Trong thời gian qua, DNNN được
một số quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các
quốc gia đang phát triển như Trung Quốc,
Việt Nam sử dụng như một công cụ nhằm
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế
cũng như thực hiện các nhiệm vụ chính
trị, xã hội khác. Thực tiễn thương mại thế
giới trong thời gian qua cũng đã cho thấy,
các DNNN đã phát triển ngày càng nhanh
chóng và có ảnh hưởng đáng kể trong nền
kinh tế toàn cầu. DNNN có những đóng góp
tích cực cho nền kinh tế thế giới như cung
cấp cơ sở hạ tầng tốt hơn, tạo sự ổn định
cho nền kinh tế trong bối cảnh khủng hoảng
kinh tế cũng như tạo ra các lợi ích cho xã hội
thông qua cung ứng dịch vụ công ích. Bên
cạnh đó, DNNN cũng có thể gây ảnh hưởng
đến sự cạnh tranh công bằng trên thị trường
thế giới do doanh nghiệp này có thể được
hưởng những ưu đãi về tài chính hoặc chính
sách của chính phủ cũng như có thể được
sử dụng như công cụ trung gian để trao trợ
cấp cho các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên,
một trong những vướng mắc trong việc điều
chỉnh hoạt động của các DNNN trong phạm
vi quốc gia cũng như trong nền kinh tế thế
giới là sự thiếu thống nhất về khái niệm loại
hình doanh nghiệp này trong pháp luật quốc
gia cũng như pháp luật quốc tế. Trong bối
cảnh Việt Nam gia nhập ngày càng nhiều
các hiệp định tự do hoá thương mại, sự khác
biệt giữa các quy định của pháp luật Việt
Nam với các hiệp định này có thể sẽ tạo ra
khó khăn cho các doanh nghiệp cũng như
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong
việc áp dụng và thực thi các cam kết quốc
tế. Vì vậy, cần nhanh chóng nghiên cứu và
sửa đổi khái niệm DNNN trong Luật Doanh
nghiệp năm 2014 cho phù hợp với pháp luật
quốc tế cũng như pháp luật của các nước
trên thế giới
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 345 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thống nhất khái niệm doanh nghiệp nhà nước theo các hiệp định tự do hoá thương mại và pháp luật Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được các quốc gia sử dụng như một
trong những công cụ quan trọng để thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá
và cung ứng dịch vụ công. Tuy nhiên, cho đến nay, khái niệm DNNN
vẫn chưa được quy định một cách rõ ràng và thống nhất. Bài viết phân
tích khái niệm DNNN được ghi nhận trong các Hiệp định tự do hoá
thương mại đa phương/song phương và pháp luật Việt Nam. Từ việc
chỉ ra những điểm khác biệt giữa pháp luật Việt Nam và các điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên, bài viết nêu một số khuyến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về khái niệm DNNN.
THỐNG NHẤT KHÁI NIỆM DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC THEO
Nguyễn Thu Thuỷ*
Abstract:
State-owned enterprise is an effective tools used by state in order to
encourage the industrialization and provide “public service”. However,
there is a lack of a clear and consistent definition of this category of
company. Therefore, this paper focuses on analyzing the existing
definition of state owned enterprises in multilateral and bilateral free
trade agreements and Vietnam’s law. Based on the differences between
free trade agreements and Vietnamese law, the author provides some
recommendations in order to improve Vietnmese rule on state owned
enterprise.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: doanh nghiệp nhà nước,
hiệp định tự do hoá thương mại.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 03/04/2017
Biên tập: 09/04/2017
Duyệt bài: 16/04/2017
Article Infomation:
Keywords: state-owned enterprise,
free trade agreement, WTO.
Article History:
Received: 03 Apr. 2017
Edited: 09 Apr. 2017
Appproved: 16 Apr. 2017
* ThS, Giảng viên Khoa Pháp luật Quốc tế - Trường Đại học Luật Hà Nội.
CÁC HIỆP ĐỊNH TỰ DO HOÁ THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
Nhằm tập trung các nguồn lực thúc
đẩy tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
nhiều quốc gia đã và đang coi DNNN như
1 OECD (Organization for Economic Cooperation and Development): Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, thành lập
năm 1961 trên cơ sở Tổ chức Hợp tác Kinh tế Châu Âu (OEEC) với 20 thành viên sáng lập gồm các nước có nền kinh
tế phát triển trên thế giới như Mỹ, Canada và các nước Tây Âu.
một trong những công cụ quan trọng. Theo
số liệu thống kê của OECD1, trong số 2.000
công ty có kết quả kinh doanh lớn nhất năm
2010 - 2011, có đến 204 công ty là DNNN,
chiếm doanh số 3,6 tỷ USD trong năm tài
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Số 17(345) T9/2017
chính đó2. Trong giai đoạn từ năm 2005 đến
năm 2014, tỷ lệ doanh thu của các DNNN
trong tổng doanh thu của các doanh nghiệp
trong bảng xếp hạng Fortune Global 500 đã
tăng từ 9% năm 2005 lên đến 23% vào năm
20153.
Hình 1: Tỷ lệ đóng góp của DNNN
trong tổng doanh thu của các doanh nghiệp
theo Bảng xếp hạng Fortune Global 500
giai đoạn từ năm 2005 đến 20144.
Tại một số quốc gia đang phát triển
như Trung Quốc, Ấn Độ hay Việt Nam, tỷ
2 P. Kowalski, M. Büge, M. Sztajerowska and M. Egeland, State-owned Enterprises: Trade effects and Policy Implications,
OECD Trade Policy Paper, 2013, No. 147, TAD/TC/WP(2012)10/FINAL, 6 (OECD Publishing, 2013).
