Tuy nhiên hiệu lực quản lý của BQL các KCN chưa phải là thực quyền, mặc dù BQL cũng muố giải quyết nhanh gọn, tại chỗ mọi vướng mắcphát sinh, giảm thiẻu tối đa phiền hà cho các nhà đầu tư nhưng trong quá trình quản lý, việc giải quyết những khúc mắc về chủ trương chinh sách nào mang tính liên ngành, liên cấp lại rất chậm. Bản thân tổ chức bộ máy quản lý vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của KCN : Cán bộ của các ban quản lý thường rất trẻ, mới ra trường, phần lớn chỉ biế ngoại ngữ và vi tính còn các nghiệp vụ khác đươc uỷ quyền thì gần như không có gì.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thu hút đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh xuất khẩu, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lãnh thổ ngoài khu chế xuấtbằng hệ thống tường rào, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc thủ tướng Chính phủ kí quyết định thành lập”. KCX được hưởng ưu đãi về nhiều mặt: nhập khẩu nguyên vật liệu , tuế công ty, được cung cấp cơ sở hạ tầng tốt và các điều kiện khác để người sản xuất tại đây có lợi nhuận cao nhất.. Khái niệm này được hiểu theo nghĩa hẹp.
Như vậy dù theo định nghĩa nào thì KCX đều được hiểu là khu vực tự do, nằm ngoài chế độ thuế quan của một nước, chuyên sản xuất hàng xuất khẩu và thực hiện các dịch vụ cho xuất khẩu.
1.2 Khái niệm KCN:
Hiện nay trên thế giới có hai cách hiểu về KCN:
Thứ nhất, KCN là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản xuất công nghiệp, đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ sản xuất công nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại, văn phòng nhà ở..Theo quan niệm này, KCNthực chất là khu hành chính - kinh tế, trong đó sản xuất công nghiệp là hoạt động chủ yếu, còn các hoạt động khác chỉ mang tính chất bổ trợ cho sản xuất công nghiệp.
Thứ hai, KCN là khu vực có giới hạn lãnh thổ nhất định, trong đó tập trung các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ sản xuất hàng công nghiệp, không có dân cư sinh sống.
Việt nam định nghĩa “KCN là khu tập trung các doanh nghiệp sản xuất hàng công nghiệp, có danh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ kí quyết định thành lập. Trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất.”
ĐẶC ĐIỂM :
2.1 Đặc điểm KCX:
Mặc dù các nước khác nhau thì có quy định cụ thể về KCX khác nhau somg một KCX điển hình sẽ có các đặc điểm:
Một là : nhập khẩu tự do nguyên vật liêu và không hạn chế về số lượng. Đây là ưu đãi đặc biệt so với sản xuất trong nước. Mặt khác doanh nghiệp trong KCX còn được miễn thuế doanh thu, thuế xuất khẩu đối với sản phẩm sản xuất ra và xuất khẩu. Hơn nữa, DNCX còn được nhận vài sự hỗ trợ trong quan hệ hợp tác với nền kinh tế trong nước.
Hai là, các DNCX thường được Chính phủ nước chủ nhà quy định miễn thuế thu nhập công ty và thuế lãi cổ phần từ 3 đến 10 năm.
Ba là, DNCX thường được ưu đãi trong hành chính như cung cấp thủ tục hải quan nhanh chóng, miễn thực nhiều quy định được áp dụng trong nước (hạn chế người nước ngoài chuyển lợi nhuận về nước, hạn chế người nước ngoài quảm lý..)
Bốn là, DNCX được sử dụng cơ sở hạ tầng tốt (đường xá, điện, nước, điện thoại..) và được trợ cấp trong sử dụng một số yếu tố : thuế điện, nước rất thấp ..
Tuy nhiên KCX có những hạn chế : do chúng là các khu đất riêng biệt nên khó có thể điều hành việc khuyến mại, phát triển dịch vụ đến mức đủ hấp dẫn nhà đầu tư. Hơn nữa nếu có sự sai lầm trong lựa chọn vị trí thì việc phát triển thành công KCX là rất khó.
Vì vậy, theo đánh giá của ngân hàng thế giới, nhìn chung trên thế giới có khoảng 40 đến 50% KCX đã thành công, chủ yếu tập trung ở Châu Á số lại nằm ở châu Mỹ La Tinh và khu vực Ca-ri-bê ; 20-30% thành công ở từng mặt, còn lại tới 30% là thất bại tập trung vào các khu vực Châu Phi và Trung Đông.
KCN và KCX khác nhau ở chỗ :
2.2 Phân biệt sự khác nhau giữa KCN và KCX
KCX xây dựng để thu hút các đơn vị sản xuất sản phẩm xuất khẩu còn KCN được mở ra cho tất cả các ngành công nghiệp (bao gồm cả sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu thụ trong nước). Như vậy, trong KCN có thể có DNCX.
KCN cho phép các công ty thuộc mọi thành phần kinh tế (bao gồm cả công ty100% vốn trong nước).
Doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nếu nằm trong KCN sẽ được hưởng ưu đãi như trong KCX và cũng sẽ được hưởng ưu đãi như trọng KCN.
