Bên cạnh đó, Bộ luật TTDS năm 2015
cũng chưa quy định cụ thể khi nào thẩm
phán tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và
hòa giải, cũng như không giới hạn số lần mở
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và hòa giải. Căn cứ vào
quy trình tố tụng, các phiên họp tiếp theo
không thể được gọi là phiên họp kiểm tra
việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
và hòa giải. Do đó, có nhiều cơ sở để cho
rằng, thời điểm bị đơn phản tố phải được
thực hiện trước khi mở phiên họp đầu tiên
theo thủ tục quy định tại Điều 210 Bộ luật
TTDS năm 2015. Nếu sau khi thụ lý vụ án
một thời gian ngắn, thẩm phán mở phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ thì thời gian để bị đơn cân nhắc,
tìm kiếm, thu thập tài liệu, chứng cứ và thực
hiện quyền yêu cầu phản tố sẽ bị hạn chế rất
nhiều. Trong khi đó, thực tế giải quyết các
tranh chấp dân sự cho thấy, chỉ sau khi tiếp
cận, công khai chứng cứ và hòa giải các
đương sự nói chung, bị đơn nói riêng mới có
đủ thông tin để quyết định việc có đưa ra yêu
cầu phản tố hay yêu cầu độc lập không. Điều
này vô hình trung làm ảnh hưởng đến quyền
yêu cầu phản tố của bị đơn.
Để khắc phục bất cập nêu trên, chúng tôi
cho rằng, Tòa án nhân dân tối cao cần ban
hành hướng dẫn cụ thể khi nào thẩm phán tiến
hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Để
đảm bảo quyền lợi của bị đơn, Thẩm phán
phải tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa
giải sau khi thực hiện các nhiệm vụ, quyền
hạn quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e và h
khoản 2 Điều 203 Bộ luật TTDS năm 2015.
Bên cạnh đó, để đảm bảo sự thống nhất
trong quá trình áp dụng pháp luật, Tòa án
nhân dân tối cao cũng cần hướng dẫn rõ nội
dung bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản
tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra
việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
và hòa giải đầu tiên hay cuối cùng. Vì đây
là nội dung quan trọng để Tòa án xác định
thụ lý hay không thụ lý yêu cầu phản tố của
bị đơn
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 287 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thời điểm thực hiện quyền yêu cầu phản tố của bị đơn theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 14 (414) - T7/202048
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
1 Phạm Thị Thúy (2017), Quyền của bị đơn trong tố tụng dân sự, Luận văn Thạc sĩ luật học, Đại học Luật Tp.
Hồ Chí Minh, tr.31.
1. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự
về thời điểm thực hiện quyền yêu cầu
phản tố của bị đơn
Việc xác định thời điểm thực hiện quyền
yêu cầu phản tố có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với các đương sự và cơ quan tiến
hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án
dân sự. Trước đây, Bộ luật Tố tụng dân sự
(TTDS) năm 2004 không có quy định về
thời điểm đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn
nên đã xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau về
thời hạn bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố, tại
thời điểm đó có ba quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, thời điểm
đưa ra yêu cầu phản tố chỉ trong khoảng thời
hạn bị đơn phải nộp cho Tòa án văn bản ghi
ý kiến của mình đối với yêu cầu của người
khởi kiện1.
THỜI ĐIỂM THỰC HIỆN QUYỀN YÊU CẦU PHẢN TỐ CỦA BỊ ĐƠN
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Nguyễn Ngọc Sơn
Công ty Luật TNHH MTV E&V
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Quyền yêu cầu phản tố, bị
đơn, Bộ luật Tố tụng dân sự.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 29/5/2020
Biên tập : 12/6/2020
Duyệt bài : 19/6/2020
Article Infomation:
Key words: Counterclaim,
defendants, Civil Procedure Code.
Article History:
Received : 29 May 2020
Edited : 12 Jun 2020
Approved : 19 Jun 2020
Tóm tắt:
Quyền yêu cầu phản tố là một quyền đặc trưng của bị đơn trong vụ
án dân sự. Việc xác định thời điểm đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn
không chỉ đảm bảo quyền lợi cho chính bị đơn mà còn đảm bảo quyền
lợi cho các đương sự khác, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan tiến
hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Trong phạm vi bài viết
này, tác giả phân tích những nội dung liên quan đến thời điểm đưa ra
yêu cầu phản tố của bị đơn, qua đó nêu ra một số hạn chế, bất cập
trong quá trình áp dụng pháp luật và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện
pháp luật về vấn đề này.