3 Nguồn: https://www.pwc.com/gx/en/psrc/publications/assets/pwc-state-owned-enterprise-psrc.pdf.
4 Nguồn: https://www.pwc.com/gx/en/psrc/publications/assets/pwc-state-owned-enterprise-psrc.pdf.
5 OECD, OECD Working Group on Privatization and Corporate Governance of State Owned Assets, Occasional
Paper: State owned enterprises in China: Reviewing the evidence, 2009, p. 6. Nguồn: https://www.oecd.org/daf/ca/
corporategovernanceofstate-ownedenterprises/42095493.pdf.
6 OECD, OECD Working Group on Privatization and Corporate Governance of State Owned Assets, Occasional
Paper: State owned enterprises in India: Reviewing the evidence, 2009, p. 6. Nguồn: https://www.oecd.org/daf/ca/
corporategovernanceofstate-ownedenterprises/42095406.pdf.
7 Kikeri, S. and A. Solo, State enterprises. What remains? Public Policy for the Private Sector. No. 303,
February 2006, World Bank, p. 2. Nguồn:
pdf/353300PAPER0VP0304Kikeri1Kolo.pdf
8 Nguồn: https://www.soctrang.gov.vn/wps/portal/!ut/p/c4/04_SB8K8xLLM9MSSzPy8xBz9CP0os3gLR1dvZ09L
YwOL4GAnA08TRwsfvxBDRxNXA_2CbEdFAHq6-KI!/?WCM_GLOBAL_CONTEXT=/wps/wcm/connect/
web+content/soctrangsite/trangchu/tintucsukien/kinhtehoptacdautu/ctaodongluc.
9 A. Capobianco and H. Christiansen, Competitive Neutrality and State-owned Enterprises: Challenges and Policy
Options, OECD Corporate Governance Working Papers, No. 1, 8 (OECD Publishing, 2011).
10 Ines Willemyns, Disciplines on State-owned Enterprises in TPP: Have expectations been met?, Working paper No.168,
Leuven Centre for Global Governance Studies, 1/2016.
11 Veysel Avasar, Cem Karayalcin and Mehmet Ali Ulubasoglu, State-owned enterprises, inequality, and political
ideology, Economics and Politics, Volume 25, 11/2013.
lệ đóng góp vào GDP của DNNN khá cao.
Chẳng hạn, vào năm 2006, DNNN đóng góp
đến 29,7% GDP của Trung Quốc5, 13,2%
của Ấn Độ6 và hơn 50% GDP của các quốc
gia thuộc khu vực Trung Đông, Nam Phi và
Trung Á7. Tại Việt Nam, DNNN chiếm đến
28,8% GDP năm 20168.
Không chỉ đóng góp vào nền kinh tế
quốc gia, DNNN còn có chức năng cung
ứng các dịch vụ công như dịch vụ bưu chính
viễn thông, xây dựng cơ bản, tài chính hay
các dịch vụ cần thiết khác9. “Dịch vụ công”
được hiểu là dịch vụ mà nhà nước cần phải
cung cấp với giá thành và/hoặc ở các khu vực
để đảm bảo mọi người dân đều có thể tiếp
cận được10. Thực tiễn cho thấy, các ngành
dịch vụ công là những ngành mà vốn nhà
nước đóng vai trò chủ đạo ở cả các quốc gia
phát triển và đang phát triển. Tương tự, hơn
70% ngành giao thông không có sự tham
gia của các thành phần tư nhân trong nền
kinh tế. Chính vì vậy, đến năm 2003, ngân
hàng thương mại công nắm giữ hơn 70% tài
sản ngân hàng tại Ấn Độ và tỷ lệ này vào
khoảng 20-40% tại các quốc gia đang phát
triển khác11.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
21Số 17(345) T9/2017
DNNN cũng được Chính phủ các
nước, đặc biệt là các quốc gia đang phát
triển, xem như một công cụ chính sách để
điều tiết nền kinh tế. Khác với các doanh
nghiệp tư nhân (DNTN), mục tiêu hoạt động
của các DNNN không chỉ nhằm tập trung
tối đa hoá lợi nhuận, mà trong hầu hết các
trường hợp đều nhằm thực thi các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, với
chức năng và nhiệm vụ được quy định rõ
ràng và sự kiểm soát chặt chẽ bởi nhà nước.
Đối với những ngành nghề, lĩnh vực mà khu
vực tư nhân không đầu tư, những ngành công
nghiệp còn non trẻ hoặc những lĩnh vực cần
nhiều vốn mà tư nhân không có khả năng
đầu tư, Chính phủ các nước có thể sử dụng
các DNNN để phát triển năng lực12 cho các
ngành, lĩnh vực đó với mục tiêu tăng công
ăn việc làm, hỗ trợ các nhà cung ứng nội
địa hoặc người tiêu dùng13; từ đó, tạo sự cân
đối của nền kinh tế, giải quyết các “khoảng
trống” phát triển do khu vực kinh tế tư nhân
để lại về mặt xã hội và phát triển kinh tế.
Bên cạnh các chức năng chính trị và xã
hội, DNNN cũng có chức năng khác như tạo
lợi nhuận, cung ứng dịch vụ xã hội và đóng
góp cho ngân sách nhà nước. Lợi nhuận thu
được từ việc đầu tư nguồn vốn nhà nước vào
các doanh nghiệp thương mại là nguồn tài
chính đáng kể cho các hoạt động của chính
phủ các nước, trong đó có Việt Nam.
