Thời gian sống còn và nguyên nhân tử vong ở bệnh nhân thận nhân tạo định kỳ tại bệnh viện Thống Nhất

Tỷ lệ tử vong cuối cùng của chúng tôi là 51% (biểu đồ 2) tương đương với Oliver T Browne (60%)(7). Phân tích nguyên nhân tử vong, chúng tôi ghi nhận biến chứng tim mạch là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở BN TNT định kỳ chiếm 46,1%. Kế đến là nguyên nhân nhiễm khuẩn (18,5%), trong đó viêm phổi là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu của BN lọc máu. Do vậy, cần đặt vấn đề phòng viêm phổi cho BN lọc máu tại Việt Nam. Một nguyên nhân khác cũng gây tử vong chiếm tỷ lệ tương tự nhiễm khuẩn là do suy kiệt cơ thể nặng thường gặp ở người già và dinh dưỡng kém. Có thể nói rằng suy dinh dưỡng và nhiễm khuẩn là 2 yếu tố cần phải được chú ý do thường đi kèm nhau gây tử vong. Tác giả Allan Collins tại Mỹ cũng ghi nhận biến chứng nhiễm khuẩn là nguyên nhân hàng thứ 2 nhập viện ở BN STMGĐC và trong đó viêm phổi là đứng đầu(1). Tại Hàn Quốc, Ji- Young Choi và cộng sự nghiên cứu trên 1060 BN lọc máu trong đó TNT có 736 BN, nhận thấy nguyên nhân tử vong do nhiễm khuẩn cũng chiếm tỷ lệ cao (29,2%)(6). Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với tác giả Oliver T Browne. Tác giả quan sát mô tả trên một nhóm BN ít hơn (94 BN) bắt đầu lọc máu gồm cả TNT và thẩm phân phúc mạc từ 2001/02 tại East Yorshire, thời gian trung bình theo dõi là 8,8 năm, kết quả cho thấy tỷ lệ tử vong chủ yếu là do bệnh lý mạch máu và nhiễm khuẩn huyết (71%) và giảm sau 10 năm còn lại 57%. Bệnh tim là nguyên nhân thường gặp nhất gây tử vong và 18% tử vong do lọc máu hoặc rút bỏ lọc máu (withdrawal). Nguyên nhân tử vong là do tim mạch chiếm 30% và nhiễm khuẩn huyết chiếm 27%(7]. Theo y văn, nguyên nhân tử vong thường gặp là biến chứng tim mạch (>50%), nhiễm khuẩn nặng (20%) và suy kiệt cơ thể nặng(5). Theo số liệu tại Anh năm 2009, nguyên nhân tử vong hàng đầu cũng là tim mạch (34%); nhiễm khuẩn 20%; rút lui 14%(2). Nghiên cứu của Uchida Kvà cộng sự cũng xác nhận nguyên nhân tử vong ở BN TNT định kỳ là tim mạch (52%); nhiễm khuẩn (25%); ung thư (12%)(11).