2.3 Các điều kiện trong phân bố KCN:
KCN là hình thức tổ chức không gian lãnh thổ công nghiệp luôn gắn liền phát triển công nghiệp với xây dựng kết cấu hạ tầng và hình thành mạng lưới đô thị, phân bố dân cư hợp lý. Do vậy việc phân bố KCN phải đảm bảo các điều kiện;
Có khả năng xây dựng kết cấu hạ tầng thuận lợi, có hiệu quả, có đất để mở rộng, nếu có thể liên kết thành cụm công nghiệp. Đặc biệt là phải có quy mô phù hợp với đặc điểm công nghệ chính gắn với điều kiện kết cấu hạ tầng.
Có thị trường đầu vào (lao động, nguyên nhiên vật liệu..) đầy đủ và thuận lợi và có thể dễ dàng thay thế khi có sự cố sảy ra.
Có thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Kết hợp chặt chẽ phát triển KCN với quy hoạch đô thị, phân bố dân cư, đảm bảo an ninh quốc phòng.
Phải đảm bảo điều kiện kết cấu hạ tầng đặc biệt là các công trình kỹ thuật đấu nối với hạ tầng trong khu như : điện, nước, điện thoại..
Do vậy việc lựa chọn vị trí để xây dựng KCN là hết sức quan trọng bởi nó không chỉ quýet định sự thành bại của bản thân KCN mà còn ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế của vùng, của đất nước.
MỤC TIÊU CỦA KCN VÀ KCX:
Ngày nay KCN- KCX đã trở thành một hình thức rất phổ biến trên thế giới bởi vì nó là nơi hội tụ mục tiêu của các nhà đầu tư và của nước chủ nhà.
3.1 Mục tiêu của nhà đầu tư:
Di chuyển các ngành công nghiệp không đòi hỏi trình độ kĩ thuật cao, các ngành công nghiệp đã tiêu chuẩn hoá, các ngành công nghiệp đòi hỏi nhiều tài nguyên và lao động sống.
Tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Tận dụng chế độ ưư đãi về tài chính của nước chủ nhà cho hoạt động sản xuất của công ty ( miễn giảm thuế, phí dịch vụ với giá rẻ..).
Khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường trong nước.
3.2 Mục tiêu của nước chủ nhà :
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để bổ sung nguồn vốn thiếu hụt, học tập kỹ nănglao động và kinh nghiệm quản lý tiên tiến .. thúc đẩy quá trình phát triển trong nước.
Khai thác thị trường trong nước, tạo nguồn hàng xuất khẩu, cải thiện cán cân thương mại, góp phần hội nhập nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Thông qua việc cung cấp các sản phẩm có chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm từng bước nâng cao đời sống nhân dân, đồng thời thông qua cạnh tranh góp phần thúc đẩy phát triển các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế.
Tạo việc làm: phát triển KCN-KCX sẽ tạo thêmviệc làm góp phần giải quyết nận thát nghiệp cao ở các nước đang phát triển.
4.. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG KCN-KCX Ở VIỆT NAM
Nền kinh tế nước ta vẫn đang phát triển ở trình độ thấp kém, còn thấp xa sovới cả các nước trong khu vực, máy móc, công nghệ, thiết bị hầu hết là lạc hậu, năng xuất lao động và chất lượng thấp, sản phẩm có tính cạnh tranh kém.. Để thực hiện CNH-HĐH, xây dựng nền công nghiệp hướng vào xuất khẩu thì nhu cầu về vốn cũng như khoa học công nghệ là khá lớn.Trong khi đó tỷ lệ tiết kiệm trong nước mặc dù có tăng sau những cải cách kinh tế nhưng vẫn còn quá thấp. Để từng bước khắc phục tình trạng khó khăn thì chúng ta càn phải xây dựng thành công KCN-KCX. Thật vậy, xây dựng KCN-KCX chúng ta sẽ:
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia và tập đoàn tư bản lớnđể xây dựng các các ngành công nghiệp xuất khẩu.
Khắc phục tình trạng yếu kém về kết cấu cơ sở hạ tầng trên diện rộng và nguồn vốn đầu tư hạn hẹp.
Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong kim ngạch và cơ cấu hàng hàng xuất khẩu trên cơ sở phát triển nhanh các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu có sự tham gia của các công ty nước ngoài.
Tạo môi trường pháp lý riêng có nhiều ưu đãi với cơ chế tập trung, có hiệu quả, thủ tục hành chính đơn giản thông thoáng cho nhà đầu tư trong KCN-KCX.
KCN- KCX là giải pháp có hiệu quả đối với vấn đề tạo công ăn việc làm, đào tạo cán bộ quản lý và nâng cao trình độ tay nghề đội ngũ lao động.
Nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của KCN-KCX từ tháng 10 năm1991 Chính Phủ đã ban hành quy chế về KCX và tháng 4 năm 1997 đã ban hành quy chế về KCN. Hoạt động của KCN-KCX đã troẻ thành một nét mới đặc thù trong nền kinh tế đất nước, góp phần không nhỏ và sự phát triển kinh tế.