Như vậy, cần phải thừa nhận rằng, các
quốc gia sẽ khó có thể loại bỏ hoàn toàn các
12 Capobianco and H. Christiansen, Competitive Neutrality and State-owned Enterprises: Challenges and Policy Options,
OECD Corporate Governance Working Papers, No. 1, 8 (OECD Publishing, 2011).
13 P. Kowalski, M. Büge, M. Sztajerowska and M. Egeland, State-owned Enterprises: Trade effects and Policy Implications,
OECD Trade Policy Paper, No. 147, TAD/TC/WP(2012)10/FINAL, 11(OECD Publishing, 2013), p.12.
14 Charles Lake, Barbara Weisel & Gary Hufbauer, The Urgent Challenges Posted by Stated owned and assited Enterprises
(Conf. Rpt., Global Services Summit 2012, )
15 Michel Cartland, Gérard Depayre & Jan Woznowski, Is Something Going Wrong in the WTO Dispute Settlement?, 46
J. World Trade 979, 1001 (2012).
DNNN cũng như nguồn vốn nhà nước ra
khỏi thị trường. Thậm chí, theo một số nhà
nghiên cứu, nguồn vốn nhà nước không chỉ
nên được giữ lại mà còn cần phải tiếp tục
được đưa vào nền kinh tế thị trường để thực
hiện đúng chức năng tạo lợi nhuận và cung
cấp các dịch vụ công cộng, an sinh xã hội.
Tuy nhiên, sự tham gia về tài chính
của nhà nước, sự kiểm soát của chính phủ
về chức năng và hoạt động của các DNNN
là một trong những nguyên nhân có thể tạo
ra lợi thế cho các doanh nghiệp này trong
quan hệ với các DNTN khác. Điều này có
thể tạo ra mối đe doạ nghiêm trọng đến sự
cạnh tranh công bằng giữa các doanh nghiệp
trong thị trường quốc gia14. Mặt khác, cùng
với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các
DNNN đã không chỉ bó hẹp các hoạt động
của mình trong thị trường nội địa mà còn mở
rộng phạm vi hoạt động đến các thị trường
quốc tế. Chính vì vậy, những ưu đãi đặc
biệt mà chính phủ có thể dành cho DNNN
thông qua các công cụ tài chính, chính sách
sẽ giúp các doanh nghiệp này có khả năng
cạnh tranh cao hơn trên thị trường quốc tế;
nhưng mặt khác, cũng có thể gây ảnh hưởng
đến các DNTN trong nước cũng như doanh
nghiệp của các quốc gia khác. Bên cạnh
đó, chính phủ các nước có thể sử dụng các
DNNN như một công cụ để trao các khoản
trợ cấp cho doanh nghiệp mà không bị giới
hạn bởi các quy định về trợ cấp chính phủ15.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22 Số 17(345) T9/2017
2. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước
trong các hiệp định tự do hoá thương mại
Xuất phát từ vai trò đặc biệt của
DNNN trong phát triển kinh tế - xã hội của
các quốc gia cũng như ảnh hưởng của các
doanh nghiệp này đối với thị trường nội địa
cũng như thị trường thế giới, pháp luật các
nước cũng như pháp luật quốc tế đều đã có
những quy định về DNNN. Tuy nhiên, cho
đến nay, một trong những vấn đề chính liên
quan đến DNNN trong hệ thống thương mại
quốc tế đó là sự thiếu vắng một khái niệm
rõ ràng và thống nhất về loại hình doanh
nghiệp này.
Hiệp định chung về Thuế quan và
Thương mại năm 1994 (GATT 1994) đã
đưa ra khái niệm “doanh nghiệp thương
mại nhà nước” (state- trading enterprise) tại
Điều 1716. Theo đó, “doanh nghiệp thương
mại nhà nước, hoặc () doanh nghiệp được
độc quyền hay đặc quyền thương mại” bao
gồm cả văn phòng thương mại (marketing
boards) và độc quyền nhập khẩu (import
monopolies)17. Bản Diễn giải về cách hiểu
Điều XVII của GATT 1994 đã đưa ra hai tiêu
chí để xác định doanh nghiệp thương mại
nhà nước mà các thành viên WTO có nghĩa
vụ thông báo về hoạt động của các doanh
nghiệp này cho Hội đồng Thương mại Hàng
hoá, đó là: “được trao quyền hoặc ưu đãi đặc
16 Mỗi bên ký kết cam kết rằng khi mỗi bên thành lập hoặc duy trì một doanh nghiệp thương mại nhà nước, hoặc khi phân
bổ hoặc dành cho bất kỳ một doanh nghiệp nào độc quyền hay đặc quyền thương mại, theo luật pháp hay trên thực tế,
các doanh nghiệp đó khi tiến hành mua bán thông qua xuất khẩu hay nhập khẩu sẽ tuân thủ các nguyên tắc chung về
không phân biệt đối xử đã nêu trong Hiệp định này đối với các biện pháp của chính phủ tác động tới hoạt động nhập
khẩu hay xuất khẩu của các DNTN”.
17 Phụ lục và giải thích đoạn 1 Điều 17 GATT 1994.
18 Nguyên gốc tiếng Anh: "Governmental and non-governmental enterprises, including marketing boards, which have
been granted exclusive or special rights or privileges, including statutory or constitutional powers, in the exercise of
which they influence through their purchases or sales the level or direction of imports or exports" – Nguồn: https://
www.wto.org/english/docs_e/legal_e/08-17.pdf.
