KẾT LUẬN
Việc giữ thuốc tại nhà nhưng không sử dụng đến khá
phổ biến ở sinh viên, chủ yếu là các loại thuốc không
kê đơn chữa các bệnh thông thường như cảm cúm,
giảm đau, tiêu hóa. Loại thuốc kê đơn được giữ nhiều
nhất là thuốc kháng sinh, nhiễm khuẩn. Lý do chủ
yếu của việc có thuốc dư tại nhà là do người sử dụng
ngưng sử dụng thuốc khi cảm thấy khỏi bệnh. Đối với
thuốc hết hạn sử dụng, 80% sinh viên tham gia khảo
sát lựa chọn cách vứt bỏ. Đối với thuốc còn hạn sử
dụng nhưng không cần dùng đến nữa, 70% số sinh
viên chọn giữ lại, 20% sinh viên chọn cách vứt bỏ
và có 15% số sinh viên đem thuốc còn hạn sử dụng
cho người khác sử dụng. 84% người tham gia khảo
sát xem thuốc hết hạn sử dụng hoặc thuốc dư không
cần sử dụng nữa là chất thải rắn sinh hoạt và vứt bỏ
vào thùng rác hoặc đốt cùng rác sinh hoạt. Như vậy,
điểm đến của thuốc tây hết hạn sử dụng sẽ là các bãi
chôn lấp và khả năng cao thành phần dược chất trong
nước rỉ rác từ các bãi chôn lấp sẽ ảnh hưởng đến nước
ngầm khu vực bãi chôn lấp. thông tin hướng dẫn hay
quy định nào liên quan đến việc thải bỏ thuốc dư thừa
cho hộ gia đình ở Việt Nam là chưa có. Có hơn 80%
sinh viên tham gia khảo sát cho rằng việc ban hành
hướng dẫn cũng như lập các điểm thu hồi thuốc tại
bệnh viện, nhà thuốc là cần thiết. Hiện nay, quy định
thu hồi thuốc hết hạn và thuốc không sử dụng chỉ mới
được áp dụng cho các nhà thuốc và các đơn vị y tế,
và chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nào cho các hộ
gia đình. Do đó, sẽ có hai rủi ro chính liên quan đến
việc thải bỏ thuốc thuốc hết hạn và thuốc không dùng
đến nữa. Đầu tiên là việc sử dụng nhầm lẫn thuốc có
thể gây nguy hiểm đến sức khoẻ thậm chí dẫn đến tử
vong, đặc biệt là với người lớn tuổi và trẻ nhỏ. Rủi
ro thứ hai liên quan đến khả năng chất thải có dược
tính đi vào nguồn nước. Điều này có thể được cho là
ít quan trọng hơn vì không gây những ảnh hưởng trực
tiếp đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, những ảnh
hưởng lâu dài của dược chất trong môi trường nước
đối với hệ sinh thái vẫn đang được nghiên cứu.
Hạn chế của nghiên cứu này là chỉ mới khảo sát đối
tượng người sử dụng là sinh viên ở độ tuổi từ 18-
24 chủ yếu đang sống tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Những khảo sát tiếp theo cho đối tượng người lớn
tuổi hơn, người sống ở các khu vực nông thôn, ngoại
ô sẽ bổ sung thêm cho các kết quả nghiên cứu này.
Ngoài ra, 3 nhóm đối tượng có liên quan cần thực hiện
khảo sát thu thập thông tin là các nhà thuốc tây, phòng
khám và Cơ quan quản lý Nhà nước (Sở Y tế, Trung
tâm Y tế Quận/Huyện) nhằm đề xuất các phương án
thu gom và xử lý an toàn đối với thuốc tây không được
sử dụng và thuốc hết hạn sử dụng.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thói quen thải bỏ thuốc tây: kết quả khảo sát sinh viên trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 4(SI):SI32-SI40
Open Access Full Text Article Bài nghiên cứu
1Khoa Môi Trường, Trường Đại học
Khoa học Tự nhiên
2Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh
3Department of Human Centered
Engineering, Ochanomizu University,
Tokyo, Japan
Liên hệ
Đỗ Thị Thuỳ Quyên, Khoa Môi Trường,
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Department of Human Centered
Engineering, Ochanomizu University, Tokyo,
Japan
Email: dttquyen@hcmus.edu.vn
Lịch sử
Ngày nhận: 31/7/2020
Ngày chấp nhận: 25/11/2020
Ngày đăng: xx/12/2020
DOI : 10.32508/stdjns.v4i1.989
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Thói quen thải bỏ thuốc tây: kết quả khảo sát sinh viên Trường Đại
học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Đỗ Thị Thuỳ Quyên1,2,3,*, Trần HoàngMinh1,2, Phan Thị Mỹ Xuyên1,2, Nguyễn Thảo Nguyên1,2
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
TÓM TẮT
Thuốc tây sau khi sử dụng và còn thừa được giữ tại nhà có thể được sử dụng lại cho các lần bị bệnh
sau sẽ gây nguy hiểm đến sức khỏe, đặc biệt là người lớn tuổi và trẻ nhỏ. Hiện nay, Việt Nam chưa
có quy định và hướng dẫn về việc thu gom và thải bỏ thuốc hết hạn/ thuốc dư thừa tại các hộ gia
đình. Báo cáo về cách thức người sử dụng thải bỏ thuốc không còn sử dụng cũng chưa được thực
hiện. Nghiên cứu này được thực hiện để tìm hiểu thói quen thải bỏ thuốc tây của đối tượng sinh
viên, cụ thể là sinh viên Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Tp. HCM. Khảo sát
được thực hiện trong tháng 3 năm 2020, sử dụng công cụ google form và tiến hành theo phương
pháp "snowball" trênmạng xã hội. Kết quả khảo sát 525 sinh viên cho thấy 73,5% số sinh viên tham
gia khảo sát có giữ ít nhất một loại thuốc không kê đơn tại nhà và không dùng đến trong khi chỉ
có 36,5% số sinh viên giữ thuốc kê đơn tại nhà. Loại thuốc được giữ tại nhà nhiều nhất là thuốc
giảm đau hạ sốt (nhóm không kê đơn) và thuốc kháng sinh (nhóm kê đơn). Đối với thuốc hết hạn
sử dụng, hơn 80% sinh viên cho biết sẽ vứt bỏ, gần 10% giữ lại không vứt bỏ, khoảng 5% cho biết
đem trả lại nhà thuốc. Đối với thuốc còn hạn nhưng không sử dụng nữa, 70% người tham gia khảo
sát chọn phương án giữ lại, 20% trả lời sẽ thải bỏ và 15% cho biết sẽ cho người khác sử dụng. Cách
vứt bỏ thuốc phổ biến nhất của sinh viên là bỏ cùng rác sinh hoạt gia đình với 84% vứt vào thùng
rác sinh hoạt và 8% đốt cùng rác sinh hoạt. Việc thải bỏ như rác thải sinh hoạt có nguy cơ ô nhiễm
nước ngầm từ nước rỉ rác tại các bãi chôn lấp. Gần 80% sinh viên tham gia khảo sát cho rằng việc
ban hành và phổ biến hướng dẫn thải bỏ thuốc và lập các điểm thu gom tại bệnh viện, nhà thuốc
là cần thiết. Nghiên cứu có đề xuất phương thức xử lý thuốc tây hết hạn/không sử dụng nữa tại hộ
gia đình và đề xuất các cơ quan quản lý cần sớm có những quy định và hướng dẫn cho loại chất
thải đặc biệt này.