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN VÀ THU HÚT FDI VÀO KCN-KCX
I - Thực trạng thu hút FDI vào việt nam thời gian qua
Cùng với việc ban hành Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam cuối năm 1987, hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế năng động này ngày càng có vai trò quạn trọng, bổ sung nguồn vốn và đóng góp tích cực cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong những năm 1991 đến 1995, vốn FDI chiếm 25,7% và từ năm 1996 đến nay, chiếm gần 30% tổng vốn đầu tư của toàn xã hội, thúc đẩy khai thác phát huy nhiều nguồn lực trong nước, góp phần giữ vững nhịp độ tăng trưởng kinh tế hàng năm. Tỷ lệ đóng góp của khu vực ĐTTTNN trong GDP cũng tăng dần qua các năm, từ năm 1992 đến năm1999 lần lượt là :2%; 3,6%; 6,1%; 7,4%; 9,1%; 9%; 10,1% ;10,3%. Đến nay đã có gần 3100 dự án của 65 nước và vùng lãnh thổ được cấp giấy phép, tổng vốn đầu tư đăng ký gần 43 tỷ USD trong đó vốn tăng thêm của các dự án đang thực hiện là trên 5,5 tỷ USD. Trừ các dự án hết hạn, giải thể, hiện có khoảng 2500 dự án còn hiệu lực với vốn đăn ký đạt gần 36 tỷ USD. Vốn thực hiện đạt gần 18 tỷ USD và hiện chiếm 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. trong giai đoạn từ 1991 đến nay đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực mặc dù đã có nhiều thăng trầm, đặc biệt vào giai đoạn cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu Á năm1997. Qua bảng dưới đây chúng ta phần nào thấy được bức tranh toàn cảnh tình hình FDI vào Việt Nam
Năm
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000 6t tháng
Vốn đăng ký
1014
1658
2723
4404
7437
8298
5443
2356
151
483
Vốn thực hiện
213
394
1099
1946
2617
2646
3250
1956
100
600
% giẩm VĐK
-34,4
-43,6
-35,9
-43
% giảm VTH
-40
-20
-23
B1:Tình hình đầu tư qua cac năm( Triệu USD ) Nguồn : Bộ KH&ĐT
STT
Ngành
Tổng vốn đầu tư
Tỷ trọng (%)
1
Công nghiệp và xây dựng
18,5
51
2
Nông lâm ngư nghiệp
1,4
4
3
Dịch vụ
16,5
45
B2:Cơ cấu FDI theo ngành( Tỷ USD ) Nguồn : Bộ KH&ĐT
II - SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KCN -KCX Ở VIỆT NAM
1. QÚA TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KCN - KCX
Ở VIỆT NAM:
Kể từ khi KCX Tân Thuận - TpHCM ra đời vào cuối năm 1991, đến nay, cả nước đã hình thành mạng lưới 65 KCN và 3 KCX, phân bổ rộng trên các vùng của cả nước. Qúa trình xây dựng và phát triển các KCN-KCX Việt Nam chúng ta có thể chia thành hai giai đoạn:
1.1 Giai đoạn 1988-1994
Mặc dù, khái niệm KCX lần đầu tiên được đề cập trong Luật đầu tư nước ngoài vào năm 1987 nhưng cho đến tháng 10 năm 1991 thì Nghị định 322\HĐBT do Hội đồng Bộ trương ban hành thì định nghiã về KCX, chủ thể đầu tư, phạm vi đầu tư, hình thức đầu tư, tổ chức quản lý và một số chế độ có liên quan mới được quy định trong Nghị định này. Cũng theo quy chế này thì chủ đầu tư vào KCX sẽ được hưởng những ưu đãi như:
Doanh nghiệp được miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị, phụ tùng, vật tư, nguyên vật liệu và hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài; đặc biệt là miễn thuế đối với sản phẩm và hàng hoá xuất khẩu ra nước ngoài;
Về thuế lợi tức: doanh nghiệp thuộc khu vực sản xuất được hưởng mức thuế lợi tức 10% và được miễn thuế 4 năm kể tư khi kinh doanh bắt đầu có lãi; đối với doanh nghiệp thuộc lĩnh vực dịch vụ thì mức thuế xuất là 15% và thời gian miễn thuế là 2năm.
So với các doanh nghiệp bên ngoài KCX cũng như các nước trong khu vực thì các doanh nghiệp trong KCX của chúng ta được hưởng nhiều ưu đãi hơn: thuế xuất thấp hơn, danh mục ưu đãi dài hơn. Ví dụ như Trung Quốc mức thuế xuất 15%, 20% và thời gian miễn thuế là 2 năm cho cả hai khu vực sản xuất và dịch vụ.
Mặc dù quy chế KCX ban hành vào tháng 10 năm 1991 nhưng việc chuẩn bị để xây dựng KCX đầu tiên (KCX Tân Thuận, tp Hồ Chí Minh) đã được bắt đầu từ năm 1989. Sau đó trong giai đoạn này lần lượt 5 KCX đã ra đời :KCX Linh Trung - tp HCM (1992); KCX An Đồn- Đà Nẵng và KCX Hải Phòng (1993); KCX Nội Bài và Cần Thơ (1994). Diện tích toàn bộ 6 khu là 937 ha, tổng số vốn đầu tư của các dự án lên tới 315 triệu USD, dự tính có khoảng 690 đến 770 nhà máy, xí nghiệp được thành lập khi các KCX đi vào hoạt độngvà toàn bộ diện tích đi vào hoạt động.