Abstract:
The right to request a counterclaim is a specific right of the defendant
in a civil case. The determination of the time to make a counterclaim
of the defendant not only guarantees the interests of the defendant but
also the rights of the other involved parties, creating favorable
conditions for the procedure-conducting agencies in process of the
civil case resolution itself. This article is focused on analysis of the
contents related to the time of making the counterclaim of the
defendant, thereby pointing out some limitations and shortcomings
in the process of applying laws and also proposed recommendations
for further improvements in the related laws.
49Số 14 (414) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Theo đó, cùng với việc phải nộp cho Tòa
án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu
cầu của người khởi kiện thì bị đơn có quyền
yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn2. Bên
cạnh đó, Bộ luật TTDS năm 2004 còn quy
định người được thông báo phải nộp cho Tòa
án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu
cầu của người khởi kiện và tài liệu, chứng
cứ kèm theo, nếu có trong thời hạn mười lăm
ngày kể từ ngày nhận được thông báo. Trong
trường hợp cần gia hạn thì người được thông
báo phải có đơn xin gia hạn gửi cho Tòa án
nêu rõ lý do; nếu việc xin gia hạn là có căn
cứ thì Tòa án phải gia hạn, nhưng không quá
mười lăm ngày3.
Như vậy, theo quy định trên thì hoàn
toàn có thể hiểu rằng bị đơn có quyền đưa ra
yêu cầu phản tố trong thời hạn mười lăm
ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của
Tòa án. Trong trường hợp gia hạn thì thời
gian được gia hạn là không quá mười lăm
ngày. Tóm lại, thời hạn tối đa để bị đơn phải
đưa ra yêu cầu phản tố là ba mươi ngày kể
từ ngày nhận được thông báo của Tòa án.
Quan điểm thứ hai cho rằng, bị đơn có
thể đưa ra yêu cầu phản tố trong suốt quá
trình giải quyết vụ án4.
“Quan điểm này dựa trên cơ sở quyền tự
định đoạt của đương sự trong quá trình giải
quyết vụ án”5. Như vậy, bị đơn có quyền đưa
ra yêu cầu phản tố ngay cả trong phiên tòa
xét xử sơ thẩm.
Tuy nhiên, quan điểm trên tạo nên bất
cập trong quá trình giải quyết vụ án. Bởi lẽ,
nếu bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố sau thời
điểm Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử
thì Tòa án buộc phải tạm hoãn phiên tòa và
tiến hành lại các thủ tục cần thiết như giao
nộp chứng cứ, thu thập chứng cứ, công bố
chứng cứ, hòa giải, dẫn đến vụ án sẽ bị
kéo dài thời hạn giải quyết, gây khó khăn
cho cơ quan tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó,
quyền của các đương sự khác sẽ không được
đảm bảo nếu thời hạn của yêu cầu phản tố
được hiểu như trên. Họ sẽ không chuẩn bị
kịp tài liệu, chứng cứ để chống lại yêu cầu
phản tố của bị đơn.
Quan điểm thứ ba cho rằng, bị đơn có
quyền đưa ra yêu cầu phản tố trong giai đoạn
Tòa án chuẩn bị xét xử sơ thẩm cho đến
trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra
xét xử sơ thẩm6.
Quan điểm này được chấp nhận rộng rãi
hơn vì nó phù hợp với các nguyên tắc cơ bản
của Bộ luật TTDS, hài hòa quyền và lợi ích
giữa nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu phản tố
và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
(NCQLNVLQ) có yêu cầu độc lập.
Trước những quan điểm trái chiều nêu
trên, Bộ luật TTDS năm 2004 đã được sửa
đổi, bổ sung năm 2011, đã quy định rõ về
thời điểm bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố, cụ
thể: “Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản
tố trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án
ra xét xử sơ thẩm”7.