Từ khoá: thói quen vứt bỏ thuốc tây, dược phẩm, quá hạn sử dụng, không sử dụng
GIỚI THIỆU
Theo thống kê năm 2018 của BMI Research, thị
trường ngành dược Việt Nam đạt giá trị 5,9 tỉ USD và
là thị trường lớn thứ hai tại Đông Nam Á 1. Với dân
số 96,2 triệu người, Việt Nam là quốc gia đông dân
thứ ba trong khu vực Đông Nam Á và thứ 15 trên thế
giới. Tuy Việt Nam đang ở trong thời kỳ cơ cấu dân số
vàng nhưng tốc độ già hóa dân số đang tăng nhanh, từ
35,9% năm 2009 lên 48,8% năm 20192. Dân số tăng
kèm theo tốc độ già hóa tăng làm cho nhu cầu sử dụng
dược phẩm ngày càng tăng. Đi kèm với việc sử dụng
thì chất thải từ dược phẩm cũng là vấn đề cần được
quan tâm. Khi giữ các loại thuốc tại nhà nhưng không
dùng đến, nếu các thành viên khác trong gia đình, đặc
biệt là trẻ em và người già sơ ý sử dụng nhầm lẫn thì
có thể ảnh hưởng đến sức khỏe thậm chí tính mạng
người dùng. Do đó, đối với các loại thuốc đã hết hạn
hoặc không còn sử dụng nữa, việc thải bỏ thuốc là cần
thiết để tránh trường hợp sử dụng sai mục đích hoặc
nhầm lẫn thuốc. Bên cạnh vấn đề sự an toàn khi sử
dụng thuốc, việc thải bỏ thuốc còn có khả năng đưa
các thành phần dược chất vào môi trường nước. Gần
đây nhiều nghiên cứu trên thế giới đã phát hiện rất
nhiều thành phần dược chất trong nước mặt, nước
ngầm ở nồng độ rất nhỏ từ ng/L đến mg/L3. Hầu
hết, thành phần dược chất xâm nhập vào môi trường
nước bằng nguồn nhân tạo như là nước thải từ bệnh
viện, trung tâm y tế, trung tâm chăm sóc sức khỏe v.v.
Nước thải sinh hoạt từ hộ gia đình cũng được xem là
một nguồn xâm nhập của dược chất vào môi trường
thông qua bài tiết của con người và thải bỏ dược phẩm
không đúng cách. Ở Việt Nam, một nghiên cứu năm
2019 khảo sát nồng độ các nhóm thuốc kháng sinh
trong mẫu nước kênh rạch ở Hà Nội cho thấy 18/23
điểm lấy mẫu có nồng độ lên đến gần 50 mg/L4. Một
nghiên cứu khác khảo sát nồng độ các hợp chất hữu cơ
bao gồm cả dược chất từ hai nhà máy xử lý nước thải
lớn ở Tp. HCM phát hiện sự có mặt của các loại dược
chất có trong thuốc giảm đau, chống viêm, thuốc an
thần, thuốc hạ sốt, thuốc chống co giật v.v trong nước
thải đầu vào và cả trong nước thải sau xử lý5.
Trích dẫn bài báo này: Quyên D T T, Minh T H, Xuyên P T M, Nguyên N T. Thói quen thải bỏ thuốc tây:
kết quả khảo sát sinh viên Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh. Sci. Tech. Dev. J. - Nat. Sci.; 4(SI):SI32-SI40.
SI32
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 4(SI):SI32-SI40
Các quốc gia phát triển đã có những quy định đối
với việc thu hồi và thải bỏ thuốc tây từ những năm
2000. Điển hình như các nước thành viên EU từ năm
2001 bắt buộc phải có hệ thống thu gom thuốc hết hạn
hoặc không sử dụng tại các nhà thuốc và sau khi thu
hồi thuốc được xử lý bằng phương pháp nhiệt phân.