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 39 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thời gian sống còn và nguyên nhân tử vong ở bệnh nhân thận nhân tạo định kỳ tại bệnh viện Thống Nhất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học 367 THỜI GIAN SỐNG CÒN VÀ NGUYÊN NHÂN TỬ VONG Ở BỆNH NHÂN THẬN NHÂN TẠO ĐỊNH KỲ TẠI BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT Nguyễn Bách*, Vũ Thị Hoa* TÓM TẮT Mục tiêu: tìm hiểu thời gian sống còn và phân tích nguyên nhân tử vong ở bệnh nhân thận nhân tạo (TNT) định kỳ tại Bệnh viện Thống Nhất, TP HCM. Bệnh nhân và phương pháp nghiên cứu Bệnh nhân: 349 bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối được điều trị bằng TNT định kỳ ≥ 1 tháng tại BV Thống Nhất trong khoảng thời gian 4/1997- 12/2014. Phương pháp nghiên cứu: tiến cứu, mô tả và theo dõi dọc. Xử lý số liệu thống kê: Dựa theo các thuật toán thống kê y học và dùng máy vi tính với phần mềm SPSS 13.0. Kết quả: Thời gian sống còn của bệnh nhân TNT định kỳ trung bình là 4,05 năm. Tỷ lệ sống còn sau 1, 5 và 10 năm lần lượt là 85%, 58% và 20%. Phân tích đa biến Cox Proportional Hazards Model các yếu tố kết hợp thời gian sống còn gồm độ tuổi bắt đầu lọc máu ≥ 60; giới nam, có bệnh lý tim mạch kèm theo và đường mạch máu khó khăn có HR (CI 95% của HR) lần lượt là 0,496 (0,423-0,793); 0,580 (0,411-0,818); 0,579 (0,423-0,793); 0,423- 0,793 (0,310-0,689) với p<0,005. Các nguyên nhân chính gây tử vong ở bệnh nhân TNT: do biến chứng tim mạch (46,1%), nhiễm khuẩn (18,5%) và suy kiệt cơ thể (18,5%). Kết luận: Nghiên cứu 349 BN TNT định kỳ trong khoảng thời gian 1997-2014, tuổi trung bình 65,24±12,56, kết quả cho thấy thời gian sống còn bệnh nhân TNT ngắn (4,05 năm), tỷ lệ sống còn sau 5 năm tương đương với các nước. Tuy nhiên, tỷ lệ sống còn > 10 năm thấp chỉ đạt 20%. Nguyên nhân tử vong hàng đầu là tim mạch, kế đến là nhiễm khuẩn và suy kiệt cơ thể nặng. Từ khóa: thời gian sống còn, thận nhân tạo định kỳ, nguyên nhân tử vong. ABSTRACT SURVIVAL RATES AND CAUSE OF DEATH IN VIETNAMESE CHRONIC HEMODIALYSIS PATIENTS IN THONG NHAT HOSPITAL, HCM CITY Nguyen Bach, Vu Thi Hoa * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - No 4 - 2015: 367 - 373 Objectives: The aim of this study was to investigate survival rate and identifying causes of death of hemodialysis patients in Thong Nhat hospital, HCM city. Patients and methods: Patients: 349 adult chronic hemodialysis patients (aged > 15 years old, 225 male, 124 female) in Thong Nhat Hospital, HCM City were included during the period 4/1997- 12/2014. Methods: observational cohort study. Data analysis: SPSS 10.0 was used for analysis. Kaplan-Meier method was used. Log rank tests were used to explore the relationship with categorical independent variables. Results: Mean survival time was 4.05 years. One, five and ten year survival rates for the patient were 85%, 58% and 20%, respectively. Multivariate Analysis using Cox Proportional Hazards Model, the HR (95% Confidence Interval) for age group at the initiation of hemodialysis ≥ 60, male, coexisting conditions, exhausted * Khoa Thận- Lọc máu, Bệnh Viện Thống Nhất, TP HCM Tác giả