19 OECD, Hướng dẫn của OECD về Quản trị công ty trong DNNN, OECD Publishing, 2005; Nguồn:
org/daf/ca/SOEGuidelinesVietnamese.pdf.
biệt, bao gồm các quyền được quy định trong
Hiến pháp hoặc các quyền theo quy định của
pháp luật” và “khi thực hiện các quyền này,
các doanh nghiệp này thông qua hoạt động
mua hoặc bán của mình gây ảnh hưởng đến
mức độ hoặc định hướng nhập khẩu hoặc
xuất khẩu”18. Như vậy, một doanh nghiệp
đáp ứng được hai tiêu chí trên thì dù doanh
nghiệp đó “thuộc chính phủ” hay “không
thuộc chính phủ” (governmental or non-
governmental enterprise) đều sẽ thuộc phạm
vi điều chỉnh của Điều 17 GATT 1994. Tuy
nhiên, có thể thấy, dù đã nhắc đến “doanh
nghiệp thương mại nhà nước” nhưng GATT
1994 vẫn chưa đưa ra được một khái niệm
cụ thể về loại hình doanh nghiệp này.
Trong Hướng dẫn về Quản trị công ty
trong DNNN năm 2005 (Hướng dẫn năm
2005), OECD đã chỉ rõ rằng, khi sử dụng
cụm từ “DNNN”, OECD nhắc đến “các
doanh nghiệp mà nhà nước có quyền kiểm
soát thông qua sở hữu toàn bộ, đa số hay
thiểu số quan trọng”19. Tuy nhiên, trong
Hướng dẫn năm 2015, OECD còn đưa ra
một giải thích khác về “DNNN”. Theo đó,
thuật ngữ này được hiểu là các doanh nghiệp
mà “nhà nước thực hiện quyền sở hữu”,
bao gồm “công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh (với tư
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 17(345) T9/2017
cách thành viên góp vốn)”20. Bên cạnh đó,
trong Hướng dẫn năm 2015, OECD còn
xác định, “doanh nghiệp công ích (statutory
corporations) được thành lập trên cơ sở một
văn bản pháp luật riêng biệt, cũng sẽ được
xem là DNNN nếu mục đích và hoạt động
hoặc một phần hoạt động của doanh nghiệp
đó mang tính chất thương mại”.
Như vậy, so sánh với Hướng dẫn năm
2005, khái niệm của “DNNN” của OECD
trong Hướng dẫn năm 2015 đã có sự thay đổi
nhất định. Nếu như trong Hướng dẫn năm
2005, OECD đã căn cứ vào tỷ lệ sở hữu cổ
phần hoặc vốn góp để xác định một DNNN
hay không, theo đó, một doanh nghiệp sẽ
chỉ là DNNN nếu nhà nước có tỷ lệ sở hữu
đáng kể về vốn góp hoặc cổ phần và trên cơ
sở đó có “quyền kiểm soát” đối với doanh
nghiệp, thì trong Hướng dẫn năm 2015, tỷ
lệ cổ phần hoặc vốn góp mà nhà nước nắm
giữ trong doanh nghiệp không phải là yếu
tố quan trọng để xác định DNNN mà chỉ
cần nhà nước có sở hữu cổ phần hoặc vốn
góp trong doanh nghiệp là đã đủ để xác định
doanh nghiệp đó là DNNN.
Tại Điều 12.8 Chương 12 của Hiệp
định về Tự do hoá thương mại giữa Hợp
chúng quốc Hoa Kỳ và Singapore21, khái
niệm “DNNN” (government enterprises)
được định nghĩa: “Đối với Hoa Kỳ là một
doanh nghiệp mà chính phủ sở hữu hoặc
kiểm soát thông qua lợi ích chủ sở hữu” và
“Đối với Singapore là một doanh nghiệp mà
20 OECD, OECD Guidelines on Corporate Governance of State-owned Enterprises, OECD Publishing, 2015, p. 15.
21 Hiệp định có hiệu lực từ ngày 01/01/2004. Nguồn: https://ustr.gov/trade-agreements/free-trade-agreements/
singapore-fta.
22 Nguồn: https://ustr.gov/sites/default/files/uploads/agreements/fta/singapore/asset_upload_file708_4036.pdf.
23 Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) được các bên thông qua vào tháng 10 năm 2015 và toàn văn Hiệp định
đã được công bố vào ngày 05/11/2015. Hiệp định được kí kết bởi 12 quốc gia khu vực Thái Bình Dương, bao gồm:
Australia, Brunei Darussalam, Canada, Chi-lê, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ
và Việt Nam.
chính phủ có ảnh hưởng quyết định”22. Một
điểm đáng lưu ý trong Hiệp định này là, cùng
một thuật ngữ nhưng Hoa Kỳ và Singapore
đã không thể đạt được đến sự thống nhất.
Trong khi Hoa Kỳ căn cứ vào yếu tố sở hữu
thì Singapore lại tập trung vào sự ảnh hưởng
của chính phủ đối với doanh nghiệp để xác
định một doanh nghiệp có phải là DNNN
hay không.
Tại Chương XVII của Hiệp định Đối
tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)23, khái
niệm “DNNN” được xác định trên cơ sở hai
yếu tố: thứ nhất, là doanh nghiệp chủ yếu
tham gia vào các hoạt động thương mại; thứ
hai, một trong các nước thành viên của TPP
trực tiếp sở hữu hơn 50 phần trăm cổ phần,
hoặc kiểm soát trên 50 phần trăm quyền biểu
quyết thông qua lợi ích chủ sở hữu; hoặc giữ
quyền chỉ định đa số thành viên ban quản
trị hoặc bất kỳ bộ máy quản lý tương đương
khác.