Mặc dù đã có những sửa đổi, bổ sung
hoàn thiện quy định về yêu cầu phản tố của
bị đơn nhưng qua thực tiễn áp dụng Bộ luật
2 Khoản 1 Điều 176 Bộ luật TTDS năm 2004.
3 Khoản 1 Điều 175 Bộ luật TTDS năm 2004.
4 Nguyễn Minh Hằng, Hà Văn Nâu (2010), Yêu cầu phản tố và thời điểm thực hiện yêu cầu phản tố từ quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tạp chí Nghề luật, số 01, tr.44 – 45.
5 Nguyễn Văn Cường, Trần Anh Tuấn, Đặng Thanh Hoa (Chủ biên) và các tác giả khác (2012), Bình luận
khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, Nxb. Lao động – Xã hội, Hà Nội, tr.100.
6 Nguyễn Văn Cường, Trần Anh Tuấn, Đặng Thanh Hoa (Chủ biên) và các tác giả khác (2012), Bình luận
khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, Nxb. Lao động – Xã hội, Hà Nội, tr.100.
7 Khoản 3 Điều 176 Bộ luật TTDS năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011.
Số 14 (414) - T7/202050
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
TTDS năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung
2011 cũng đã dần bộc lộ những hạn chế nhất
định. Điển hình là bị đơn căn cứ vào quy
định trên để cố tình kéo dài quá trình giải
quyết vụ án bằng cách đưa ra yêu cầu phản
tố ngay trước khi Tòa án ra quyết định đưa
vụ án ra xét xử. Điều này ảnh hưởng đến thời
gian giải quyết vụ án như thời gian hòa giải,
thời gian thu thập chứng cứ và gây khó khăn
cho các đương sự khác trong việc phản đối
yêu cầu phản tố của bị đơn.
Để khắc phục bất cập trên, Bộ luật TTDS
năm 2015 đã thay đổi về thời điểm đưa ra yêu
cầu phản tố của bị đơn. Cụ thể, bị đơn có
quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm
mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp
cận, công khai chứng cứ và hòa giải8.
Để hiểu rõ hơn, chúng ta có thể tham
khảo pháp luật một số quốc gia và vùng lãnh
thổ trên thế giới có những quy định về thời
điểm bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố, cụ thể:
Luật TTDS Vương quốc Anh quy định:
Bị đơn có thể đưa ra yêu cầu phản tố đối với
nguyên đơn - (a) mà không có sự cho phép của
Tòa án nếu bị đơn nộp đơn bảo vệ; hoặc là (b)
bất cứ lúc nào với sự cho phép của Tòa án9.
Luật TTDS Nhật Bản quy định: Bị đơn
có thể nộp đơn phản tố lên Tòa án, nơi mà
có yêu cầu chính đang chờ xử lý cho đến khi
tranh luận bằng miệng có kết luận, nhưng chỉ
khi đối tượng của yêu cầu phản tố liên quan
đến yêu cầu chính hoặc liên quan đến bài
biện hộ10.
Luật TTDS Liên bang Hoa Kỳ quy định:
Trừ khi một thời điểm khác được quy định
bởi Luật này hoặc Quy chế liên bang, thời
gian để đưa phản tố phải đáp ứng như sau:
(A) Bị đơn phải gửi câu trả lời: (i) trong
vòng 21 ngày sau khi được gửi giấy triệu tập
và khiếu nại; hoặc là (ii) nếu câu trả lời kịp
thời từ bỏ sự tống đạt theo Quy tắc 4 (d),
trong vòng 60 ngày sau khi yêu cầu từ bỏ
được gửi, hoặc trong vòng 90 ngày sau khi
được gửi đến bị đơn bên ngoài bất kỳ khu
vực tư pháp nào của Hoa Kỳ11.
Luật TTDS Đài Loan quy định: Trước
khi kết thúc phần tranh luận, bị đơn có thể đưa
ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn và
những người liên quan đến yêu cầu phản tố12.
8 Khoản 3 Điều 200 Bộ luật TTDS năm 2015.
9 Part 20.4 of The Civil Procedure Rules of England: “A defendant may make a counterclaim against a
claimant – (a) without the court’s permission if he files it with his defence; or (b) at any other time with
the court’s permission)”; https://www.justice.gov.uk/courts/procedure-rules/civil/rules/part20, truy cập
ngày 11/08/2019.