liên lạc: TS.BS Nguyễn Bách ĐT: 0918209808 Email: nguyenbach69@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 368 vascular access was 0.496 (0.423-0.793); 0.580 (0.411-0.818); 0.579 (0.423-0.793); 0.423-0.793 (0.310-0.689), respectively, p<0.005. Causes of death in chronic hemodialysis were cardiovascular diseases (46.1%), infections (18.5%) and severe malnutrition (18.5%). Conclusions: Our data from this observational cohort study of 349 chronic hemodialysis patients with mean age 65,24±12,56 years during the period 1997-2014 in Thong Nhat Hospital, south of Vietnam showed that mean survival time was short (4.05 years), 5 year survival rate was similar with other countries. However, 10 year survival rate was very low, only 20%. The most common cause of death was cardiovascular complications, infection and severe malnutrition. Keywords: survival time, chronic hemodialysis, causes of death ĐẶT VẤN ĐỀ Thận nhân tạo được áp dụng điều trị suy thận mạn giai đoạn cuối rộng khắp tại Việt Nam khoảng chừng 30 năm nay. Đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào tổng kết một cách đầy đủ, khoa học về thời gian sống còn của bệnh nhân (BN) thận nhân tạo (TNT) định kỳ cũng như phân tích các nguyên nhân tử vong ở các BN này. Điều trị suy thận mạn giai đoạn cuối bằng TNT đã được áp dụng trên thế giới từ những năm 1950- 1960. Số liệu thống kê tại Mỹ, thời gian sống còn trung bình ở nam và nữ lần lượt là 7,2 và 7,1 năm(12). Tại Nhật Bản, thời gian sống còn sau 5, 10 và 15 năm lần lượt là 60,4%; 36,6% và 23%(10). Tại Hàn Quốc, tỷ lệ sống còn 5 năm ở nam và nữ lần lượt là 65,4% và 67,4%(3). Các nghiên cứu thống kê cho thấy có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến thời gian sống còn của BN TNT định kỳ như tuổi khởi đầu lọc máu, bệnh lý đi kèm, đái tháo đường, đường mạch máu, dinh dưỡngvà nguyên nhân tử vong thường gặp là biến chứng tim mạch (>50%), nhiễm khuẩn nặng (20%) và suy kiệt cơ thể nặng(5). BN TNT tại Việt Nam có nhiều điểm khác biệt so với các quốc gia khác trên thế giới về thời điểm vào chương trình lọc máu, chất lượng lọc máu và điều kiện kinh tế. Tất cả những yếu tố trên làm ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng điều trị, biến chứng và tỷ lệ tử vong. BN TNT tại bệnh viện Thống Nhất Tp HCM còn có nhiều đặc điểm khác biệt so với các trung tâm khác, đó là tuổi cao, có nhiều bệnh lý tim mạch kèm theo, đường mạch máu khó khăn, dinh dưỡng... Vì vậy, nghiên cứu xác định thời gian sống còn và phân tích nguyên nhân tử vong ở BN TNT định kỳ tại một cơ sở cụ thể có ý nghĩa rất quan trọng, giúp điều chỉnh lại thời điểm bắt đầu lọc máu, cải thiện chất lượng lọc máu và các điều trị nội khoa hỗ trợ khác để từ đó nâng cao chất lượng điều trị nhằm kéo dài thời gian sống còn của bệnh nhân TNT định kỳ. Tại Khoa Thận –Lọc máu chúng tôi đã thành lập dữ liệu lưu trữ bằng giấy cho BN lọc máu định kỳ từ năm 1997 và sau đó thông qua phần mềm quản lý hồ sơ của Bệnh Viện. Chúng tôi ghi nhận các thông tin của BN từ lúc bắt đầu vào lọc máu đến lúc tử vong. Chúng tôi thực hiện đề tài này với 2 mục tiêu nhằm tìm hiểu thời gian sống còn, xác định các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian sống còn và phân tích nguyên nhân tử vong ở bệnh nhân thận nhân tạo định kỳ. Bệnh nhân và phương pháp nghiên cứu Bệnh nhân 349 BN người lớn (>15 tuổi) suy thận mạn (STM) giai đoạn cuối được điều trị bằng TNT định kỳ tại Bệnh Viện Thống Nhất trong khoảng thời gian 4/1997- 12/2014. Tiêu chuẩn chọn bệnh: (1). STM được chỉ định điều trị ban đầu bằng TNT định kỳ và theo dõi liên tục tại BV Thống Nhất (2). Tuân thủ chế độ lọc máu và điều trị. Đủ dữ liệu nghiên cứu theo mẫu bệnh án nghiên cứu. (3). Thời gian lọc máu định kỳ ≥ 1 tháng Tiêu chuẩn loại trừ: (1) suy thận cấp hoặc đợt cấp STM, (2) BN TNT định kỳ nhưng được lọc máu tại bệnh viện khác. (3) không có đủ điều kiện kinh tế lọc máu lâu dài. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học 369 Phương pháp nghiên cứu Tiến cứu, mô tả và theo dõi dọc. Chỉ định TNT định kỳ: suy thận mạn độ 5 có hệ số thanh thải creatinin huyết thanh < 10 ml/phút ở BN không có tiểu đường và < 15 ml/phút ở BN có tiểu đường. Đường mạch máu dùng trong TNT: cầu nối động tĩnh mạch vị trí cổ tay là chọn lựa hàng đầu. Kế đến là sử dụng ống ghép hoặc catheter có đường hầm tùy từng trường hợp cụ thể. Nguyên nhân STM: khảo sát các nguyên nhân đái tháo đường (ĐTĐ), tăng huyết áp (THA), bệnh lý cầu thận và nguyên nhân khác. Tuổi khởi đầu TNT: tính đến thời điểm vào TNT bằng năm. Phân các mức tuổi 60, 65, 70, 75 và 80 tuổi. Mốc người cao tuổi: ≥ 60 tuổi. Thời gian sống còn BN TNT: được tính bằng năm và từ lúc bắt đầu TNT đến lúc tử vong hoặc đến lúc chuyển trung tâm khác hoặc chuyển sang ghép thận, thẩm phân phúc mạc hoặc tính đến 12/2014. Bệnh nội khoa kèm theo: khảo sát các bệnh lý tim mạch như suy tim, nhồi máu cơ tim cũ, bệnh mạch vành, ung thư, hen phế quản, viêm khớp. Nguyên nhân tử vong: phân loại theo 05 nhóm biến chứng (1) tim mạch (bệnh lý tim mạch, tai biến mạch não); (2) bệnh lý nhiễm khuẩn với tiểu điểm từ phổi, hệ tiêu hóa, hệ tiết niệu, không rõ; (3) suy kiệt cơ thể nặng; (4) các nguyên nhân khác; (5) không rõ nguyên nhân. Chẩn đoán các nhóm nguyên nhân này dựa vào hồ sơ bệnh án lúc nhập viện nội trú và đặc điểm diễn tiến của bệnh khi tử vong tại nhà. Xử lý số liệu thống kê Dựa theo các thuật toán thống kê y học và dùng máy vi tính với phần mềm SPSS 13.0. Phân tích đa biến Cox Proportional Hazards Model các yếu tố kết hợp thời gian sống còn. Phân tích đơn biến các yếu tố kết hợp tử vong giữa nhóm bệnh nhân sống và tử vong. Phân tích hồi quy đa biến các yếu tố kết hợp tử vong. KẾT QUẢ Bảng 1. Một số đặc điểm bệnh nhân trong nghiên cứu (n=349) Đặc điểm Số BN(%)/ (±SD) Tuổi bắt đầu TNT 65,24±12,56 (22-96) Độ tuổi khi bắt đầu TNT - <60 85(24,4) 60-69 129 (37) 70-79 97 (27,8) ≥80 38 (77,55) Giới nam, n (%) 225 (64,5) Nguyên nhân suy thận mạn - Đái tháo đường 153 (43,8) - Tăng huyết áp 109 (31,2) - Viêm cầu thận mạn 35 (10) Khác và không rõ nguyên nhân 52 (14,9) Bệnh lý kết hợp* 180 (51,6) Các bệnh lý tim mạch 109 (31,2) Khác 71 (2,4) Chuyển về địa phương lọc máu 37 (10,6) Sa sút trí tuệ 13 (3,7) Đường mạch máu Cầu nối động tĩnh mạch (AVF)- 289(82,8) Ống ghép (AVG) 35(10) - Catheter đường hầm 17 (4,9) - Kết hợp các phương pháp trên 8 (2,3) Chuyển ghép thận 