So sánh với khái niệm “DNNN” trong
Hướng dẫn của OECD năm 2015 cũng như
khái niệm của Hoa Kỳ trong Hiệp định tự do
hoá thương mại giữa Hoa Kỳ và Singapore,
có thể nhận thấy sự khác biệt với khái niệm
trong TPP. TPP đã căn cứ vào mức độ sở
hữu của nhà nước đối với doanh nghiệp để
xác định DNNN. Hơn thế nữa, TPP cũng đã
chỉ rõ tỷ lệ sở hữu nhà nước trong doanh
nghiệp phải là hơn 50 phần trăm cổ phần
hoặc hơn 50 phần trăm quyền biểu quyết.
Bên cạnh đó, căn cứ vào quyền bổ nhiệm
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
24 Số 17(345) T9/2017
thành viên, TPP cũng xác định những doanh
nghiệp mà nhà nước giữ quyền chỉ định
thành viên ban quản trị hoặc bộ máy quản lý
tương đương là DNNN thuộc phạm vi điều
chỉnh của Chương XVII của Hiệp định. Có
thể nhận thấy, cách tiếp cận về khái niệm
“DNNN” trong TPP khá tương tự với cách
tiếp cận của OECD trong Hướng dẫn năm
2005. Trong khi đó, so sánh với Hiệp định
Thương mại giữa Hoa Kỳ và Singapore, một
ưu điểm đáng kể trong khái niệm “DNNN”
trong Chương XVII của TPP đó là đã có một
định nghĩa chung dành cho 12 nước thành
viên chứ không phải 2 cách tiếp cận như
trong Hiệp định Thương mại giữa Hoa Kỳ
và Singapore.
EVFTA24 đã giải thích khái niệm
“DNNN” tại Điều 1.a Chương X. Theo đó,
“DNNN” có nghĩa là “một doanh nghiệp,
bao gồm công ty con,” mà nhà nước “trực
tiếp hay gián tiếp sở hữu hơn 50% số vốn
đăng ký hoặc quyền biểu quyết gắn liền với
cổ phần do doanh nghiệp phát hành; hoặc có
thể bổ nhiệm hơn nửa số thành viên của ban
giám đốc doanh nghiệp hoặc một cơ quan
tương đương; hoặc có thể thực hiện quyền
kiểm soát trên những quyết định mang tính
chiến lược của doanh nghiệp”. Tương tự như
TPP, EVFTA cũng dựa trên cơ sở mức độ sở
hữu vốn hoặc quyền biểu quyết và quyền bổ
nhiệm thành viên để xác định DNNN. Bên
cạnh đó, EVFTA còn bổ sung thêm tiêu chí
“quyền kiểm soát” các quyết định chiến lược
của doanh nghiệp để xác định doanh nghiệp
thuộc sở hữu nhà nước.
24 Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) đã kết thúc đàm phán ngày 1/12/2015. Ngày 1/2/2016 văn bản
hiệp định đã được công bố. Dự kiến EVFTA sẽ có hiệu lực từ năm 2018.
25 Điều 1 Luật DNNN năm 1995.
26 Điều 2 Luật DNNN năm 1995.
Từ những phân tích trên có thể nhận
thấy, khái niệm “DNNN” trong các hiệp định
tự do hoá thương mại song phương và đa
phương hiện vẫn còn chưa được hiểu thống
nhất. Trong các Hiệp định trong khuôn khổ
của WTO, thuật ngữ “doanh nghiệp thương
mại nhà nước” mới chỉ được đề cập đến mà
chưa có những tiêu chí cụ thể để xác định
loại hình doanh nghiệp này. Trong khi đó,
trong các Hiệp định tự do hoá thương mại
thế hệ mới mà đặc biệt là TPP và EVFTA,
các tiêu chí để xác định DNNN đã được đưa
ra một cách rất chi tiết và thống nhất. Nhìn
chung các văn bản này đều căn cứ trên cơ sở
mức độ sở hữu của nhà nước hoặc khả năng
kiểm soát của nhà nước đối với tổ chức và
hoạt động chính của doanh nghiệp để xác
định một doanh nghiệp có phải là DNNN
hay không.
3. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước
trong pháp luật Việt Nam
Ở Việt Nam, trước khi Luật Doanh
nghiệp năm 2014 có hiệu lực, khái niệm
DNNN được ghi nhận trong nhiều văn bản
pháp luật khác nhau với cách hiểu khác nhau.
Lần đầu tiên khái niệm về DNNN được ghi
nhận tại Luật Doanh nghiệp nhà nước năm
1995, theo đó, DNNN là tổ chức kinh tế do
Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức
quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt
động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu
kinh tế - xã hội do nhà nước giao25. DNNN
trong thời kỳ này có thể tồn tại dưới các hình
thức: doanh nghiệp độc lập, tổng công ty,
doanh nghiệp thành viên của tổng công ty26.
Tiếp đó, Luật DNNN năm 2003 ra đời thay
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
25Số 17(345) T9/2017
thế Luật DNNN năm 1995 và cũng đã đưa
ra định nghĩa: “DNNN là tổ chức kinh tế do
Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc
có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức
dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn” 27. So
sánh giữa Luật DNNN năm 2003 và Luật
DNNN năm 1995 có thể nhận thấy, khái
niệm “DNNN” đã có sự thay đổi đáng kể.