Tuy nhiên sau 3 năm hoạt động, việc phát triển KCX tỏ ra không thành công: trong 6 khu chỉ có KCX Tân Thuận được đưa vào hoạt động; KCX Hải Phòng bị thu hồi giấy phép hoạt động; các khu còn lại tốc độ cây dựng rất chậm. Trong thời kỳ này chỉ có 28 trong cố 900 dự án đầu tư nước ngoài vào khu; số vốn đầu tư vào KCX chỉ đạt 3.3% số vốn đã đăng kí và 8% các nhà đầu tư vào KCX trong tổng số các nhà đầu tư được cấp giấy phép. Trong đó, riêng KCX Tân Thuận đã thu hút 89.% số dự án và 79.4% tổng số vốn đầu tư.
Tất cả các dự án doanh ngiệp KCX đều là các dự án 100% vốn nước ngoài. Việc đóng góp của KCX đối với xuất khẩu không đáng kể do thời kì này phần lớn các doanh nghiệp mới bắt đầu đi vào hoạt động.
1.2 Giai đoạn 1995 đến nay
Để tránh cho KCX gặp phải thất bại, kể từ tháng 10 năm 1995 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định cho phép chuyển các KCX hoạt động kém hiệu quả thành các KCN tập trung. Hai KCX Nội Bài Cần Thơ là những KCX đầu tiên trở thành KCN. Đồng thời ở Việt Nam xuất hiện loại hình hỗn hợp giữa KCX và KCN. Kể từ khi Nghị định 192/cp về quy chế KCN, KCN đã tỏ ra thích hợp hơn với điều kiện Việt Nam, khai thác được những lợi thế sẵn có của đất nước như:
Có thể thúc đẩy được xuất khẩu, mà vẫn khai thác được thị trường nội địa.
Những doanh nghiệp có khả năng xuất khẩu 100% thì có thể thành lập trong KCX nằm trong KCN được hưởng mọi ưu đãi như doanh nghiệp chế xuất.
Có thể thu hút được cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài vào khu.
Sau khi ban hành quy chế này, hàng loạt các KCN được ra đời, chủ yếu tập trung vào những vùng kinh tế trọng điểm : Hà Nội, Hải Phòng, TpHCM.
Trong những năm đầu, với chủ trương xây dựng KCN-KCX để tạo môi trường đầu tư hấp dẫn nhằm thu hút ĐTTTNN nên hầu hết các KCN- KCX đều do các doanh nghiệp có vốn nước ngoài đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Các KCN- KCX do nước ngoài xây dựng có hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, chất lượng cao có thể đáp ứng được đòi hỏi của các nhà đầu tư nước ngoài cho yêu cầu sản xuất sản xuất sản phẩm chất lượng cao, phục vụ xất khẩu. Từ năm 1995 các KCN do doanh nghiệp trong nước xây dựng ngày càng nhiều, thường tập trung ít vốn hơn, vừa xây dựng vừa khai thác đem vào kinh doanh, hướng chủ yếu vào ngành công nghiệp mang định hướng xuất khẩu nhưng vẫn có thể tiêu thụ trên thị trường trong nước và cũng đã tạo ra những kết quả đáng khích lệ.
Do quy chế KCN và quy chế KCX có nhiều điểm khác nhau nhưng cũng có nhiều điểm trùng nhau nên đến 24/4/1997 Chính Phủ đã ban hành Nghị Định 36/cp về quy chế KCN-KCX thay thế cho các quy chế trước đây, quy chế này đã đưa ra một số ưu đãi hơn cho các doanh nghiệp trong KCN-KCX, nhằm thu hút mạnh mẽ đầu tư vào khu.
2. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA KCN-KCX:
2.1. Đánh giá về phân bố và hình thức đầu tư trong KCN-KCX:
Đến nay chúng ta đã hình thành mạng lưới 68 KCN (trong đó có 1 KCNC, 3KCX và 64 KCN ) được phân bố trên 27 tỉnh, phù hợp với nhịp độ phát triển và với lợi thế của các vùng kinh tế trên cả nước: miền Bắc có 14, miền Trung có 13, miền Nam có 41 trong đó có 20 khu đạt trình độ hiện đại,13 khu có vốn ĐTNN để xây dựng phát triển cơ sở hạ tầngvà có điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài. Tổng diện tích chiếm đất của các KCN, KCX chưa kể KCN Dung Quất là trên 1vạn ha. Tổng vốn đầu tư phát triển hạ tầng là 2033 triệu USD, trong đó vốn đầu tư nước ngoài là 40%, vốn trong nước là 60%. Vốn thực hiện đạt dưới 50%, có 22 KCN, KCX đã xây dựng hoàn chỉnh, hoặc căn bản đã hoàn thành cơ sở hạ tầng.
So với số dự án và số vốn đăng kí của tất cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được cấp giấy phép hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài thì tỷ trọng FDI vào KCN-KCX chỉ đạt 18% về dự án và 18.5% về vốn đăng kí. Hầu hết các doanh nghiệp KCN là doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, số lượng các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp trong nước là rất nhỏ và thường được thành lập trước khi ra đời KCN vì trong KCN thì các doanh nghiệp phải thuê đất với giá cao hơn bên ngoài, hơn nữa, các doanh nghiệp Việt Nam không còn có thể dùng quyền sử dụng đất để góp vốn vào liên doanh.