8 (2,3) Chuyển sang thẩm phân phúc mạc 14 (4,0) * Các bệnh lý tim mạch (nhồi máu cơ tim cũ, suy tim, tai biến mạch não cũ, phình động mạch chủ - ngực, van tim BMV đã đặt stent), xơ gan, K, lao, Loét dạ dày, sa sút trí tuệ, bệnh về máu, hen phế quản. Survival Function at mean of covariates Thoi gian song con 160140120100806040200-20 C u m S u rv iv a l 1.2 1.0 .8 .6 .4 .2 0.0 Thời gian sống còn trung bình: 4,05 năm Biểu đồ 1. Thời gian sống còn của bệnh nhân thận nhân tạo định kỳ Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 370 Bảng 2. Ảnh hưởng các yếu tố đến thời gian sống còn Yếu tố Thời gian sống còn trung bình (năm) χ2* p Độ tuổi bắt đầu lọc máu ≥ 60 3,64 11,49 0,000 < 60 8,27 6 7 Đái tháo đường Có 3,53 2,754 0,097 Không 4,62 Giới tính Nam 3,74 4,821 0,028 Nữ 5,07 Bệnh lý kết hợp Có 3,37 13,89 0,000 Không 6,01 6 2 Đường mạch máu dùng thận nhân tạo Cầu nối động tĩnh mạch 4,47 87,1 0,003 Ống ghép, catheter đường hầm 2,82 0 2 * Kiểm định Log-Rank Bảng 3. Phân tích đa biến Cox Proportional Hazards Model các yếu tố kết hợp thời gian sống còn Yếu tố B SE χ2 p Hazard Ratio CI 95% của HR Tuổi bắt đầu lọc máu ≥ 60 -0,701 0,210 11,080 0,001 0,496 0,423-0,793 Giới nam -0,545 0,176 9,626 0,002 0,580 0,411-0,818 Có bệnh lý kết hợp -0,546 0,161 11,578 0,001 0,579 0,423-0,793 Đường mạch máu dùng ống ghép, catheter đường hầm -0,772 0,204 14,374 0,000 0,462 0,310-0,689 51 2.3 0 10 20 30 40 50 60 Tử vong Tử vong trong - sau lọc Biểu đồ 2. Tỷ lệ tử vong do tất cả nguyên nhân và tử vong trong- ngay sau lọc máu Bảng 4. Nguyên nhân tử vong ở bệnh nhân thận nhân tạo (n=178) Nguyên nhân tử vong Số BN Tỷ lệ % Biến chứng tim mạch 82 46,1 - Bệnh lý tim mạch. 39 21,9 - Tai biến mạch não 43 24,2 Nhiễm khuẩn 33 18,5 - Phổi 16 - Tiêu hóa 6 - Tiết niệu 3 - Khác 8 Suy kiệt cơ thể nặng 33 18,5 Các nguyên nhân khác* 21 11,8 Không rõ nguyên nhân 9 5,1 * Ung thư, lao, xơ gan, tai nạn giao thông Bảng 5. Phân tích đơn biến các yếu tố kết hợp tử vong giữa nhóm bệnh nhân sống và tử vong Yếu tố khảo sát Sống (n=171) Tử vong (n=178) p Giới nam, n(%) 98(57,31) 127(71,35) 0,004 Đái tháo đường, n(%) 74(43,27) 79(44,38) 0,460 Tuổi bắt đầu vào lọc máu trung bình (±SD) 61,74±13,68 68,61±10,12 0,000 Độ tuổi lúc bắt đầu vào TNT <60 55(32,16) 30(23,62) 0,002 60-69 64(37,43) 65(36,52) 70-79 39(22,81) 58(32,58) ≥80 13(7,6) 27(15,16) Có bệnh kèm theo, n(%) 62(36,26) 118(66,29) 0,000 Bảng 6. Phân tích hồi quy đa biến các yếu tố kết hợp tử vong Yếu tố B SE χ2 P Hazard Ratio CI 95% của HR Tuổi ≥ 60 -0,337 0,124 7,390 0,007 0,714 0,560-0,910 Giới nam -0,536 0,240 5,498 0,019 0,570 0,356-0,912 Có bệnh lý khác kết hợp -1,142 0,230 24,554 0,000 0,319 0,230-0,510 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học 371 BÀN LUẬN Nghiên cứu này cho thấy thời gian sống còn BN ngắn 4,05 năm. Thời gian sống còn trung bình sau 1, 5 và 10 năm lần lượt là 85%, 58% và 20%. Có 4 yếu tố ảnh hưởng đến thời gian sống còn là độ tuổi bắt đầu lọc máu, giới tính, có bệnh lý khác kết hợp và đường mạch máu. Các nguyên nhân tử vong ở BN TNT định kỳ theo thứ tự thường gặp là biến chứng tim mạch (nhồi máu cơ tim, suy tim nặng, tai biến mạch não), nhiễm khuẩn nặng (tiêu