10 Article 146 of Code of Civil Procedure of Japan: “(1) The defendant may file a counterclaim with the court
where the principal action is pending up until such time as oral arguments have reached a conclusion, but
only if the subject matter of the counterclaim is a claim with a bearing on the claim that is the subject
matter of the principal action or with a bearing on the means of defense”;
truy cập ngày 11/08/2019.
11 Rule 12 of Federal Rules of Civil Procedure in US: “(1) In General. Unless another time is specified by
this rule or a federal statute, the time for serving a responsive pleading is as follows:
(A) A defendant must serve an answer:
(i) within 21 days after being served with the summons and complaint; or
(ii) if it has timely waived service under Rule 4(d), within 60 days after the request for a waiver was sent,
or within 90 days after it was sent to the defendant outside any judicial district of the United States”;
https://www.uscourts.gov/sites/default/files/cv_rules_eff._dec._1_2018_0.pdf, truy cập ngày 11/08/2019.
12 Article 259 of Taiwan Code of Civil Procedure: “The defendant may, prior to the conclusion of the oral
argument, raise a counterclaim against the plaintiff and the persons with regard to whom the counterclaim
shall be adjudicated jointly in the court where the plaintiff’s claim is pending”;
https://law.moj.gov.tw/ENG/LawClass/LawAll.aspx?pcode=B0010001, truy cập ngày 08/09/2019.
51Số 14 (414) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
2. Thực tiễn xác định thời điểm thực hiện
quyền yêu cầu phản tố của bị đơn
Trong thực tiễn vẫn có nhiều quan điểm
khác nhau về thời điểm đưa ra yêu cầu phản
tố và dẫn đến cách giải quyết khác nhau.
Ví dụ: Vụ án ly hôn giữa nguyên đơn Lê
Hoàng Diệp Thảo và bị đơn Đặng Lê
Nguyên Vũ được Tòa án nhân dân Tp. Hồ
Chí Minh (TAND TP.HCM) giải quyết theo
Bản án số 291/2019/HNGĐ-ST ngày
27/03/201913.
Bà Lê Hoàng Diệp Thảo có đơn xin ly
hôn ngày 26/10/2015; đơn bổ sung đơn ly
hôn ngày 21/11/2015 và ngày 30/08/2017
với nội dung đề nghị Tòa án giải quyết cho
bà và ông Đặng Lê Nguyên Vũ được ly hôn,
về con chung thì bà yêu cầu là người trực
tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, ông Vũ phải cấp
dưỡng nuôi con và yêu cầu chia toàn bộ tài
sản chung được được tạo lập trong thời kỳ
hôn nhân.
Ngày 17/11/2015, TAND Tp. HCM ra
thông báo thụ lý vụ án số 499/HNST về việc
tranh chấp về hôn nhân và gia đình.
Đến ngày 21/06/2016, TAND Tp.HCM
ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử. Sau
đó, ngày 18/07/2016, ông Vũ đã có đơn yêu
cầu phản tố về việc đề nghị Tòa án xem xét,
quyết định phân chia tài sản là tiền Việt
Nam, các loại ngoại tệ, vàng là tài sản chung
của vợ chồng hiện bà Thảo đang nắm giữ,
gửi tại 4 ngân hàng ở Việt Nam, đề nghị
phân chia các tài sản là bất động sản ở trong
nước do bà Thảo đứng tên hoặc người khác
đứng tên, đề nghị chia số tiền chung của hai
vợ chồng trong 04 công ty hiện do bà Thảo
thành lập trong nước và nước ngoài từ tiền
chung của hai vợ chồng.
Từ các dữ liệu trên cho thấy, ngày
21/6/2016, Tòa án đã có quyết định đưa vụ
án ra xét xử nhưng sau đó ông Vũ lại có yêu
cầu phản tố ngày 18/07/2016 và Tòa án đã
thụ lý yêu cầu phản tố của bị đơn. Như vậy,
thời điểm ông Vũ đưa ra yêu cầu phản tố và
Tòa án thụ lý yêu cầu phản tố có phù hợp với
quy định pháp luật TTDS không? Nội dung
này sẽ được phân tích ở phần sau.