2.2. Đánh giá về tốc độ triển khai
Trừ 3 KCX Tân Thuận, Linh Trung, Cần Thơ được cấp giấy phép từ năm 1991-1992 còn các KCN khác được cấp giấy phép từ năm 1994 trở về đây. Riêng năm 1997 thành lập 22 KCN trong đó có 11 KCN phủ kín được trên 50% diện tích đất công nghiệp. Theo số liệu thống kê năm 1999 có 79 dự án FDI với số vốn 219 triệu USD được cấp giấy phép vào KCN-KCX tăng 43,6% so với số dự án thu hút được năm 1998. Đầu tư trong nước có 108 dự án với tổng số vốn là 2.887 tỷ đồng, tăng gần 4 lần so với năm 1998.
Do tính chất quan trọng của KCN nói chung và KCNC nói riêng hhối với quá trình phát triển kinh tế của các nước, hiện nay, tuy đã tồn tại nhiều khu khoa học- công nghiệp, nhiều nước vẫn tiếp tục có kế hoạch xây dựng nhiều KCNC mới đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Việ Nam cũng đã xây dựng 2 KCNC đầu tiên của mình là KCNC Hoà Lạc và KCNC thành phố Hồ Chí Minh với diện tích 1600 ha.
Hiện nay có rất nhiều các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ nằm xen kẽ trong các khu dân cư gây tiến ồn, khói bụi và những ô nhiễm khác về môi trường. Hiện nay có nhiều địa phương chủ trương xây dựng các KCN vừa và nhỏ để từng bước di dời các cơ sở sản xuất này ra ngoài khu vực dân cư. Ở Hà Nội đã tiến hành xây dựng 2 KCN vừa và nhỏ với diện tích mỗi khu từ 15 đến 20 ha, với giá thuê lại đất hợp lý, phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp vừa và nhỏ nên đến nay số số doanh nghiệp đăng kí thuê lại đất đã lấp đầy 100% diện tích.
MỘT SỐ CHỈ TIÊU VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA KCN VÀ KCX TÍNH ĐẾN
30 THÁNG 6 NĂM 2000 (được thành lập và hoạt động theo NĐ36/CP)
STT
Chỉ tiêu
Số liệu
1
TỔNG SỐ KCN-KCX
Trong đó: KCX
68 khu
3 khu
2
Tổng diện tích đất ( không kể Dung Quất)
11.000 ha
3
Tổng số vốn xây dựng hạ tầng
Trong đó đã thực hiện
2.033 triệu USD
40%
4
Số doanh nghiệp thành lập trong khu
Trong đó doanh nghiệp có FDI
1090 doanh nghiệp
600 dn (55%)
5
Tổng số vốn đầu tư đăng kí
Trong đó FDI
8,07 Tỉ USD
6,5 Tỉ USD (80%)
6
Tổng diện tích đất đã cho thuê
2300 ha
(35%đất công nghiệp)
NGUỒN BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
Trong những năm gần đây, nguồn ĐTNN vào Việt Namcó xu hướng giảm sút mạnh: năm 1999 chỉ bằng 21% năm 1998 và 6 tháng năm 2000 mặc dù có tăng cả về số dự án cũng như số vốn nhưng vẫn thấp hơn năm 1996. Nhưng đối với khả năng đầu tư vào KCN-KCX tuy không tăng mạnh nhưng không giảm nhanh so với tình hình đầu tư nước ngoài. Nguyên nhân của tình trạng trên là FDI vào Việt Nam trong những năm qua chủ yếu là từ Nhật Bản, các nước NICs và ASEAN, trong khi đó nền kinh tế của các nước này lại bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nên họ buộc phải cắt giảm đầu tư ra nước ngoài. Hơn nữa, trong khi Việt Nam thay đổi chính sách đầu tư (sửa đổi luật đầu tư năm 1996) đã làm cho các nhà đầu tư e ngại chờ đợi thì những nước thu hút đầu tư lớn như Trung Quốc, Ấn Độ và các nước trong khu vực lại dang triêt để thực hiện chính sách thu hút FDI
Theo quy hoạch đến năm 2010 cả nước sẽ có 96 KCN tuy nhiên tốc độ phát triển KCN-KCX phải cân xứng với tốc độ phát triển CNH-HĐH đất nước nên vấn đề không phải số lượng KCN được cấp giấy phép mà là khả năng lấp đầy KCN bằng các dự án. Phát triển KCN hợp lý là việc làm cần thiết nếu không sẽ dẫn tới 2 hiện tượng phổ biến:
Một là: Xây dựng xong KCN mà ít người thuê mướn sẽ gây lãng phí nghiêm trọng về vốn và quỹ đất đai.
Hai là: Cạnh tranh không lành mạnh giữa các KCN làm giảm mạnh tiền thuê đất đai, nhà xưởng làm cho Nhà nước thất thu thuế, các doanh nghiệp KCN làn ăn kém hiệu quả.