điểm thường từ phổi, đường tiêu hóa) và suy kiệt cơ thể nặng. Các yếu tố kết hợp tử vong gồm tuổi bắt đầu lọc máu ≥ 60, giới tính nam và có bệnh lý khác kết hợp. Tìm hiểu thời gian sống còn qua các báo cáo ở các quốc gia khác nhau chúng tôi nhận thấy thời gian sống còn rất khác nhau giữa các quốc gia, các trung tâm lọc máu. Thời gian sống còn ở BN chúng tôi cao hơn do với Sawhney S. Tác giả này nghiên cứu trên 3372 BN lọc máu ở Scotland và 3927 BN ở Bristish Columbia thấy thời gian sống trung bình ở BN lọc máu lần lượt là 38 (35-40) tháng ở Scotland và 44 (42-47) tháng Bristish Columbia(8). Seyed Seifollah Beladi Mousavi nghiên cứu 148 BN ở Iran tuổi lúc bắt đầu TNT là còn trẻ 54,1 ±17 nhưng tỷ lệ sống còn sau 1, 2 và 3 năm của BN TNT lần lượt chỉ đạt 65%; 51% và 35%(9). Tuy nhiên, so với số liệu của các tác giả ở các quốc gia phát triển khác chúng tôi nhận thấy thời gian sống còn trong nghiên cứu này thấp hơn. Thí dụ, số liệu thống kê tại Mỹ, thời gian sống còn trung bình ở nam và nữ lần lượt là 7,2 và 7,1 năm(12). Số liệu tại Anh, thời gian sống còn trung bình là <6 năm(5). Kết quả phân tích thời gian sống còn ở biểu đồ 1 cho thấy tỷ lệ sống còn sau 5, 10 năm chỉ 58%, 20%. Trong khi đó, tại Nhật Bản tỷ lệ sống còn sau 5, 10 năm và 15 năm lần lượt là 60,4%; 36,6% và 23%(10). Tại Hàn Quốc, thời gian sống còn sau 1 và 5 năm lần lượt là 94% và 66%(3). Iseki K và cộng sự nghiên cứu trên 229.538 BN lọc máu năm 2002, kết quả cho thấy tỷ lệ sống còn sau 1 năm 87,4%; sau 5 năm 60,9% và sau 10 năm là 39,1%(4). Số liệu về thời gian sống còn tại Anh báo cáo năm 2007 tỷ lệ sống còn sau 1 năm là 85,9% (năm 1997) và tăng lên 91,5% (năm 2006). Tính riêng BN >=65 tuổi, số liệu cho thấy tỷ lệ sống còn sau 1 năm 63,8% (1997) và 72,9% (2006)(2). Như vậy, bằng cách so sánh số liệu ở các nước Nhật Bản, Anh Quốc, Mỹ và Hàn quốc cho thấy tỷ lệ sống còn của BN TNT định kỳ sau 5 năm của chúng tôi tương đương với các nước này nhưng tỷ lệ sống còn sau 10 năm thì thấp hơn nhiều. Kết quả này cho thấy rằng để tăng tỷ lệ sống còn của BN TNT định kỳ tại trung tâm chúng tôi cần tập trung vào nhóm BN TNT định kỳ có thời gian lọc máu > 5 năm. Chúng tôi cho rằng có 4 nguyên nhân ảnh hưởng thời gian sống còn ngắn ở BN chúng tôi. Thứ nhất, về độ tuổi trung bình lúc khởi đầu lọc máu của BN cao, đây là một yếu tố quan trọng nhất. Tuổi lúc vào lọc máu trong nghiên cứu này khá cao 65,24 ± 12,56 (22-96) với khoảng 80% là > 60 tuổi. Tuổi trung bình lúc khởi đầu lọc máu của tác giả Ji- Young Choi và cộng sự tại Hàn Quốc(6), Oliver T Browne(7) thấp hơn chúng tôi lần lượt là 58,1 ± 14; 63 ± 1. Theo một nghiên cứu khác tại Hàn Quốc, tuổi trung bình của bệnh nhân lọc máu là 57,3 ± 13,8 năm và 33,8% BN >65 years(3). Số liệu tại Anh cũng chứng minh yếu tố tuổi là rất quan trọng: tỷ lệ sống còn 5 năm ở các độ tuổi vào lọc máu 18-34, 45-54, 65-74 và >75 lần lượt là > 90%, 70%, 30% và < 20%(5). Tương tự, Uchida K và cộng sự nghiên cứu 454 BN có tuổi trung bình cao (61,7 ± 14,4) với 46,6% có đái tháo đường cho thấy tỷ lệ sống còn sau 3 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 372 năm chỉ đạt 65%(11). Kết quả phân tích đa biến Cox Proportional