Tại Hoa Kỳ, các chương trình thu hồi thuốc do từng
tiểu bang quản lý đã được thực hiện. Đối với trường
hợp không thể đem đến điểm thu hồi, FDAHoa Kỳ có
danhmục 15 loại thuốc nguy hiểm nên bỏ vào bồn vệ
sinh và xả nước, những loại thuốc còn lại được hướng
dẫn trộn cùng bã cà phê, đất để trong một túi kín và
vứt cùng rác sinh hoạt6. Úc cũng thực hiện chương
trình thu gom thuốc tại các hiệu thuốc NatRUM từ
năm 1998. Trong khi đó, Việt Nam hiện chưa có quy
định cụ thể cho việc thải bỏ thuốc hết hạn hoặc không
còn sử dụng nữa và cũng chưa phân rõ nhiệm vụ của
các bên liên quan. Thông tư số 09/2010/TT-BYT ngày
28/04/2010 của Bộ Y tế Hướng dẫn việc quản lý chất
lượng thuốc có đề cập đến việc thu gom thuốc hết hạn
sử dụng, tuy nhiên, hình thức này chỉ dành cho các
cơ sở kinh doanh thuốc số lượng lớn, không được áp
dụng cho trường hợp các hộ gia đình. Các văn bản
khác như Thông tư liên tịch 58/2015 Bộ Y tế và Bộ
TNMT quy định về quản lý chất thải y tế cũng không
đề cập đến loại chất thải này.
Ở Việt Nam, vấn đề thải bỏ thuốc hết hạn, thuốc
không sử dụng nữa từ các hộ gia đình chưa có hướng
dẫn. Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu tìm
hiểu thói quen thải bỏ thuốc hết hạn và thuốc không
sử dụng nữa của đối tượng dân số trẻ, chiếm tỷ lệ
lớn trong tháp dân số Việt Nam. Đối tượng cụ thể
được lựa chọn là sinh viên Trường Đại học Khoa học
Tự nhiên, ĐHQG-HCM. Đây là nhóm đối tượng có
trình độ học vấn cao và được cho là sẽ sẵn lòng tiếp
nhận những hướng dẫn, quy định mới ban hành. Kết
quả của khảo sát sẽ là những thông tin ban đầu giúp
nhận diện những thói quen thải bỏ thuốc tây hết hạn,
thuốc tây không sử dụng của người dân và dự đoán
con đường di chuyển của dược chất trongmôi trường.
Đây sẽ là cơ sở để đề xuất và đánh giá tính khả thi của
các phương án quản lý loại chất thải đặc biệt này.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu thu thập dữ liệu bằng bảng câu hỏi được
thiết kế dựa trên các nghiên cứu trước đây về cách
thải bỏ thuốc không sử dụng và thuốc hết hạn7–9.
Ngoài các câu hỏi về thông tin cá nhân, phiếu khảo
sát có 11 câu hỏi bao gồm thói quen sử dụng thuốc
tây, thói quen thải bỏ thuốc tây và ý kiến của sinh viên
trong việc quản lý thuốc hết hạn, thuốc không sử dụng
nữa. Các câu trả lời ở định dạng trắc nghiệm, câu hỏi
nhiều lựa chọn, câu hỏi thang Likert hoặc câu trả lời
ngắn. Trong quá trình thiết kế bảng câu hỏi, nhóm
nghiên cứu đã tham khảo ý kiến của các bác sỹ và
các chuyên gia về các thuật ngữ chuyên ngành. Phiếu
khảo sát được gửi cho 20 sinh viên làm thử nghiệm
và phản hồi chỉnh sửa để đảm bảo tính dễ hiểu của
các câu hỏi. Bảng câu hỏi chi tiết được đính kèm
trong Phụ lục. Khảo sát được thực hiện trong tháng
3 năm 2020, là thời điểm Việt Nam đang chịu ảnh
hưởng của dịch bệnh COVID-19. Do đó, nghiên cứu
đã sử dụng công cụ google form, để tiến hành khảo
sát bằng hình thức online theo phương pháp “snow-
ball”: Đường liên kết khảo sát được gửi đến một sinh
viên/các nhóm sinh viên viên Trường Đại học Khoa
học Tự nhiên –ĐHQG-HCM, sinh viên điền khảo sát
lại tiếp tục gửi đường liên kết khảo sát đó đến cho sinh
viên khác thông qua các mạng xã hội như Zalo, Face-
book... Đây là phương pháp khảo sát thường được sử
dụng với các nghiên cứu vì dễ dàng và nhanh chóng
tìm thấy đối tượng cần khảo sát do bảng hỏi được giới
thiệu từ các nguồn đáng tin cậy. Sau khi nhận bảng
hỏi và lọc các phiếu không hợp lệ, số phiếu trả lời
thu về là 525 phiếu, chiếm 4,4% sinh viên của Trường
Đại học Khoa học Tự nhiên. Dữ liệu khảo sát được
biên tập và phân tích trên phần mềm Microsoft Ex-
cel. Phương pháp thống kê mô tả và phương pháp
kiểm định giả thuyết được sử dụng để phân tích và
đánh giá kết quả. Phương pháp phỏng vấn chuyên gia
cũng được áp dụng trong nghiên cứu này để làm rõ
các điểm nghi vấn trong quá trình phân tích dữ liệu.
KẾT QUẢ
Thông tin sinh viên tham gia khảo sát
Bảng 1 tóm tắt thông tin của đối tượng tham gia khảo
sát.
Số sinh viên nữ tham gia khảo sát chiếm 61,1% nhiều
hơn số sinh viên nam. Phần lớn sinh viên học năm
2 và năm 3 (chiếm 68,8%) và hơn 90% sinh viên đều
có sử dụng thuốc tây trong vòng 3 tháng gần đây (1
– 3/2020) bao gồm thuốc kê đơn và thuốc không kê
đơn.
Thói quen sử dụng thuốc
Nghiên cứu quan tâmđến số người và loại thuốc được
giữ tại nhà nhưng không sử dụng đến trong thời điểm
khảo sát. Hình 1 thể hiện số người đang giữ thuốc
không kê đơn và thuốc kê đơn nhưng không sử dụng
tại thời điểm khảo sát.