3. Các quan điểm về thời điểm bị đơn có
quyền yêu cầu phản tố
Mặc dù Bộ luật TTDS năm 2015 có quy
định về thời điểm đưa ra yêu cầu phản tố của
bị đơn. Tuy nhiên, hiện nay vẫn có cách hiểu
khác nhau đối với quy định này.
Cách hiểu thứ nhất: bị đơn có quyền
đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và hòa giải.
Quan điểm này được hiểu theo quy định
tại khoản 3 Điều 200 Bộ luật TTDS năm
2015. Cụ thể, bị đơn chỉ có quyền đưa ra yêu
cầu phản tố từ thời điểm Tòa án thông báo thụ
lý vụ án cho đến trước thời điểm mở phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và hòa giải. Nếu sau thời gian
này, Tòa án sẽ trả lại đơn yêu cầu phản tố.
Cách hiểu thứ hai: bị đơn được đưa ra
yêu cầu phản tố tại phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và
hòa giải.
Mặc dù khoản 3 Điều 200 Bộ luật TTDS
năm 2015 quy định bị đơn có quyền đưa ra
yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và hòa giải. Tuy nhiên, khoản
2 Điều 210 Bộ luật TTDS năm 2015 quy
định, Thẩm phán công bố tài liệu, chứng cứ
có trong hồ sơ vụ án, hỏi đương sự về những
vấn đề sau đây: “a) Yêu cầu và phạm vi khởi
kiện, việc sửa đổi, bổ sung, thay đổi, rút yêu
13 Bản án số 291/2019/HNGĐ-ST ngày 27/03/2019 của Tòa án nhân dân Tp. HCM về việc tranh chấp về
hôn nhân và gia đình.
Số 14 (414) - T7/202052
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc
lập, những vấn đề đã thống nhất, những vấn
đề chưa thống nhất yêu cầu Tòa án giải
quyết”. Do đó, có thể xác định thời điểm
cuối cùng bị đơn được đưa ra yêu cầu phản
tố là tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải14.
Cách hiểu thứ ba: việc quy định
“quyền” đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn
trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và
hòa giải không mang tính bắt buộc.
“Quyền” ở đây có nghĩa là bị đơn có thể
làm hoặc không làm những gì mà pháp luật
không cấm. Do đó, việc đưa ra hoặc không
đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và hòa giải là do bị đơn
tự quyết định (Điều 5 Bộ luật TTDS năm
2015 về quyền quyết định và tự định đoạt
của đương sự)15. Theo cách hiểu này, bị đơn
có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời
điểm mở phiên họp hoặc tại phiên họp hoặc
sau phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp
cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
Chúng tôi đồng tình với cách hiểu thứ
nhất. Bởi những lý do sau:
Thứ nhất, pháp luật đã minh thị rõ ràng
bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước
thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa
giải. Nếu bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố sau
thời điểm này thì Tòa án phải trả lại đơn yêu
cầu phản tố.
Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 210 Bộ luật
TTDS năm 2015 quy định, tại phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải, Thẩm phán hỏi bị đơn
về việc sửa đổi, bổ sung, thay đổi, rút yêu
cầu phản tố chứ không phải là hỏi bị đơn có
yêu cầu phản tố hay không như cách hiểu
của quan điểm thứ hai nêu trên. Do đó, cách
hiểu thứ hai là không đúng với bản chất quy
định của Bộ luật TTDS năm 2015.
Thứ hai, pháp luật đã trao “quyền” cho bị
đơn được đưa ra yêu cầu phản tố theo thời hạn
quy định tại khoản 3 Điều 200 Bộ luật TTDS
năm 2015. Nếu bị đơn không thực hiện quyền
đưa ra yêu cầu phản tố thì đồng nghĩa mặc
nhiên từ chối “quyền” của mình. Cũng giống
như trường hợp pháp luật TTDS cho phép
đương sự, người đại diện hợp pháp của đương
sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có
quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định
tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa
án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc
thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.
Nếu những chủ thể trên không thực hiện
quyền kháng cáo trong thời hạn quy định của
Điều 273 Bộ luật TTDS năm 2015 thì họ mặc
nhiên bị mất quyền kháng cáo.