Hazards Model các yếu tố kết hợp thời gian sống còn ở Bảng 2 và 3 cho thấy tuổi > 60 là yếu tố kết hợp với tử vong. Thứ 2, yếu tố có bệnh lý kèm theo rất thường gặp ở NCT, đặc biệt là các bệnh lý ảnh hưởng đến yếu tố tuổi thọ của BN như bệnh lý tim mạch, xơ gan. (bảng 2 và 3). Yếu tố này cũng được ghi nhận là rất quan trọng trong các nghiên cứu của các tác giả nêu trên. Thứ 3, có thể do vào lọc máu trễ với nhiều biến chứng suy tim và cuối cùng không kém phần quan trọng là do chính chất lượng lọc máu khi mà chi phí cho ca lọc máu quá thấp. Ngoài ra, kết quả ở bảng 2,3 chúng tôi còn ghi nhận yếu tố BN bị kiệt các đường mạch máu phải dùng ống ghép, có lẽ có liên quan với yếu tố độ tuổi và bệnh lý kèm theo suy tim, tiểu đường. Riêng yếu tố đái tháo đường chúng tôi ghi nhận thời gian sống còn ở BN có tiểu đường ngắn hơn ở người không có tiểu đường, nhưng sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thống kê, cần nghiên cứu trên mẫu lớn hơn. Tỷ lệ tử vong cuối cùng của chúng tôi là 51% (biểu đồ 2) tương đương với Oliver T Browne (60%)(7). Phân tích nguyên nhân tử vong, chúng tôi ghi nhận biến chứng tim mạch là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở BN TNT định kỳ chiếm 46,1%. Kế đến là nguyên nhân nhiễm khuẩn (18,5%), trong đó viêm phổi là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu của BN lọc máu. Do vậy, cần đặt vấn đề phòng viêm phổi cho BN lọc máu tại Việt Nam. Một nguyên nhân khác cũng gây tử vong chiếm tỷ lệ tương tự nhiễm khuẩn là do suy kiệt cơ thể nặng thường gặp ở người già và dinh dưỡng kém. Có thể nói rằng suy dinh dưỡng và nhiễm khuẩn là 2 yếu tố cần phải được chú ý do thường đi kèm nhau gây tử vong. Tác giả Allan Collins tại Mỹ cũng ghi nhận biến chứng nhiễm khuẩn là nguyên nhân hàng thứ 2 nhập viện ở BN STMGĐC và trong đó viêm phổi là đứng đầu(1). Tại Hàn Quốc, Ji- Young Choi và cộng sự nghiên cứu trên 1060 BN lọc máu trong đó TNT có 736 BN, nhận thấy nguyên nhân tử vong do nhiễm khuẩn cũng chiếm tỷ lệ cao (29,2%)(6). Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với tác giả Oliver T Browne. Tác giả quan sát mô tả trên một nhóm BN ít hơn (94 BN) bắt đầu lọc máu gồm cả TNT và thẩm phân phúc mạc từ 2001/02 tại East Yorshire, thời gian trung bình theo dõi là 8,8 năm, kết quả cho thấy tỷ lệ tử vong chủ yếu là do bệnh lý mạch máu và nhiễm khuẩn huyết (71%) và giảm sau 10 năm còn lại 57%. Bệnh tim là nguyên nhân thường gặp nhất gây tử vong và 18% tử vong do lọc máu hoặc rút bỏ lọc máu (withdrawal). Nguyên nhân tử vong là do tim mạch chiếm 30% và nhiễm khuẩn huyết chiếm 27%(7]. Theo y văn, nguyên nhân tử vong thường gặp là biến chứng tim mạch (>50%), nhiễm khuẩn nặng (20%) và suy kiệt cơ thể nặng(5). Theo số liệu tại Anh năm 2009, nguyên nhân tử vong hàng đầu cũng là tim mạch (34%); nhiễm khuẩn 20%; rút lui 14%(2). Nghiên cứu của Uchida Kvà cộng sự cũng xác nhận nguyên nhân tử vong ở BN TNT định kỳ là tim mạch (52%); nhiễm khuẩn (25%); ung thư (12%)(11). KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 349 BN TNT định kỳ trong khoảng thời gian 1997-2014 có tuổi trung bình cao 65,24±12,56 tại Bệnh Viện Thống Nhất TP HCM, kết quả cho thấy thời gian sống