Thuốc không kê đơn là các loại thuốc có thể mua
được tại nhà thuốc hoặc các cửa hàng tiện lợi mà
không cần đơn bác sỹ. Các loại thuốc không kê đơn
phổ biến được giữ tại nhà là thuốc cảm cúm, giảm
đau, hạ sốt, tiêu hoá và thuốc bôi ngoài da. 73,5% số
SI33
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 4(SI):SI32-SI40
Bảng 1: Thông tin người tham gia khảo sát
Thuộc tính Số mẫu (n=525)
Giới tính Nữ 321 (61,1 %)
Khoa Môi Trường 287 (54,7 %)
Các khoa khác 238 (45,3 %)
Sinh viên thuộc năm Năm 1 110 (20,95%)
Năm 2 185 (35,2%)
Năm 3 176 (33,5%)
Năm 4 54 (10,3%)
Sử dụng thuốc không kê đơn trong vòng 3 tháng gần đây 508 (96,8%)
Sử dụng thuốc kê đơn trong vòng 3 tháng gần đây 487 (92,8%)
Hình 1: Số sinh viên giữ thuốc nhưng không sử dụng đến (n=525)
sinh viên tham gia khảo sát có giữ ít nhất một loại
thuốc không kê đơn tại nhà nhưng không dùng đến
và loại được giữ nhiều nhất là các loại thuốc giảm
đau, hạ sốt (241 sinh viên). Khi được hỏi vì sao giữ
thuốc tại nhà nhưng không sử dụng, lý do được chọn
nhiều nhất là “giữ thuốc trong nhà để có sẵn sử dụng”
(74,6% số người), phù hợp với các loại thuốc chữa các
bệnh thông thường đượcmua và giữ nhiều nhất. Tiếp
đó, “dừng sử dụng thuốc do đã cảm thấy khỏi bệnh”
(55,6%) là lý do thứ hai, cho thấy người sử dụng đã
mua thuốc nhiều hơn nhu cầu.
Thuốc kê đơn là thuốc chữa các bệnh đặc trị và khi
mua cần có đơn thuốc kèm theo liều sử dụng của bác
sỹ. Đối thuốc kê đơn, bác sỹ chỉ ra toa với lượng vừa
đủ với tình trạng bệnh và người bệnh cần phải uống
đủ số thuốc được kê dù bệnh nhân cho rằng các triệu
chứng bệnh đã khỏi hẳn. Tuy nhiên, kết quả khảo
sát cho thấy vẫn có trường hợp giữ các loại thuốc kê
đơn tại nhà nhưng không sử dụng. So sánh giá trị
trung bình số người giữ thuốc hai nhóm kê đơn (giá
trị trung bình 183,3) và không kê đơn (giá trị trung
bình 24,4) cho kết quả sai khác có ý nghĩa thống kê (p-
value<0,05). 36,5% số sinh viên tham gia khảo sát giữ
ít nhấtmột loại thuốc kê đơn tại nhà và không sử dụng
đến, thấp hơn so với trường hợp thuốc không kê đơn.
Điều này có thể lý giải do độ tuổi của đối tượng nghiên
cứu còn trẻ và chưa mắc các bệnh do thói quen sinh
hoạt như huyết áp, tim mạch, tiểu đường như nhóm
tuổi sau 30. Khi được hỏi tại sao có giữ thuốc kê đơn
tại nhà nhưng không sử dụng, lý do được chọn nhiều
SI34
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 4(SI):SI32-SI40
nhất là “do cảm thấy đã khỏi bệnh” (68,9% số người
giữ thuốc) và 21,5% sinh viên lựa chọn “bác sỹ đổi
đơn thuốc trong quá trình điều trị” dẫn tới việc có giữ
thuốc thừa tại nhà. Trong số đó, một điểm đáng chú
ý là thuốc kháng sinh được giữ tại nhà nhưng không
sử dụng cao hơn hẳn những loại thuốc kê đơn khác
(19,4%), theo sau đó là thuốc trị nấm, nhiễm khuẩn
(9,9%). Thực tế tình trạng mua thuốc kháng sinh tại
các hiệu thuốc mà không cần đơn bác sỹ vẫn diễn
ra10,11 mặc dù nhóm thuốc này đã được đưa vào danh
sách thuốc kê đơn từ năm 2008 theo công văn Bộ Y tế
1517/BYT-KCB.
Việc sử dụng thuốc đúng liều chỉ định và bảo quản
thuốc cẩn thận giúp dễ dàng kiểm tra loại thuốc đã
mua, tránhmua thêm thuốcmới dẫn đến dư thừa, hết
hạn sử dụng là cần thiết. Kết quả về thói quen sử dụng
và bảo quản thuốc của sinh viên được tóm tắt trong
Bảng 2. Phần lớn sinh viên tham gia khảo sát cho biết
có các thói quen như “uống thuốc đúng giờ, liều chỉ
định” và “kiểm tra hạn sử dụng trước khi dùng” tương
ứng với tỷ lệ 71,1% và 69,1%. Tuy nhiên, gần 2/3 SV
cho biết khi có những triệu chứng bệnh thông thường
thì tự mua thuốc tại hiệu thuốc chứ không đi khám
bác sỹ. Tâm lý ngại khám bệnh ở bệnh viện và tiện
lợi khi mua thuốc ở hiệu thuốc có thể dẫn đến việc
sai sót trong sử dụng thuốc như không dùng đúng
loại thuốc cần thiết, sai liều khi liều quá cao hay quá
thấp hơn liều cần điều trị và phát sinh thuốc dư thừa.
Kết quả cũng cho thấy 47,4% sinh viên có ngăn tủ bảo
quản thuốc cẩn thận, giúp hạn chế được các tình trạng
thuốc hư hỏng và quá hạn.