Đến nay chúng ta đã có 21 KCN lấp đầy trên 50% diện tích đất công nghiệp, được đánh giá là hoạt động có hiệu quả trong giai đoạn đầu, riêng thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương và Đồng Nai đã có 16 khu dược lấp đầy 50%.
2.3. Đánh giá về cơ chế quản lý Nhà nước đối với KCN và KCX
Từ những văn bản đầu tiên trên nghịi định số 322 của HĐBT ngày 18 thánh 10 năm 1991 về KCX tại Việt Nam, đến nay loại hình này được đề cập và chi tiết thi hành trong luật ĐTNN, đặc biệt là nghị định 10/cp ban hành ngày 23 tháng 10 năm 1998 về một số biện pháp khuyến khích và đảm bảo hoạt đọng FDI tại Việt Nam với những quyết định thông thoáng hơn, ưu đãi nhiều hơn cho các doanh nghiệp hoạt động trong KCN và KCX. Trên cơ sở các văn bản luật này, các bộ ngành có liên quan đã ban hành các thông tư hướng dẫn Luật và Nghị định tạo cơ sở pháp lý để quản lý hoạt đọng KCN và KCX theo ngyên tắc “một cửa” thông qua cơ chế uỷ quyền cho các ban quản lý KCN và KCX cấp tỉnh. Thủ tướng Chính phủ cũng thành lập một cơ quan riêng là ban quản lý KCN và KCX Việt Nam để trực tiếp tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ những vấn đề liên quan đến KCN và KCX. Đến nay đã có 19 Ban quản lý KCN và KCX cấp tỉnh được thành lập, trong đó có hai ban quản lý chuyên trách quản lý một KCN là Ban quản lý KCN Dung Quất và Ban quản lý KCN Việt Nam - Singapore. Nhiệm vụ chính của Ban quản lý KCN cấp tỉnh là vận động, xúc tiến đầu tư, cấp giấy phép đầu tư và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp KCN-KCX. Ngoài ra BQL các KCN-KCX cấp tỉnh còn được uỷ quyền xét duyệt kế hoạch xuất, nhập khẩu, quản lý lao động, hải quan, xây dựng và cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá trong KCN và KCX. Như vậy bằng cơ chế uỷ quyền cho Ban quản lý KCN-KCX cấp tỉnh sẽ rút ngắn được thủ tục hành chính phần nào giải toả về mặt tâm lý cho các nhà đầu tư nước ngoài về chính sách của Nhà nước ta đối với khu vực FDI nói chung và KCN- KCX nói riêng.
Để thống nhất quản lý hoạt động của các KCN từ 17/8/2000 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định 99/2000 QĐ TTg về việc tổ chức lại Ban quản lý KCN Việt Nam. Theo quyết định này các Ban quản lý KCN Việt Nam được chuyển về và trực thuộc Bộ Kế hoạch Đầu tư. Quyết định 1000/2000 QĐ TTg về việc chuyển giao Ban quản lý KCN cấp tỉnh về trực thuộc UBND Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương ( Trừ Ban quản lý KCN Dung Quất và Ban quản lý KCN Việt Nam -Singapore). Theo quyết định này Ban quản lý KCN Cấp tỉnh trực tiếp quản lý các hoạt động của KCN đồng thời lại chịu sự chỉ đạo về tổ chức quản lý của UBND cùng cấp, và chịu sự chỉ đạo về nghiệp vụ của Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quản lý chuyên ngành. Hy vọng hoạt động quản lý của các KCN Việt Nam sẽ tránh khỏi những chồng chéo về thẩm quyền và đơn giản hoá một số thủ tục hành chính.
2.4 Đánh giá về đóng góp của KCN - KCX đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Với 68 KCN hiện có thì số lượng KCN của nước ta đang đi dần vào giai đoạn ổn định và chuyển sang thời gian nâng cao chất lượng hoạt động. Kết quả hoạt động của các KCN đang dần rõ nét với tốc độ phát triển khá và tương đối bền vững trong mấy năm nay.
Việc phát triển KCN-KCX đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước:
Một là: Thu hút đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh xuất khẩu, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng.
Để thực hiện thành công đường lối đổi mới, phát triển kinh tế xã hội thì nhu cầu về vốn là rất lớn. Trong khi đó lượng vốn đầu tư trong nước chỉ đạt khoảng 50-60% số vốn đầu tư cần thiết. Như vậy số cò lại phải tại ra từ đầu tư nước ngoài, sử dụng nguồn vốn nước ngoài để phát triển là sự cần thiết, là biện pháp thông minh để rút ngắn thời gian tích luỹ. Để thu hút được vốn ĐTTTNN trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay, Việt Nam cần nâng cấp cơ sở hạ tầng, xoá bỏ những cản trở cho tự do thương mại, tạo môi trường vĩ mô ổn định. Chính vì vậy, KCN-KCX ra đời là con đường thích hợp để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Với số lượng gần 1100 doanh nghiệp hoạt động trong KCN -KCX trong đó có 600 là doanh nghiệp nước ngoài chiếm 81,25%(6,5 tỷ USD) lượng vốn đăng kí có thể nói rằng KCN đã từng bước thực hiện được mục thiêu đặt ra.