Trong vụ án ly hôn giữa ông Đặng Lê
Nguyên Vũ và bà Lê Hoàng Diệp Thảo, Tòa
án vận dụng theo cách hiểu thứ nhất. Tuy
nhiên, vấn đề đặt ra là việc Tòa án áp dụng
luật có đúng hay không? Trong quá trình giải
quyết vụ án này cũng như tại phiên tòa xét
xử sơ thẩm, các đương sự, Viện kiểm sát và
Tòa án đã có những quan điểm khác nhau
như sau:
Quan điểm của nguyên đơn: Việc Tòa án
chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Vũ (ngày
18/07/2016) sau khi đã có quyết định đưa vụ
án ra xét xử (ngày 21/06/2016) là trái với
quy định của khoản 3 Điều 176 Bộ luật
14 https://tapchitoaan.vn/bai-viet/trao-doi-y-kien/thoi-diem-cuoi-cung-dua-ra-yeu-cau-phan-to-yeu-cau-doc-
lap, truy cập ngày 28/5/2020.
15 https://tapchitoaan.vn/bai-viet/xay-dung-phat-luat/ve-thoi-diem-bi-don-duoc-dua-ra-yeu-cau-phan-to, truy
cập ngày 28/5/2020.
53Số 14 (414) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
TTDS năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung
năm 201116. Bởi vì, theo quy định của khoản
3 Điều 176 Bộ luật TTDS năm 2004 đã được
sửa đổi, bổ sung năm 2011 thì bị đơn có
quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước khi Tòa
án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm.
Vì vậy, Tòa án phải trả lại đơn yêu cầu phản
tố. Theo quan điểm này, phía nguyên đơn
đang áp dụng những quy định của Bộ luật
TTDS năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2011.
Quan điểm của bị đơn: Tòa án đã thông
báo và bị đơn đã nộp tiền tạm ứng án phí
(ngày 05/9/2016) theo yêu cầu phản tố của
bị đơn. Tại phiên tòa ngày 27/3/2019, bị đơn
đối chiếu với Bộ luật TTDS năm 2015 thì bị
đơn phản tố và Tòa án thụ lý yêu cầu phản
tố của bị đơn là hoàn toàn phù hợp với quy
định của pháp luật. Theo quan điểm này, bị
đơn đang hiểu và áp dụng quy định của Bộ
luật TTDS năm 2015.
Quan điểm của Viện kiểm sát: Phía Viện
kiểm sát không có ý kiến về vấn đề thời
điểm đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn và
việc thụ lý yêu cầu phản tố của Tòa án trong
quá trình giải quyết vụ án.
Quan điểm của Tòa án: Tòa án cho rằng,
về thời điểm đưa yêu cầu phản tố của bị đơn
là phù hợp với quy định của pháp luật. Theo
nhận định của Tòa án, ngày 18/07/2016 phía
bị đơn ông Đặng Lê Nguyên Vũ có yêu cầu
phản tố đề nghị Tòa án xem xét. Ngày
30/08/2016, TAND Tp. HCM đã ra thông
báo nộp tiền tạm ứng án phí số 5881/TB-TA,
tại biên lai đóng tạm ứng án phí số
AA/2016/0031054 ngày 05/09/2016 tại Cục
thi hành án dân sự Tp. HCM, phía bị đơn đã
nộp đủ số tiền tạm ứng án phí là
1.310.487.347 đồng.
Tòa án đã căn cứ khoản 3 Điều 200 Bộ
luật TTDS năm 2015 để thụ lý yêu cầu phản
tố của bị đơn. Bởi vì, sau khi thụ lý yêu cầu
phản tố thì Tòa án tiến hành thủ tục mở
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và hòa giải. Như vậy,
Tòa án có cơ sở cho rằng việc thụ lý yêu cầu
phản tố của bị đơn là đúng với quy định của
Bộ luật TTDS năm 2015. Theo quan điểm
này, Tòa án đã áp dụng quy định của Bộ luật
TTDS năm 2015 để giải quyết vụ án.