Luật DNNN năm 2003 đã xác định DNNN
không chỉ dựa vào tiêu chí sở hữu mà còn
căn cứ vào tiêu chí quyền chi phối. Nếu
như theo Luật DNNN năm 1995, chỉ những
doanh nghiệp mà nhà nước thành lập và đầu
tư vốn, hoàn toàn do nhà nước quản lý mới
được coi là DNNN, thì theo Luật DNNN
năm 2003, những doanh nghiệp không do
nhà nước thành lập và đầu tư vốn nhưng nhà
nước có cổ phần hoặc vốn góp chi phối cũng
được coi là các DNNN. DNNN theo Luật
DNNN năm 2003 có thể tồn tại dưới nhiều
hình thức như công ty nhà nước, công ty cổ
phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn.
Với mục đích hạn chế sự chồng chéo
của các văn bản pháp luật, xây dựng một
luật chung thống nhất về doanh nghiệp,
Quốc hội đã ban hành Luật Doanh nghiệp
năm 2005 thay thế cho Luật Doanh nghiệp
năm 1999 và Luật DNNN năm 2003. Theo
khoản 1 Điều 166 Luật Doanh nghiệp năm
2005, các DNNN đang hoạt động theo Luật
DNNN năm 2003 sẽ có 04 năm để chuyển
đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc
công ty cổ phần theo quy định của Luật
Doanh nghiệp năm 2005. Như vậy, trước
khi việc chuyển đổi DNNN hoàn thành thì
DNNN tồn tại dưới các mô hình theo cả hai
27 Điều 1 Luật DNNN năm 2003.
28 Khoản 2 Điều 88 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
luật (Luật Doanh nghiệp năm 2005 và Luật
DNNN năm 2003) là: DNNN (DNNN độc
lập, và tổng công ty nhà nước), Công ty cổ
phần nhà nước, công ty TNHH nhà nước
một thành viên, công ty TNHH nhà nước hai
thành viên trở lên; doanh nghiệp có cổ phần,
vốn góp chi phối của Nhà nước - là doanh
nghiệp mà cổ phần hoặc vốn góp của Nhà
nước chiếm trên 50% vốn điều lệ, Nhà nước
giữ quyền chi phối đối với doanh nghiệp.
Sau khi tất cả các DNNN được thành lập và
hoạt động theo quy định của Luật DNNN
đã được chuyển đổi thành công ty cổ phần
hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn, thì Luật
DNNN năm 2003 cũng chấm dứt sự tồn tại
và giá trị pháp lý của nó, mô hình tổ chức
pháp lý doanh nghiệp dưới hình thức DNNN
sẽ không còn và các DNNN sẽ không còn
hoạt động theo một luật riêng nữa.
Nhằm mục tiêu thống nhất các cách
hiểu khác nhau về DNNN cũng như phù
hợp với sự thay đổi của tình hình mới, Luật
Doanh nghiệp năm 2014 đã đưa ra một quy
định thống nhất về DNNN. Theo Khoản
8 Điều 3 Luật Doanh nghiệp năm 2014,
“DNNN là doanh nghiệp do Nhà nước nắm
giữ 100% vốn điều lệ”. Luật Doanh nghiệp
năm 2014 căn cứ trên tỷ lệ sở hữu vốn để
phân biệt giữa DNNN và doanh nghiệp khác.
Theo đó, chỉ những doanh nghiệp mà Nhà
nước sở hữu 100% vốn điều lệ mới được coi
là DNNN. Các doanh nghiệp mà Nhà nước
nắm cổ phần, vốn góp chi phối trước đây sẽ
không còn tư cách là DNNN nữa mà được
hoạt động độc lập với tư cách là các công
ty TNHH hoặc CTCP28. Mặt khác, do Nhà
nước là nhà đầu tư duy nhất trong DNNN
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
26 Số 17(345) T9/2017
nên Nhà nước cũng là chủ thể duy nhất nắm
quyền quyết định và chi phối các vấn đề về
tổ chức và quản lý doanh nghiệp mà không
chia sẻ quyền lực đó cho các cá nhân, tổ
chức khác. Theo quy định của Luật Doanh
nghiệp năm 2014, chỉ có một hình thức tổ
chức duy nhất của DNNN là Công ty TNHH
một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu
bao gồm: các công ty mẹ của tập đoàn kinh
tế nhà nước, công ty mẹ của tổng công ty
nhà nước, công ty mẹ trong nhóm công ty
mẹ - công ty con; công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên độc lập do Nhà nước
nắm giữ 100% vốn điều lệ29. Theo quy định
của Luật Doanh nghiệp năm 2014, DNNN
là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân,
thực hiện hạch toán kinh doanh, có tài sản
riêng và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó
về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình. Có thể nhận thấy, định nghĩa này đã
thu hẹp phạm vi các DNNN hơn rất nhiều so
với Luật DNNN năm 2003 và có nhiều điểm
tương đồng với khái niệm DNNN trong Luật
DNNN năm 1995.
Theo quan điểm của một số tác giả,
cách hiểu mới về “DNNN” trong Luật
Doanh nghiệp năm 2014 là hợp lý và phù
hợp với điều kiện thực tế khi Chính phủ
đang trong giai đoạn tái cơ cấu các DNNN
để tổ chức, cơ cấu lại nền kinh tế. Mặt khác,
với các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ
100% vốn điều lệ, kể cả trường hợp vốn Nhà
nước chi phối, thì Nhà nước chỉ tham gia với
tư cách một đồng chủ sở hữu, cổ đông của
doanh nghiệp như các đồng chủ sở hữu, cổ
đông khác và quản trị các doanh nghiệp này
không có gì khác biệt.
