nguy
cơ cao hơn kim lòng rộng 16-18G [5]. Thuốc cản quang
có độ thẩm thấu cao nên tránh dùng vì có nguy cơ tổn
thương tổ chức nặng hơn thuốc có độ thẩm thấu thấp
nếu có thoát mạch.
5.3. Theo dõi và kế hoạch xử trí
Khi có hiện tượng thoát thuốc sẽ thấy thay đổi bờ
viền vùng da, tương ứng thể tích thuốc cản quang thoát
ra vào tổ chức. Khi có sự thay đổi màu sắc hoặc phỏng
nước phải được theo dõi, bắt mạch, hỏi lâm sàng xem
có đau, tê vùng tổn thương. Kế hoạch xử trí cần được
thảo luận với bệnh nhân.
5.4. Giơ cao chi tổn thương
Mục đích giảm phù nề do giảm áp lực thủy tĩnh tại
mao mạch.
A B
Hình 2. Hình thoát thuốc cản từ trong chụp CHT. Trên ảnh xung T1WI (A) thấy hình thoát thuốc
giảm tín hiệu do hiệu ứng ảnh T2 và T1 xóa mỡ với TE dài (B) thấy hình sáng (mũi tên).
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 19 - 03/201560
DIỄN ĐÀN
5.5. Chườm nóng hoặc lạnh khu trú
Nhiệt khi chườm nóng giúp giãn mạch và tăng hấp
thu trở lại dịch thoát ra và bớt phù. Chườm lạnh giúp
co thắt mạch và hạn chế quá trình viêm. Chườm ấm
ngay lập tức giúp giảm thể tích thuốc thoát qua nghiên
cứu những người khỏe mạnh [27]. Trong nghiên cứu
thử nghiệm, chườm lạnh liên quan với giảm kích thước
vùng da loét khi dùng thuốc iothalamate và diatrizoate
[14]. Không có sự khác biệt có ý nghĩa tại vị trí tiêm
trên nhóm thỏ không được điều trị, với thỏ được điều trị
chườm ấm và thỏ được chườm lạnh [32].
Trên bệnh nhân, thực hiện chườm lạnh bằng cách
đặt túi đá trên vị trí tiêm khoảng 15-60 phút, 3 lần mỗi
ngày, trong khoảng 1-3 ngày, cho đến khi hết triệu
chứng. Áp dụng chườm lạnh cho đến nay vẫn là chính
trong các quy trình hướng dẫn.
Để ngăn ngừa nhiễm trùng thứ phát, các phẫu thuật
viên tạo hình khuyến cáo dùng mỡ bạc sulfadiazine nếu
có tình trạng phỏng nước [28]. Tuy nhiên, khuyến cáo
này vẫn chưa được áp dụng rộng rãi trong thực hành.
5.6. Dùng thuốc, hút dịch và phẫu thuật
Tiêm dưới da hyaluronidase giúp làm vỡ tổ chức
liên kết, được áp dụng khi có thoát thuốc khối lượng
lớn, thuốc hóa chất có độ thẩm thấu cao hoặc thấp [38].
Dùng thuốc này trong vòng 1h sau khi thoát thuốc. Liều
dùng được đề cập thay đổi và hiệu quả tuy nhiên vẫn
chưa được thuyết phục. Các nghiên cứu trên động vật
cho thấy lợi ích [2,28,38], tuy nhiên nghiên cứu của
Palmer (1971) khi tiêm hyaluronidase vào thỏ khi bị
thoát thuốc, cho thấy phản ứng viêm tăng đáng kể.
Dùng thuốc corticoid, thuốc giãn mạch và các
thuốc khác để điều trị thoát mạch, nhưng phần lớn
nghiên cứu cho thấy kết quả thực sự chưa mang lại
hiệu quả.
Sử dụng kỹ thuật hút dịch từ vị trí thoát thuốc vẫn
còn tranh cãi, bởi vì lượng dịch hút được ra rất nhỏ
trong tổng lượng dịch thoát ra và làm tăng thêm nguy
cơ nhiễm trùng.
Phần lớn các bác sĩ phẫu thuật tạo hình tin rằng,
tổn thương thoát thuốc tự hồi phục và điều trị bảo tồn mà
không cần đến can thiệp ngoại khoa [32]. Dẫn lưu phẫu
thuật hoặc hút trong trường hợp cấp cứu được áp dụng
trong vòng 6 tiếng có thể hiệu quả [39] và sử dụng hút
đơn thuần hoặc phối hợp rửa bằng nước muối có thể
mang lại hiệu quả [11,40]. Tuy nhiên, các giải pháp này
không được phổ biến rộng trong thực hành lâm sàng.