Phương thức thải bỏ thuốc tây
Về phương thức thải bỏ thuốc tây, nghiên cứu điều
tra SV đã từng nhận được bất kỳ thông tin nào về
cách thải bỏ thuốc hết hạn/thuốc không sử dụng nữa.
16,2% số sinh viên tham gia khảo sát trả lời đã nhận
được thông tin từ các phương tiện truyền thông, bệnh
viện nơi khám chữa bệnh và trường học. Tuy nhiên
các câu trả lời mô tả chi tiết về cách thức thải bỏ lại
không thống nhất và mang ý kiến cá nhân hoặc tham
khảo các nguồn từ nước ngoài. Đối chiếu với thông
tin thu thập từ những văn bản liên quan của Bộ Y tế
và Bộ Tài nguyênMôi trường, có thể khẳng định chưa
từng xuất hiện các hướng dẫn thải bỏ thuốc tây dành
cho trường hợp hộ gia đình. Đối với thuốc hết hạn
sử dụng, hơn 80% sinh viên cho biết đã vứt bỏ, gần
10% giữ lại không vứt bỏ, khoảng 5% cho biết đem
trả lại nhà thuốc (Hình 2). Tỷ lệ cao sinh viên có chú
ý kiểm tra hạn sử dụng thuốc và lựa chọn cách thải bỏ
không sử dụng nữa cho thấy ý thức tốt khi sử dụng
thuốc. Đối với thuốc còn hạn nhưng không sử dụng
nữa, 70% người tham gia khảo sát chọn phương án
giữ lại, 20% trả lời thải bỏ và 15% cho biết cho người
khác sử dụng. Về 15% số câu trả lời đem thuốc cho
người khác, có thể thấy có sinh viên cho rằng các triệu
chứng tương tự ở người khác có thể được chữa khỏi
bằng cùng một loại thuốc. Điều này rất nguy hiểm
vì việc sử dụng thuốc cần có chỉ định chuyên môn từ
bác sĩ do liều lượng thuốc chomỗi độ tuổi và thể trạng
là khác nhau. Ngoài ra, việc kết hợp các loại thuốc có
thể gây các tác dụng phụ, gây hiện tượng lờn thuốc, và
ảnh hưởng lớn nhất có thể xảy ra là sốc thuốc phản vệ
và tử vong. Điểm hạn chế của nghiên cứu này là chưa
làm rõ loại thuốc nào cần được giữ lại và loại nào nên
thải bỏ trong trường hợp thuốc còn hạn.
Cuối cùng, khi được hỏi cụ thể về cách thải bỏ thuốc,
hơn 400 sinh viên trong khảo sát cho biết đã từng hoặc
bỏ vào thùng rác sinh hoạt, chiếm 84%. Các cách thức
còn lại như bỏ vào bồn vệ sinh, bồn rửa tay, đốt cùng
rác sinh hoạt là không đáng kể (Hình 3). Kết quả khảo
sát cho thấy người sử dụng, cụ thể trong nghiên cứu
này là đối tượng sinh viên, xem thuốc tây hết hạn hoặc
không sử dụng nữa như một loại chất thải rắn sinh
hoạt thông thường. Gần 8% lựa chọn cách thức đốt
cùng rác sinh hoạt có thể do các khu vực nông thôn
và ngoại ô chưa có hệ thống thu gom rác hoàn chỉnh
và việc đốt rác sinh hoạt thường xuyên diễn ra. Cách
thức thải bỏ thuốc không sử dụng của các sinh viên
trong nghiên cứu này cũng tương tự với người dân ở
nhiều nơi trên thế giới như Kuwait, Lithuania, New
Zealand12. Riêng ở Mỹ, nhiều nghiên cứu chỉ ra thói
quen bỏ thuốc vào bồn vệ sinh, bồn rửa tay13. ỞThuỵ
Điển, khảo sát trong các năm 2001, 2004, 2007 đều
cho kết quả người dân giữ thuốc tại nhà không thải
bỏ hoặc đem trả lại các hiệu thuốc14.
Theo thống kê của Bộ Tài nguyên Môi trường, mỗi
năm cả nước Việt Nam phát thải 27,8 tấn chất thải
rắn trong đó hơn 46% (12,8 tấn/năm) là chất thải sinh
hoạt đô thị15. Hầu hết chất thải rắn ở Việt Nam được
xử lý bằng phương pháp chôn lấp tại hơn 900 bãi chôn
lấp, trong đó chưa đến 20% bãi hợp vệ sinh. Kết quả
từ nghiên cứu này cho thấy khả năng dược chất từ rác
thải sinh hoạt được tập trung tại các bãi chôn lấp và
di chuyển vào môi trường. Hình 4 dự đoán đường đi
của thuốc tây bị thải bỏ cùng rác sinh hoạt vào môi
trường.
Nhiều nghiên cứu trước đây báo cáo chất thải sinh
hoạt chứa thành phần dược chất đáng kể16,17. Thí dụ,
chất thải rắn đô thị ở Florida chứa 8,1 mg/kg dược
chất. Trongmột nghiên cứu khác ở Trung Quốc, hàm
lượng các chất kháng sinh trong chất thải rắn đô thị
được tính toán là 100 mg/kg18. Kết quả nghiên cứu tại
bãi chôn lấp lớn nhất Trung Quốc cho thấy có thành
phần dược chất tương tự trong mẫu nước ngầm và
nước rỉ rác19.