Tuy nhiên, khi so sánh giữa khái niệm
29 Điều 2 Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014.
“DNNN” theo quy định của Luật Doanh
nghiệp năm 2014 với định nghĩa trong các
Hiệp định về Tự do hoá thương mại mà Việt
Nam là thành viên, đặc biệt là các hiệp định
trong khuôn khổ WTO, TPP và EVFTA, có
thể nhận thấy sự khác biệt đáng kể. Trong
khi cả TPP và EVFTA đều chỉ yêu cầu về
tỷ lệ sở hữu vốn hoặc cổ phần của nhà nước
là trên 50% là đã đủ để xác định một doanh
nghiệp là DNNN thì Luật Doanh nghiệp
năm 2014 lại yêu cầu tỷ lệ này là 100%.
Bên cạnh tiêu chí về sở hữu vốn, cả TPP và
EVFTA cũng đều bổ sung thêm các yếu tố
như “quyền kiểm soát” về ban quản trị hoặc
các quyết định chiến lược thì Luật Doanh
nghiệp năm 2014 lại không đưa ra các yếu
tố này, mà chỉ thuần tuý dựa trên yếu tố sở
hữu vốn.
Sự khác biệt về khái niệm “DNNN”
trong quy định của pháp luật Việt Nam và
các hiệp định tự do hoá thương mại mà Việt
Nam đã ký kết hoặc là thành viên sẽ tạo ra
một số vướng mắc trong quá trình thi hành
các cam kết quốc tế của Việt Nam, đặc biệt
là các cam kết liên quan đến trợ cấp và các
biện pháp chống trợ cấp. Xuất phát từ vai trò
đặc biệt của DNNN trong nền kinh tế, doanh
nghiệp này vừa có thể là chủ thể được nhận
các ưu đãi, trợ cấp của chính phủ lại vừa
có thể đóng vai trò là chủ thể trung gian để
chính phủ trao trợ cấp cho các doanh nghiệp
khác. Trong khi đó, thực tiễn giải quyết tranh
chấp tại WTO đã cho thấy, trong một số
trường hợp, các quốc gia đã xác định DNNN
là “cơ quan công” (public body) theo quy
định tại Hiệp định về Trợ cấp và các biện
pháp đối kháng (Hiệp định SCM). Trong
vụ US-AD&CVD (China), Cơ quan phúc
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
27Số 17(345) T9/2017
thẩm (AB) đã xác định “một cơ quan công
theo quy định tại Điều 1.1(a)(1) của Hiệp
định SCM phải là một thực thể sở hữu, thực
thi hoặc được trao quyền của chính phủ”30.
Đồng thời, trong báo cáo của mình, AB đã
viện dẫn đến khái niệm “tư nhân” (private)
trong Oxford English Dictionary bao gồm
“dịch vụ hoặc doanh nghiệp được cung cấp
hoặc sở hữu bởi một cá nhân mà không phải
nhà nước hoặc một cơ quan công”31. Vì vậy,
DNNN không phải là cơ quan tư nhân bởi lẽ
Nhà nước luôn sở hữu vốn góp hoặc cổ phần
trong các doanh nghiệp này32. Nếu có đủ căn
cứ để chứng minh chủ thể này “sở hữu, thực
thi hoặc được trao quyền của chính phủ” thì
doanh nghiệp này sẽ được coi là “cơ quan
công”; khi đó, những đóng góp về tài chính
mà doanh nghiệp này trao cho doanh nghiệp
khác sẽ có thể được coi là “trợ cấp” theo quy
định tại Điều 1.1(a)(1) của Hiệp định SCM.
Điểm đáng lưu ý trong vụ việc này là Cơ
quan phúc thẩm đã xác định DNNN không
phải là “cơ quan tư” mà không cần xem xét
đến tỷ lệ sở hữu vốn của nhà nước trong các
doanh nghiệp này. Tuy nhiên, Cơ quan phúc
thẩm cũng khẳng định, tuỳ từng trường hợp
và tuỳ từng vụ việc cụ thể, DNNN có thể bị
xem là “cơ quan công” theo quy định của
Điều 1.1.(a)(1) của Hiệp định SCM. Trong
bối cảnh đó, việc đặt ra yêu cầu 100% vốn
nhà nước theo quy định của Luật Doanh
nghiệp năm 2014 có thể khiến các doanh
nghiệp có vốn nhà nước khác cũng như các
cơ quan có thẩm quyền không cẩn trọng
trong các hoạt động của mình và có thể trao
30 WTO Appellate Body Report, United States - Definitive Anti-Dumping and Countervailing Duties on Certain Products
from China (US-AD & CVD (China)), WT/DS379/AB/R11, thông qua ngày 11/03/2011, đoạn 317.
31 WTO Appellate Body Report, United States - Definitive Anti-Dumping and Countervailing Duties on Certain Products
from China (US-AD & CVD (China), tlđd, đoạn 292.