Chúng tôi cho rằng, quan điểm của Tòa
án và bị đơn là không hợp lý vì lý do sau:
Thứ nhất, theo quy định của khoản 1
Điều 1 Nghị quyết 103/2015/QH13 ngày
25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành
Bộ luật TTDS, “đối với những vụ việc dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động đã được Tòa án thụ
lý trước ngày 01/7/2016, nhưng kể từ ngày
01/7/2016 mới giải quyết theo thủ tục sơ
thẩm thì áp dụng các quy định của Bộ luật
này để giải quyết”. Điều này đồng nghĩa
với việc, nếu vụ việc dân sự đã được Tòa
án thụ lý trước ngày 01/7/2016 và đang
được giải quyết theo thủ tục sơ thẩm trước
ngày 01/7/2016 thì Bộ luật TTDS năm
2004 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011 sẽ
được áp dụng.
Vụ án nêu trên đang được TAND Tp.
HCM giải quyết theo thủ tục sơ thẩm và đã
có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm
ngày 21/6/2016 (Trước ngày Bộ luật TTDS
năm 2015 có hiệu lực là ngày 01/7/2016).
Như vậy, căn cứ vào quy định trên thì Tòa
án phải áp dụng Bộ luật TTDS năm 2004 đã
được sửa đổi, bổ sung năm 2011 để giải
quyết vụ án.
Thứ hai, nếu áp dụng Bộ luật TTDS năm
16 Khoản 3 Điều 176 Bộ luật TTDS năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011: “Bị đơn có quyền đưa ra
yêu cầu phản tố trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm”.
Số 14 (414) - T7/202054
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
2004 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011 thì
Tòa án chỉ được thụ lý yêu cầu phản tố của
bị đơn khi yêu cầu phản tố được đưa ra trước
khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử
sơ thẩm.
Trong vụ án trên, bị đơn đã đưa ra yêu
cầu phản tố ngày 18/07/2016, sau ngày Tòa
án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm
(ngày 21/6/2016).
Do vậy, chúng tôi cho rằng, Tòa án phải
áp dụng Bộ luật TTDS năm 2004 đã được
sửa đổi, bổ sung năm 2011 để giải quyết vụ
án; đồng nghĩa với việc Tòa án phải trả lại
đơn yêu cầu phản tố vì lý do bị đơn đưa ra
yêu cầu phản tố sau thời điểm quy định của
khoản 3 Điều 176 Bộ luật TTDS năm 2004
đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011.
4. Nguyên nhân làm ảnh hưởng đến thời
điểm bị đơn thực hiện quyền yêu cầu
phản tố
Trong thực tiễn, vẫn còn một số khó
khăn, vướng mắc khi áp dụng quy định về
thời điểm đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn
bởi những quy định liên quan. Cụ thể:
Thứ nhất, sự xuất hiện của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ảnh hưởng đến
quyền yêu cầu phản tố của bị đơn.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 200 của
BLTTDS 2015 quy định: “Cùng với việc
phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của
mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn
có quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
có yêu cầu độc lập”.
Cụ thể, theo quy định của khoản 1 Điều
199 Bộ luật TTDS năm 2015, trong thời hạn
15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo về
việc thụ lý vụ án, bị đơn phải nộp văn bản
ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của
nguyên đơn, kèm theo yêu cầu phản tố (nếu
có). Như vậy, căn cứ vào quy định nêu trên
thì thời điểm bắt đầu thực hiện quyền phản
tố của bị đơn là ngay khi nhận được thông
báo của Tòa án về việc thụ lý vụ án. Tuy
nhiên, vào thời điểm này, bị đơn chỉ có thể
thực hiện được quyền phản tố đối với
nguyên đơn, hoàn toàn không thể yêu cầu bù
trừ nghĩa vụ hay loại trừ yêu cầu của người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Bởi vì nếu
trong đơn khởi kiện của nguyên đơn không
đề cập đến người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan thì trong nội dung của thông báo thụ lý
theo Điều 196 Bộ luật TTDS sẽ không có
thông tin về người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan.
Do đó, việc khoản 3 Điều 200 Bộ luật
TTDS năm 2015 quy định: “Bị đơn có quyền
đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và hòa giải” - được xem
là thời gian kết thúc việc thực hiện quyền
phản tố của bị đơn là khó khả thi và hạn chế
quyền yêu cầu phản tố của bị đơn. Nói cách
khác, tại phiên họp hoặc sau phiên họp kiểm
tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng
cứ và hòa giải thì không có quy định nào
minh thị cho phép bị đơn thực hiện quyền
phản tố.