Cũng như năm 1999, trong 6 tháng đầu năm 2000 các KCN tạo giá trị sản lượng chiếm trên 25% giá trị sản lượng công nghiệp và 16% giá trị xuất khẩu của cả nước với doanh số đạt 1,6 tỉ USD ( xuất khẩu 1,1 tỉ USD), tỷ lệ xuất khẩu dạt 65% tăng 25% so với cùng kì năm trước cả về doanh số và giá trị xuất khẩu. Như vậy tính đến tháng 6 năm 2000 giá trị tổng sản lượng của KCN và KCX đạt 7,5 tỉ USD trong đó xuất khẩu 5.2 tỉ USD chiếm khoảng 55% giá trị xuất khẩu của khu vực FDI.
BẢNG 3 : KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP KCN -KCX Đơn vị: tr USD
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
1999
6/2000
1996-6/2000
1- Doanh thu
400
1400
1870
2450
1600
7720
2 Xuất khẩu
320
800
1300
1700
1100
5220
3. Tỷ lệ xuất khẩu so với doanh thu(%)
80
57,2
69,4
69,4
68,75
67,61
4.Xuất khẩu KCN so với tổng giá trị XK FDI(%)
40,7
53,3
52,2
65,96
69,6
63,2
Hai là: KCN-KCX tạo thêm công ăn việc làm.
Tính đến tháng 6 năm 2000 các KCN đã thu hút được hơn 18 vạn lao động, theo dự đoán trong vòng 10 năm tới sẽ cần thêm khoảng 50-60 vạn lao động, đây là một con số nhỏ so với tổng số lao động ở nước ta, Tuy nhiên xét một cách riêng biệt thì tác động của KCN-KCX lên thị trường lao động của nước ta là rất mạnh mẽ, giảm hẳn nạn thất nghiệp không chỉ thông qua việc tạo chỗ làmviệc một cách trực tiếp mà còn thông qua nhu cầu về dịch vụvà xây dựng. Trong số hơn 18 vạn lao động này thì: Nam Bộ 17 vạn, Bắc Bộ hơn 4000, Trung Bộ 7000 chính thức và hàng vạn lao động gián tiếp phục vụ các hoạt động của KCN: xây dựng, gia công, cung ứng dịch vụ công nghiệp,dân sinh..
Mức trả công lao động trong KCN-KCX thường bằng hoặc cao hơn mức lương cho công việc tương đương bên ngoàivà cao hơn chi phí cơ hội của hầu hết những người được thuê làm việc trong khu. Hơn nữa điều kiện làm việc trong khu tốt hơn hẳn bên ngoài.
Ba là: Từng bước tiếp cận vào thị trường thế giới, khoa học công nghệ hiện đại, học hỏi phương pháp quản lý tiên tiến, phát triển nguồn nhân lực.
Việt Nam bước vào công cuộc đổi mới kinh tế với xuất phát điểm rất thấp về mặt công nghệ, chất lượng sản phẩm thấp, khó có thể tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Hơn nữa đi đôi với công nghệ lạc hậu là vấn đề ô nhiễm môi trường. Thông qua tiếp nhận FDI, nước ta đã tiếp nhận được một số kỹ thuật công nghệ tiến bộ trong nhiều ngành. Mặc dù phần lớn thiết bị đưa vào nước ta thuộc loại trung bình trên thế giới nhưng vẫn tiên tiến hơn các thiết bị hiện có của ta. Đồn thời thông qua lao động trong các doanh nghiệp nước ngoài chúng ta có thể tiếp thu được trình độ quản lý, nâng cao tay nghề công nhân đặc biệt là tác phong công nghiệp, lao động có kỉ luật. Đây là đóng góp quan trọng của FDI ở Việt Nam, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng mẫu mã, từ đó nâng cao kim ngạch xuất khẩu, cải thiện môi trường lao động.
Bốn là : Phát triển KCN-KCX sẽ tạo ra mối liên hệ tác động trở lại nền kinh tế.
Thông qua việc sử dụng nguyên vật liệu trong nước và các dịch vụ gia công chế biến sản phẩm cho KCN-KCX, thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển. Hơn nữa thông qua cạnh tranh sẽ có một số các doanh nghiệp ngoài KCN-KCX sẽ phát triển góp phần đưa nền kinh tế nước ta phát triển. Cũng như nhiều nước phát triển khác Việt Nam hy vọng tác dụng này sẽ phát huy khi chúng ta phát triển KCN-KCX vì nước ta là đất nước có tiềm năng về lao động lại phong phú về tài nguyên thiên nhiên.
3-MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI
3.1 Quy hoạch phát triển:
Cho đến nay chúng ta đã hình thành mạng lưới 68 KCN đạt 75% so với quy hoạch (dự kiến đến năm 2000 sẽ có 90 khu) nhưng vấn đề đặt ra là trong bối cảnh phát triển kinh tế đất nước và khả năng thu hút FDI hiện nay thì chúng ta có nên tiếp tục xây dựng thêm các KCN mới hay không?