32 Ru Ding, ‘Public Body’ or Not: Chinese State-Owned Enterprise, Journal of World Trade, p. 179.
các khoản trợ cấp bị cấm hoặc trợ cấp có
thể đối kháng theo quy định của Hiệp định
SCM. Trong khi đó, dù TPP và EVFTA chưa
có hiệu lực, nhưng sự khác biệt giữa khái
niệm DNNN trong TPP và EVFTA cũng là
điểm cần xem xét để sửa đổi các quy định
của pháp luật Việt Nam cho phù hợp với các
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Trên cơ sở quy định trong các Hiệp
định về Tự do hoá thương mại như TPP,
EVFTA cũng như kế thừa quy định về
DNNN tại Luật DNNN năm 2003, có thể
đưa định nghĩa DNNN như sau: DNNN là
doanh nghiệp mà Nhà nước có quyền kiểm
soát thông qua sở hữu trên 50% vốn điều lệ
hoặc quyền chỉ định hơn một nửa số thành
viên của ban quản trị hoặc một cơ quan
tương đương; hoặc có thể thực hiện quyền
kiểm soát trên những quyết định mang tính
chiến lược của doanh nghiệp.
Trong thời gian qua, DNNN được
một số quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các
quốc gia đang phát triển như Trung Quốc,
Việt Nam sử dụng như một công cụ nhằm
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế
cũng như thực hiện các nhiệm vụ chính
trị, xã hội khác. Thực tiễn thương mại thế
giới trong thời gian qua cũng đã cho thấy,
các DNNN đã phát triển ngày càng nhanh
chóng và có ảnh hưởng đáng kể trong nền
kinh tế toàn cầu. DNNN có những đóng góp
tích cực cho nền kinh tế thế giới như cung
cấp cơ sở hạ tầng tốt hơn, tạo sự ổn định
cho nền kinh tế trong bối cảnh khủng hoảng
kinh tế cũng như tạo ra các lợi ích cho xã hội
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
28 Số 17(345) T9/2017
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Capobianco and H. Christiansen, Competitive Neutrality and State-owned Enterprises: Challenges and
Policy Options, OECD Corporate Governance Working Papers, No. 1, 8 (OECD Publishing, 2011).
2. Capobianco and H. Christiansen, Competitive Neutrality and State-owned Enterprises: Challenges and
Policy Options, OECD Corporate Governance Working Papers, No. 1, 8 (OECD Publishing, 2011).
3. Charles Lake, Barbara Weisel & Gary Hufbauer, The Urgent Challenges Posted by Stated owned and
assited Enterprises (Conf. Rpt., Global Services Summit 2012,
summit-2012).
4. Ines Willemyns, Disciplines on State-owned Enterprises in TPP: Have expectations been met?, Working
paper No.168, Leuven Centre for Global Governance Studies, tháng 1/2016.
5. Kikeri, S. and A. Solo, State enterprises. What remains? Public Policy for the Private Sector. No. 303,
February 2006, World Bank.
6. Michel Cartland, Gérard Depayre & Jan Woznowski, Is Something Going Wrong in the WTO Dispute
Settlement?, 46 J. World Trade 979, 1001 (2012).
7. OECD, Hướng dẫn của OECD về Quản trị Công ty trong DNNN, OECD Publishing, 2005.
8. OECD, OECD Guidelines on Corporate Governance of State-owned Enterprises, OECD Publishing, 2015.
9. OECD, OECD Working Group on Privatization and Corporate Governance of State Owned Assets,
Occasional Paper: State owned enterprises in China: Reviewing the evidence, 2009.
10. OECD, OECD Working Group on Privatization and Corporate Governance of State Owned Assets,
Occasional Paper: State owned enterprises in India: Reviewing the evidence, 2009.
11. P. Kowalski, M. Büge, M. Sztajerowska and M. Egeland, State-owned Enterprises: Trade effects and Policy
Implications, OECD Trade Policy Paper, No. 147, TAD/TC/WP(2012)10/FINAL, 11(OECD Publishing,
2013).
12. Ru Ding, ‘Public Body’ or Not: Chinese State-Owned Enterprise, Journal of World Trade
13. Veysel Avasar, Cem Karayalcin and Mehmet Ali Ulubasoglu, State-owned enterprises, inequality, and
political ideology, Economics and Politics, Volume 25, tháng 11 năm 2013.
14. WTO Appellate Body Report, United States - Definitive Anti-Dumping and Countervailing Duties on
Certain Products from China (US-AD & CVD, China), WT/DS379/AB/R11, thông qua ngày 11/3/2011.
thông qua cung ứng dịch vụ công ích. Bên
cạnh đó, DNNN cũng có thể gây ảnh hưởng
đến sự cạnh tranh công bằng trên thị trường
thế giới do doanh nghiệp này có thể được
hưởng những ưu đãi về tài chính hoặc chính
sách của chính phủ cũng như có thể được
sử dụng như công cụ trung gian để trao trợ
cấp cho các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên,
một trong những vướng mắc trong việc điều
chỉnh hoạt động của các DNNN trong phạm
vi quốc gia cũng như trong nền kinh tế thế
giới là sự thiếu thống nhất về khái niệm loại
hình doanh nghiệp này trong pháp luật quốc
gia cũng như pháp luật quốc tế. Trong bối
cảnh Việt Nam gia nhập ngày càng nhiều
các hiệp định tự do hoá thương mại, sự khác
biệt giữa các quy định của pháp luật Việt
Nam với các hiệp định này có thể sẽ tạo ra
khó khăn cho các doanh nghiệp cũng như
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong
việc áp dụng và thực thi các cam kết quốc
tế. Vì vậy, cần nhanh chóng nghiên cứu và
sửa đổi khái niệm DNNN trong Luật Doanh
nghiệp năm 2014 cho phù hợp với pháp luật
quốc tế cũng như pháp luật của các nước
trên thế giới
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
29Số 17(345) T9/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thong_nhat_khai_niem_doanh_nghiep_nha_nuoc_theo_cac_hiep_din.pdf