5.7. Theo dõi bệnh nhân
Bệnh nhân được theo dõi 1-2 tiếng tại khoa
Xquang trước khi xuất viện. Tuy nhiên việc này chưa
được khẳng định hiệu quả qua tài liệu được công bố.
Bệnh nhân cần phải được thông báo về tai biến,
thông tin cần theo dõi và thông báo lại cho nhân viên ý
tế khi có bất thường.
6. Kết luận
Thoát thuốc tương phản là biến chứng hay gặp
trong thăm khám hình ảnh. Mặc dù tổn thương nặng nề
đã được thông báo, tuy nhiên phần lớn là tổn thương
mức độ nhẹ và cần được đánh giá để điều trị bảo tồn tự
hồi phục. Xác định các dấu hiệu nguy cơ tiến triển nặng
cần phải được theo dõi và xử trí kịp thời.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Pond GD, Dorr RT (1993) Extravasation injury
with nonionic contrast material. AJR 160:203–204.
2. Cohan RH, Ellis JH, Garner WL (1996)
Extravasation of radiographic contrast material:
recognition, prevention, and treatment. Radiology
200:593–604
3. Federle MP, Chang PJ, Confer S, Ozgun B
(1998) Frequency and effects of extravasation of ionic
and nonionic CT contrast media during rapid bolus
injection. Radiology 206:637–640
4. Runge VM, Dickey KM, Williams NM, Peng X
(2002) Local tissue toxicity in response to extravascular
extravasation of magnetic resonance contrast media.
Invest Radiol 37:393–398
5. Wienbeck S, Fishbach R, Kloska SP et al
(2010) Prospective study of access site complications
of automated contrast injection with peripheral venous
access in MDT. AJR 195:825–829
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 19 - 03/2015 61
DIỄN ĐÀN
6. Ayre-Smith G (1982) Tissue necrosis following
extravasation of contrast media. J Can Assoc Radiol
33:104
7. Pond GD, Dorr RT, McAleese KA (1992) Skin
ulceration from extravasation of low-osmolar contrast
medium: a complication of automation. AJR 158:915–916
8. Memolo M, Dyer R, Zagoria RJ (1993)
Extravasation injury with nonionic contrast material.
AJR 160:203
9. Benson LS, Sathy MJ, Port RB (1996) Forearm
compartment syndrome due to automated injection
of computed tomography contrast material. J Orthop
Trauma 10:433–436
10. Sistrom CL, Gay SB, Peffley L (1991)
Extravasation of iopamidol and iohexol during contrast-
enhanced CT: report of 28 cases. Radiology 176:65–67
11. Gault DT (1993) Extravasation injuries. Br J
Plast Surg 46:91–96 Gothlin J (1972) The comparative
frequency of extravasal injection at phlebography with
steel and plastic cannulas. Clin Radiol 23:183–184
12. Miles SG, Rasmussen JF, Litwiller T (1990)
Safe use of an intravenous power injector for CT:
experience and protocol. Radiology 176:69–70
13. Kaste SC, Young CW (1996) Safe use of power
injectors with central and peripheral venous access
devices for pediatric CT. Pediatr Radiol 26:499–501
14. Elam EA, Dorr RT, Lagel KE, Pond GD (1991)
Cutaneous ulceration due to contrast extravasation:
experimental assessment of injury and potential
antidotes. Invest Radiol 26:13–16
15. McAlister WH, Palmer K (1971) The histologic
effects of four commonly used contrast media for
excretory urography and an attempt to modify the
responses. Radiology 99:511–516
16. Upton J, Mulliken JB, Murray JE (1979) Major
intravenous extravasation injuries. Am J Surg 137:497–506
17. McCullough M, Davies P, Richardson R (1989)
A large trial of intravenous Conray 325 and Niopam 300
to assess immediate and delayed reactions. Br J Radiol
62:260–265
18. Panto PN, Davies P (1986) Delayed reactions
to urographic contrast media. Br J Radiol 59:41–44
19. Park KS, Kim SH, Park JH et al (1993) Methods
for mitigating softtissue injury after subcutaneous
injection of water-soluble contrast media. Invest Radiol
28:332–334
20. Chew FS (2010) Extravasation of iodinated
contrast medium during CT: self-assessment module.