SI35
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 4(SI):SI32-SI40
Hình 2: Cách xử lý thuốc của sinh viên tham gia khảo sát (n=525)
Hình 3: Những cách thải bỏ thuốc tại nhà của sinh viên tham gia khảo sát (n=525)
SI36
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 4(SI):SI32-SI40
Bảng 2: Thói quen sử dụng và bảo quản thuốc tại nhà của sinh viên
Thói quen Số sinh viên có thói quen (n=525)
Kiểm tra hạn sử dụng thuốc trước khi sử dụng 373 (71,0%)
Uống thuốc đúng giờ và đúng liều chỉ định 363 (69,1%)
Đối với triệu chứng bệnh như đau đầu, cảm sốt, đau bụng tự mua thuốc tại
hiệu thuốc không đi bác sỹ
308 (58,6%)
Có ngăn tủ riêng bảo quản cẩn thận các loại thuốc 249 (47,4%)
Hình 4: Đường di chuyển của dược chất vào môi
trường
Các phương án xử lý thuốc hết hạn và thuốc
dư thừa
Khảo sát cũng đưa ra câu hỏi về sự cần thiết của vấn
đề quản lý thuốc hết hạn và thuốc không sử dụng nữa.
Hai giải pháp được nhómnghiên cứu đề xuất là (i) ban
hành và phổ biến hướng dẫn cụ thể cho việc thải bỏ
thuốc tại nhà và (ii) lập các điểm thu hồi thuốc tại các
bệnh viện, hiệu thuốc. Hơn 80% sinh viên tham gia
khảo sát cho rằng giải pháp (i) và (ii) là cần thiết hoặc
rất cần thiết, 13% cho ý kiến có cũng được không có
cũng không sao và chỉ có gần 7% cho rằng không cần
thiết. Khi được hỏi về sự sẵn lòng tham gia nếu có
chương trình thu hồi thuốc hết hạn sử dụng và thuốc
không sử dụng, 78,5% người tham gia khảo sát cho
biết sẽ tham gia nếu thuận tiện, 12,4% chắc chắn sẽ
tham gia và 9,1% trả lời sẽ không tham gia. Việc từ
chối không tham gia gồm hai lý do: thứ nhất là cho
rằng số lượng thuốc thừa rất ít nên không cần quan
tâm và thứ hai là lo ngại việc xử lý sai mục đích như
là tái sử dụng hoặc mua bán số thuốc được thu hồi.
Hiện tại các quy định quản lý thuốc hết hạn chưa được
hướng dẫn cụ thể cho các hộ gia đình. Tác giả tham
khảo hướng dẫn thải bỏ thuốc tây của các nước trên
thế giới nhằm đánh giá tính khả thi nếu áp dụng ở
Việt Nam. Hướng dẫn xử lý thuốc hết hạn sử dụng
và thuốc dư thừa ban hành bởi Cơ quan Quản lý
Thực phẩm vàDược phẩmHoa Kỳ được tóm tắt trong
Hình 5 với phương án được ưu tiên là đem trả lại các
nhà thuốc. Nếu không có các điểm thu hồi thuốc gần
nơi ở thì có thể áp dụng phương án bỏ vào toilet và
xối nước đối với danh mục 15 loại thuốc nguy hiểm.
Những loại thuốc còn lại được hướng dẫn nghiền nhỏ
và trộn chung với bã cà phê, cát, chất thải thú nuôi rồi
bỏ vào một túi kín và thải bỏ cùng chất thải rắn.
FDA cũng thực hiện nghiên cứu đánh giá rủi ro đến
hệ sinh thái từ thuốc dư thừa và đưa ra kết luận ảnh
hưởng từ việc bỏ thuốc bồn vệ sinh chỉ đóng góp một
phần nhỏ dược chất vào môi trường so với nguồn
từ quá trình bài tiết của con người sau khi sử dụng
thuốc13. Tuy nhiên, FDA cho biết đây chỉ là giải pháp
tạm thời để hạn chế tối đa rủi ro sử dụng nhầm lẫn
thuốc cho đến khi có thể thiết lập các điểm thu gom
thuốc dư thừa/thuốc hết hạn và có những phương án
xử lý phù hợp hơn.
Khác với Mỹ, hầu hết các quốc gia châu Âu yêu cầu
người dân đem thuốc hết hạn và thuốc không sử dụng
đến các nhà thuốc địa phương sau khi đã tách riêng
khỏi bao bì. Châu Âu có thực hiện chiến dịch mang
tên #medsdisposal nhằm nâng cao nhận thức cộng
đồng về cách thải bỏ thuốc hợp lý, trong đó có nhấn
mạnh việc không được bỏ thuốc vào bồn vệ sinh hay
bồn rửa tay vì lý do ảnh hưởng đến hệ sinh thái nước.
Riêng ở Đức, người dân được yêu cầu bỏ thuốc cùng
với rác sinh hoạt do hơn 80% rác thải sinh hoạt ở Đức
được xử lý bằng phương pháp nhiệt phân. Đây cũng
là phương pháp xử lý an toàn nhất đối với thuốc dư
thừa.
Từ kết quả khảo sát của nghiên cứu này, phương án
lập các điểm thu gom thuốc nhận được sự đồng ý
của đa số sinh viên tham gia khảo sát. Nếu không
có những điểm thu gom thì cần thiết phải có hướng
dẫn thải bỏ phù hợp đối với các loại thuốc nguy hiểm,
tránh giữ tại nhà vì sẽ có rủi ro sức khỏe khi sử dụng
nhầm lẫn. Thuốc được thu gom cần được quản lý bởi
cơ quan chức năng và đảm bảo thuốc thu gom được
xử lý theo phương pháp an toàn.