còn BN TNT ngắn (4,05 năm), tỷ lệ sống còn sau 5 năm tương đương với các nước. Tuy nhiên, tỷ lệ sống còn > 10 năm thấp chỉ đạt 20%. Tuổi vào lọc máu cao ≥ 65 tuổi và kiệt các đường mạch máu không thể mổ FAV là các yếu tố kết hợp với thời gian Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học 373 sống còn ngắn. Tỷ lệ tử vong do tất cả các nguyên nhân cao (51%). Nguyên nhân tử vong hàng đầu là tim mạch, kế đến là nhiễm khuẩn và suy kiệt cơ thể nặng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Allan Collins, Robert N. Foley, David T. Gilbertson (2009). The state of chronic kidney disease, ESRD and morbidity and mortality in the first year of dialysis. Clin J Am Soc Nephrol 4: S5-11 2. Ansell D, Roderick P, Hodsman A, Ford D, Steenkamp R, Tomson C. UK Renal Registry 11th Annual Report (December 2008): Chapter 7 Survival and causes of death of UK adult patients on renal replacement therapy in 2007: national and centre- specific analyses. Nephron Clin Pract. 2009;111 Suppl 1:c113- 39 3. Dong Chan Jin. Current status of Dialysis Therapy in Korea. Korean J Intern Med 2011; 26: 123-131. 4. Iseki K, Shinzato T, Nagura Y, Akiba T. Factors influencing long-term survival in patients on chronic dialysis. Clin Exp Nephrol. 2004 Jun;8(2):89-97. 5. Jeremy Levy, Edwina Brown, Christine Daley, Anastasia Lawrence (2009). Death in dialysis patient. Principles of dialysis. Oxford Handbook of Dialysis. 3th Edition, pp 566- 568. Oxford Press. 6. Ji- Young Choi, Hye Min Jang, Jongha Park (2013). Survival advantage of peritoneal dialysis relative to hemodialysis in the early period of incident dialysis patients: A nationawide prospective propensity-matched study in Korea. Vol 8, Issue 12, Dec 2013. PLOS one/ www.plosone.org 7. Oliver T Browne, Victoria Allgar and Sunil Bhandari (2014). Analysis of factors predicting mortality of new patients commencing renal replacement therapy 10 years of follow-up. BMC Nephrology 2014,15-20 8. Sawhney S, Djurdjev O, Simpson K, Macleod A, Levin A. Survival and dialysis initiation: comparing British Columbia and Scotland registries. Nephrol Dial Transplant. 2009 Oct;24(10):3186-92 9. Seyed Seifollah Beladi Mousavi, Fatemeh Hayati, , Ehsan Valavi, Fazlollah Rekabi; Marzieh Beladi Mousavi. Comparison of Survival in Patients with End-Stage Renal Disease. Receiving Hemodialysis versus Peritoneal Dialysis. Saudi J Kidney Dis Transpl 2015;26(2):392-397 10. The Japanese Society for Dialysis Therapy (2011). Survival rate of chronic hemodialysis in Japan. Journal of the JSDT 44(1): 1- 36. 11. Uchida K, Shoda J, Sugahara S et al. Comparision and survival of patients receiving hemodialysis and peritoneal dialysis in a single center. Adv Perit Dial 2007; 23; 144-149 12. United States Renal Data system (USRDS) Coordinating Center(2008). Annual report of United States data system [Internet]. Lifetimes in the 2008 report. Available from: Ngày nhận bài báo: 13/05/2015 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/06/2015 Ngày bài báo được đăng: 05/08/2015

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthoi_gian_song_con_va_nguyen_nhan_tu_vong_o_benh_nhan_than_n.pdf
Tài liệu liên quan