AJR 195:S80–S85
21. Schummer C, Sakr Y, Steenbeck J et al (2010)
Risk of Extravasation after Power Injection of Contrast
Media via the Proximal Port of Multilumen Central
Venous Catheters: Case Report and Review of the
Literature. Rofo 182:14–19
22. Earhart A, McMahon P (2011) Vascular access
and contrast media. J Infus Nurs 34:97–105
23. Carrier DA, Ford JJ, Hayman LA (1993) MR
appearance of extravasated gadolinium contrast
medium. AJNR 14:363–364
24. Katayama H, Yamaguchi K, Kozuka T et al
(1990) Adverse reactions to ionic and non-ionic contrast
media: a report from the Japanese committee on the
safety of contrast media. Radiology 175:621–628
25. Yucha CB, Hastings-Tolsma TM, Szeverenyi N
(1994) Effect of elevation on intravenous extravasations.
J Intraven Nurs 17:231–234
26. Bellin MF, Jakobsen JA, Tomassin I et al (2002)
Contrast media safety committee of the European
society of urogenital radiology. Contrast medium
extravasation injury: guidelines for prevention and
management. Eur Radiol 12:2807–2812
27. Hastings-Tolsma TM, Yucha CB et al (1993)
Effect of warm and cold applications on the resolution
of IV infiltrations. Res Nurs Health 16:171–178
28. Heckler FR (1989) Current thoughts on
extravasation injuries. Clin Plast Surg 16:557–563
29. Wang C, Cohan RH, Ellis JH et al (2007)
Frequency, management, and outcome of extravasation
of nonionic iodinated contrast medium in 69 657
intravenous injections. Radiology 243:80–87.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 19 - 03/201562
DIỄN ĐÀN
30. Young RA (1994) Injury due to extravasation of
nonionic contrast material (letter). AJR 162:1499
31. Jakobsen Jacobs JE, Birnbaum BA, Langlotz
CP (1998) Contrast media reactions and extravasation:
relationship to intravenous injection rates. Radiology
209:411–416.
32. Cohan RH, Dunnick NR, Leder RA, Baker
ME (1990a) Extravasation of nonionic contrast media:
efficacy of conservative treatment. Radiology 174:65–67
33. Cohan RH, Leder RA, Bolick D et al (1990b)
Extravascular extravasation of radiographic contrast
media: effects of conventional and low-osmolar contrast
agents in the rat thigh. Invest Radiol 25:504–510
34. Kim SH, Park JH, Kim YI et al (1990) Experimental
tissue damage after subcutaneous injection of water-
soluble contrast media. Invest Radiol 25:678–685
35. Shehadi WH (1975) Adverse reactions
to intra-vascularly administered contrast media: a
comprehensive study based on a prospective survey.
Radiology 124:145–152
36. Birnbaum BA, Nelson RC, Chezmar JL, Glick
SN (1999) Extravasation detection accessory: clinical
evaluation in 500 patients. Radiology 212:431–438.
37. Hoff L, Brabrand K, Andersen NB, Medhus S
(2008) Monitoring Xray contrast agent injections with
Doppler ultrasound. In Proceedings IEEE international
ultrasonics symposium. doi: 10.1109.
38. Laurie WS, Wilson L, Kernahan A et al (1984)
Intravenous extravasation injuries: the effectiveness
of hyaluronidase in their treatment. Ann Plast Surg
13:191–194
39. Loth TS, Jones DEC (1988) Extravasations of
radiographic contrast material in the upper extremity. J
Hand Surg 13:395–398
40. Vandeweyer E, Heymans O, Deraemaecker R
(2000) Extra-vasation injuries and emergency suction
as treatment. Plast Reconstr Surg 105:109–110
TÓM TẮT
Thoát thuốc cản quang trong quá trình bơm thuốc chụp CLVT là vấn đề thường gặp. Các yếu tố nguy cơ bao
gồm: liên quan bệnh nhân, loại thuốc được sử dụng và kỹ thuật tiêm. Các cơ chế gây tổn thương được đề cập gồm:
hậu quả về áp lực thẩm thấu, nhiễm độc tế bào, thể tích thuốc và chèn ép. Các triệu chứng lâm sàng thay đổi như
đau, loét và hội chứng do chèn ép (compartment). Tuy nhiên, hầu hết các trường hợp được điều trị bảo tồn như
chườm lạnh, giơ cao tay. Điều trị và theo dõi bệnh nhân phải được lưu ý hết sức cẩn thận.
Người liên hệ: Vũ Đăng Lưu; Email: vudangluu@yhaoo.com
Ngày nhận bài: 15/2/2015
Ngày chấp nhận đăng: tháng 3/2015
NGƯỜI THẨM ĐỊNH: PGS.TS. Nguyễn Duy Huề
.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
thoat_thuoc_tuong_phan_trong_tham_kham_hinh_anh.pdf