SI37
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 4(SI):SI32-SI40
Hình 5: Hướng dẫn xử lý thuốc hết hạn sử dụng và thuốc dư thừa của FDA, Hoa Kỳ 6
KẾT LUẬN
Việc giữ thuốc tại nhà nhưng không sử dụng đến khá
phổ biến ở sinh viên, chủ yếu là các loại thuốc không
kê đơn chữa các bệnh thông thường như cảm cúm,
giảm đau, tiêu hóa. Loại thuốc kê đơn được giữ nhiều
nhất là thuốc kháng sinh, nhiễm khuẩn. Lý do chủ
yếu của việc có thuốc dư tại nhà là do người sử dụng
ngưng sử dụng thuốc khi cảm thấy khỏi bệnh. Đối với
thuốc hết hạn sử dụng, 80% sinh viên tham gia khảo
sát lựa chọn cách vứt bỏ. Đối với thuốc còn hạn sử
dụng nhưng không cần dùng đến nữa, 70% số sinh
viên chọn giữ lại, 20% sinh viên chọn cách vứt bỏ
và có 15% số sinh viên đem thuốc còn hạn sử dụng
cho người khác sử dụng. 84% người tham gia khảo
sát xem thuốc hết hạn sử dụng hoặc thuốc dư không
cần sử dụng nữa là chất thải rắn sinh hoạt và vứt bỏ
vào thùng rác hoặc đốt cùng rác sinh hoạt. Như vậy,
điểm đến của thuốc tây hết hạn sử dụng sẽ là các bãi
chôn lấp và khả năng cao thành phần dược chất trong
nước rỉ rác từ các bãi chôn lấp sẽ ảnh hưởng đến nước
ngầm khu vực bãi chôn lấp. thông tin hướng dẫn hay
quy định nào liên quan đến việc thải bỏ thuốc dư thừa
cho hộ gia đình ở Việt Nam là chưa có. Có hơn 80%
sinh viên tham gia khảo sát cho rằng việc ban hành
hướng dẫn cũng như lập các điểm thu hồi thuốc tại
bệnh viện, nhà thuốc là cần thiết. Hiện nay, quy định
thu hồi thuốc hết hạn và thuốc không sử dụng chỉmới
được áp dụng cho các nhà thuốc và các đơn vị y tế,
và chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nào cho các hộ
gia đình. Do đó, sẽ có hai rủi ro chính liên quan đến
việc thải bỏ thuốc thuốc hết hạn và thuốc không dùng
đến nữa. Đầu tiên là việc sử dụng nhầm lẫn thuốc có
thể gây nguy hiểm đến sức khoẻ thậm chí dẫn đến tử
vong, đặc biệt là với người lớn tuổi và trẻ nhỏ. Rủi
ro thứ hai liên quan đến khả năng chất thải có dược
tính đi vào nguồn nước. Điều này có thể được cho là
ít quan trọng hơn vì không gây những ảnh hưởng trực
tiếp đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, những ảnh
hưởng lâu dài của dược chất trong môi trường nước
đối với hệ sinh thái vẫn đang được nghiên cứu.
Hạn chế của nghiên cứu này là chỉ mới khảo sát đối
tượng người sử dụng là sinh viên ở độ tuổi từ 18-
24 chủ yếu đang sống tại Thành phố Hồ Chí Minh.
SI38
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 4(SI):SI32-SI40
Những khảo sát tiếp theo cho đối tượng người lớn
tuổi hơn, người sống ở các khu vực nông thôn, ngoại
ô sẽ bổ sung thêm cho các kết quả nghiên cứu này.
Ngoài ra, 3 nhómđối tượng có liên quan cần thực hiện
khảo sát thu thập thông tin là các nhà thuốc tây, phòng
khám và Cơ quan quản lý Nhà nước (Sở Y tế, Trung
tâm Y tế Quận/Huyện) nhằm đề xuất các phương án
thu gom và xử lý an toàn đối với thuốc tây không được
sử dụng và thuốc hết hạn sử dụng.
XUNGĐỘT LỢI ÍCH TÁC GIẢ
Các tác giả tuyên bố rằng họ không có xung đột lợi
ích.
ĐÓNGGÓP CỦA CÁC TÁC GIẢ
ĐỗThịThuỳ Quyên và NguyễnThảo Nguyên thiết kế
phiếu khảo sát, xử lý số liệu và tham gia viết bài.
Trần Hoàng Minh và Phan Thị Mỹ Xuyên tham gia
thu thập phiếu khảo sát và xử lý số liệu.
LỜI CẢMƠN
Tác giả gửi lời cảm ơn đến nhóm sinh viên khoa Môi
Trường, TrườngĐại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG-
HCM: Phạm Trần Bảo Thư, Lê Đỗ Phương Uyên,
Trương Yến Như, Nguyễn Thị Kiều Trinh và Trần
Thanh Trúc đã hỗ trợ thực hiện khảo sát này.
TÀI LIỆU THAMKHẢO
1. IBM. Vietnam Pharmaceuticals & Healthcare Report Q2. SKU:
BMI15670319. 2018;.
2. Tổng cục Thống kê Việt Nam. 2020;Available from: https://
www.gso.gov.vn/.
3. Daughton CG, Ilene SR. Environmental Footprint of Phar-
maceuticals: The Significance of factors beyond direct ex-
cretion to sewers.” Environmental Toxicology and Chemistry.
2009;28(12):2495–2521. PMID: 19382823. Available from:
https://doi.org/10.1897/08-382.1.
4. Tran NH, et al. Occurrence and risk assessment of multiple
classes of antibiotics in urban canals and lakes in Hanoi, Viet-
nam. Science of the Total Environment. 2019;692:157–174.
PMID: 31344569. Available from: https://doi.org/10.1016/j.
scitotenv.2019.07.092.
5. NguyenHT, et al. Assessmentof drugs andpersonal careprod-
ucts biomarkers in the influent and effluent of two wastewa-
ter treatment plants in Ho Chi Minh City, Vietnam. Science of
the Total Environment. 2018;p. 631–632–469–475. Available
from: https://doi.org/10.1016/j.scitotenv.2018.02.309.
6. FDA. How to dispose of unused medicines. FDA Consumer
Health Information. 2013;p. 1–2.
7. Justyna R, et al. Pharmaceutical household waste practices:
Preliminary findings froma case study in Poland. Environmen-
tal Managemen. 2019;Eea 2010. Available from: https://doi.
org/10.1007/s00267-019-01174-7.
8. Akke V, et al. Public practice regarding disposal of un-
used medicines in Ireland. Science of the Total Environment.