Ngoài ra, theo quy định tại khoản 4 Điều
68 Bộ luật TTDS năm 2015, tư cách người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan sẽ xuất hiện
trong vụ án dân sự khi người đó tự mình đề
nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và
được Tòa án chấp nhận đưa vào tham gia tố
tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan.
Hoặc trường hợp việc giải quyết vụ án
dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ
của một người nào đó mà không có ai đề
nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư
cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia
tố tụng với tư cách là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan.
Như vậy, dựa vào quy định trên thì Tòa
án hoàn toàn có cơ sở để đưa người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia vụ án
55Số 14 (414) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
tại thời điểm đã mở phiên họp hoặc sau thời
điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
Vấn đề đặt ra là khi đó bị đơn có được quyền
đưa ra yêu cầu phản tố đối với người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không?
Chúng tôi cho rằng, về nguyên tắc, Tòa
án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải thì
bị đơn không có quyền đưa ra yêu cầu phản
tố. Tuy nhiên, trong trường hợp nêu trên thì
bị đơn vẫn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố
đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập.
Để việc áp dụng pháp luật về yêu cầu
phản tố trong vụ án dân sự được thống nhất
trong thực tiễn, thiết nghĩ cơ quan có thẩm
quyền cần có hướng dẫn hoặc giải đáp cụ thể
các vướng mắc nêu trên.
Thứ hai, số lần mở phiên họp kiểm tra
việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ
và hòa giải theo quy định của Bộ luật TTDS
năm 2015 có thể làm ảnh hưởng đến quyền
yêu cầu phản tố của bị đơn.
Bộ luật TTDS năm 2015 quy định, “bị
đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước
thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa
giải” là chưa chưa rõ ràng; bởi lẽ, quy định
này áp dụng cho trước thời điểm mở phiên
họp đầu tiên hay các phiên họp tiếp theo hay
phiên họp cuối cùng?
Bên cạnh đó, Bộ luật TTDS năm 2015
cũng chưa quy định cụ thể khi nào thẩm
phán tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và
hòa giải, cũng như không giới hạn số lần mở
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và hòa giải. Căn cứ vào
quy trình tố tụng, các phiên họp tiếp theo
không thể được gọi là phiên họp kiểm tra
việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
và hòa giải. Do đó, có nhiều cơ sở để cho
rằng, thời điểm bị đơn phản tố phải được
thực hiện trước khi mở phiên họp đầu tiên
theo thủ tục quy định tại Điều 210 Bộ luật
TTDS năm 2015. Nếu sau khi thụ lý vụ án
một thời gian ngắn, thẩm phán mở phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ thì thời gian để bị đơn cân nhắc,
tìm kiếm, thu thập tài liệu, chứng cứ và thực
hiện quyền yêu cầu phản tố sẽ bị hạn chế rất
nhiều. Trong khi đó, thực tế giải quyết các
tranh chấp dân sự cho thấy, chỉ sau khi tiếp
cận, công khai chứng cứ và hòa giải các
đương sự nói chung, bị đơn nói riêng mới có
đủ thông tin để quyết định việc có đưa ra yêu
cầu phản tố hay yêu cầu độc lập không. Điều
này vô hình trung làm ảnh hưởng đến quyền
yêu cầu phản tố của bị đơn.
Để khắc phục bất cập nêu trên, chúng tôi
cho rằng, Tòa án nhân dân tối cao cần ban
hành hướng dẫn cụ thể khi nào thẩm phán tiến
hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Để
đảm bảo quyền lợi của bị đơn, Thẩm phán
phải tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa
giải sau khi thực hiện các nhiệm vụ, quyền
hạn quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e và h
khoản 2 Điều 203 Bộ luật TTDS năm 2015.
Bên cạnh đó, để đảm bảo sự thống nhất
trong quá trình áp dụng pháp luật, Tòa án
nhân dân tối cao cũng cần hướng dẫn rõ nội
dung bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản
tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra
việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
và hòa giải đầu tiên hay cuối cùng. Vì đây
là nội dung quan trọng để Tòa án xác định
thụ lý hay không thụ lý yêu cầu phản tố của
bị đơn n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thoi_diem_thuc_hien_quyen_yeu_cau_phan_to_cua_bi_don_theo_qu.pdf