2014;478:98–102. Available from: https://doi.org/10.1016/j.
scitotenv.2014.01.085.
9. Mutaseim M, et al. The prevalence of unused medications in
homes. Pharmacy. 2019;7(2):61. Available from: https://doi.
org/10.3390/pharmacy7020061.
10. Nhi DN. Khảo sát sự hiểu biết và thói quen sử dụng thuốc
kháng sinh của người dân tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
2017;.
11. Nguyên VT. Khảo sát nhận thức về tự ý sử dụng kháng sinh
của sinh viên Trường Đại học Tây Đô. 2017;.
12. Tong AYC, et al. Disposal practices for unused medi-
cations around the world. Environment International.
2011;37(1):292–298. PMID: 20970194. Available from:
https://doi.org/10.1016/j.envint.2010.10.002.
13. Khan U, et al. Risks associated with the environmental release
of pharmaceuticals on the U.S. food and drug Administration
’Flush List. Science of the Total Environment. 2017;609:1023–
1040. PMID: 28787777. Available from: https://doi.org/10.
1016/j.scitotenv.2017.05.269.
14. Matilda P, et al. Handling of unused prescription drugs
- Knowledge, behaviour and attitude among Swedish peo-
ple. Environment International. 2009;35(5):771–774. PMID:
19013646. Available from: https://doi.org/10.1016/j.envint.
2008.10.002.
15. Schneider P, et al. Solid waste management in Ho Chi Minh
City, Vietnam: Moving towards a circular economy? Sustain-
ability (Switzerland). 2017;9(2):1–20. Available from: https:
//doi.org/10.3390/su9020286.
16. Clarke BO, et al. Investigating Landfill Leachate as a Source of
Trace Organic Pollutants. Chemosphere. 2015;127:269–275.
PMID: 25753851. Available from: https://doi.org/10.1016/j.
chemosphere.2015.02.030.
17. Eggen T, et al. Municipal landfill leachates: A signifi-
cant source for new and emerging pollutants. Science of
the Total Environment. 2010;408(21):5147–5157. PMID:
20696466. Available from: https://doi.org/10.1016/j.scitotenv.
2010.07.049.
18. Yu X, et al. Do high levels of ppcps in landfill leachates in-
fluence the water environment in the vicinity of landfills? A
Case study of the largest landfill in China. Environment Inter-
national . 2020;135:1–7. PMID: 31865278. Available from:
https://doi.org/10.1016/j.envint.2019.105404.
19. Song L, et al. Sulfamethoxazole, tetracycline and oxyte-
tracycline and related antibiotic resistance genes in a large-
scale landfill, China.” Science of the Total Environment.
2016;(266):9–15. PMID: 26874755. Available from: https:
//doi.org/10.1016/j.scitotenv.2016.02.007.
SI39
Science & Technology Development Journal – Natural Sciences, 4(SI):SI32-SI40
Open Access Full Text Article Research Article
1Faculty of Environment, University of
Science
2Vietnam National University, Ho Chi
Minh City
3Department of Human Centered
Engineering, Ochanomizu University,
Tokyo, Japan
Corresponding
Do Thi Thuy Quyen, Faculty of
Environment, University of Science
Vietnam National University, Ho Chi Minh City
Department of Human Centered
Engineering, Ochanomizu University, Tokyo,
Japan
Email: dttquyen@hcmus.edu.vn
History
Recevied: 31/7/2020
Accepted: 25/11/2020
Published: 19/12/2020
DOI :10.32508/stdjns.v4i1.989
Practice regarding disposal of expired and unusedmedicines
among students of University of Science, VietnamNational
University Ho Chi Minh City
Do Thi Thuy Quyen1,2,3,*, Tran HoangMinh1,2, Phan Thi My Xuyen1,2, Nguyen Thao Nguyen1,2
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
TÓM TẮT
Expired and unused medicine can be mistakenly reused. This fact endangers the health, espe-
cially the elderly and young children. Currently, Vietnam has no regulations and guidelines on
how to collect and dispose expired/unused medicines in households. Consequently, how ex-
pired/unused medicines are disposed remain unknown. This study was conducted to investigate
the students practice of disposing medicine. The survey was conducted in March 2020, using the
"snowball" method on the social networks to spread the google form questionnaires to 525 stu-
dents of University of Science. Survey results showed that 73.5% of students were keeping at least
one unused over-the-counter drug at home while only 36.5% of students kept prescription drugs.
The most common medications keeping unused at home are pain relievers and antipyretics (non-
prescription groups) and antibiotics (prescription groups). Regarding the expired drugs, more than
80% of students said that they would throw away, nearly 10% keep at home, and 5% return to the
pharmacy. For unwanted medicines, 70% of respondents keep at home, 20% will dispose and 15%
will give to others. The most common way of the medicine disposal is to dispose together with
the household solid waste. The study recorded that 84% students dispose medicines in household
waste bin and 8% (likely living in rural area) burn with household solid waste. Disposing medicines
with solidwastemean that the large amount ofmedicineswould end up in the landfill. This raised a
risk of groundwater contamination from the leachate in landfills. Nearly 80% of students participat-
ing in the survey believe that issuing and disseminating instructions for drug disposal and setting
up collection points at hospitals and pharmacies is necessary. The study proposed amethod to dis-
pose of expired/unused medicines at home and suggested an authority to implement regulations
and guidelines for this specific waste.
Từ khoá: disposal habit, medicines, pharmaceuticals, expired, unused medicines
Cite this article: Quyen D T T, Minh T H, Xuyen P T M, Nguyen N T. Practice regarding disposal of
expired and unused medicines among students of University of Science, Vietnam National Univer-
sity Ho Chi Minh City. Sci. Tech. Dev. J. - Nat. Sci.; 4(SI):SI32-SI40.
SI40
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
thoi_quen_thai_bo_thuoc_tay_ket_qua_khao_sat_sinh_vien_truon.pdf