Việc xây dựng KCN phải xuất phát từ hiệu quả kinh tế-xã hội, từ vị trí địa lý của khu vực chứ không thể làm theo phong trào, xuất phát từ nhu cầu chủ quan mang tính cục bộ. Để xây dựng và đưa vào hoạt động một KCN đòi hỏi huy động một nguồn lực lớn : vốn đầu tư, nhân lực, kỹ thuât, tài nguyên thiên nhiên..và khi KCN đi vào hoạt động nó không chỉ tác động đến sự sự phát triển kinh tế của khu vực mà còn tạo nên những biến đổi trên phạm vi rộng lớn xét dưới góc độ kinh tế và xã hội.Chính vì vậy dựa trên sự đồng tình, ủng hộ của các ngành và sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có hướng dẫn về điều kiện thành lập KCN - KCX, theo đó yếu tố quy hoạch, khả năng vốn xây dựng hạ tầng và lựa chọn địa điểm xây dựng KCN-KCX, khả năng thu hút đầu tư trong và ngoài nước được nêu nên như điều kiện kiên quyết, quan trọng nhất bảo đảm cho sự thành công của KCN-KCX.
Nhưng trên thực tế, thời gian qua tình hình phát triển và hoạt động của KCN-KCX đã có những biểu hiện phá vỡ cân đối, một số KCN được hình thành trong khi khả năng thu hút đầu tư của chúng hạn chế hoặc không phát huy được hiệu quả của vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Sau 8 năm xây dựng và phát triển vấn đề quy hoạch KCN cồn tồn tại nhiều vấn đề, đòi hỏi phải được giải quyết :
Việc phát triển KCN- KCX ở nước ta phát triển chưa đồng đều: các KCN ở miền Bắc và miền Trung hoạt động kém sôi động hơn các KCN ở miền Nam. Các KCN miền Bắc chuyển biến chậm trong việc thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư trong nước, trống vắng, hiệu quả sử dụng đất. Một số KCN triển khai chậm như KCX Hải Phòng 96, Daewoo- Hanel (Hà Nội) Cái Lân (Quảng Ninh), Tiên Sơn (Bắc Ninh)mặc dù đã có quyết định thành lập vài năm nay. Một số công ty hạ tầng KCN đã ở Đà Nẵng, Quảng Ninh và Phú Yênđã bộc lộ những yếu kẻmtong việc chăm lo phát triển hạ tầng KCN và thu hút đầu tư. Ngay như vùng kinh tế trọng điểm miền Nam, bên cạnh nhiều KCN đã có bước tiến khá dài thì vẫn tồn tại những KCN chuyển động chậm chạp. Đó là các KCN Cát Lái ( Tp HCM ), Nhơn Trạch 3 Tỉnh Đồng Nai, Tân Đông Hiệp tỉnh Bình Dương. Trong khi đó vẫn có doanh nghiệp công nghiệp được xây dựng ngoài KCN, vừa lãng phí đất nguồn lực đã đầu tư, vừa đặt ra vấn đề môi trường sinh thái.
Từ việc quy hoạch xây dựng cho đến việc xác định ngành nghề, lĩnh vực thu hút đầu tư chưa gắn vào lợi thế của từng địa phương và tuân thủ phân công lao động theo quy hoạch phát triển công nghiệp của Chính phủ. Do đó xuất hiện nhiều địa phương đã xây dựng KCN theo “ phong trào “ để tự đánh giá sự trưởng thành của kinh tế địa phương. Thêm vào đó là tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong việc thu hút đầu tư. Đáng lẽ thành lập KCN để tránh đầu tư phân tán thì một số địa phương đã có biểu hiện phân tán vì mỗi KCN có rất ít dự án. Các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh chưa tập trung đúng mức vào các sản phảm công nghệ cao, công nghiệp sạch.
Quy hoạch thiếu đồng bộ, thay đổi quy hoạch được coi là nguyên nhân đầu tiên gây khó khăn cho các KCN, điều đó dẫn đến triển khai chạm chễ các dự án. Chẳng hạn như vấn đề điện, nước, đường giao thông.. không được quy hoạch đòng bộ thiếu sự phối hợp của các cấp các ngành.
Chưa kịp thời sử lý chất thải công nghiệp. Vấn đề sử lý chất thải, nước thải của KCN chưa được giải quyết triệt để, đe doạ sẽ gây ra hiện tượng ô nhiễm môi trường cục bộ trong thời gian tới. Đến nay, mới những KCN liên doanh với nước ngoài để phát triển hạ tầng và KCN Biên Hoà 2 là có hệ thống xử lý nước thải trung tâm. Còn các KCN khác do chưa có phương án sử lý nước thải nên đang để nước thải do các doanh nghiệp tự sơ sử lý thải vào hệ thống cống ra các sông làm suy thoái môi trường, ảnh hưởng đến nguồn nước. Đặc biệt các KCN ở Bình Dương việc sử lý chất thải rắn và khí cũng chưa được quan tâm đúng mức.
3.2 Xây dựng hạ tầng KCN
Hiện nay chúng ta đang duy trì 2 phương thức xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN- KCX đầu tư nước ngoài ( liên doanh, 100% vốn nước ngoài ) và đầu tư trong nước. Các KCN và KCX do các nhà đầu tư nước ngoài xây dựng như Nomura Hải Phòng, Amata Đồng Nai, Việt Nam - Singapore tuy có giá thuê đất cao hơn nhưng lại có cơ sở hạ tầng tốt hơn các KCN-KCX do các công ty trong nước đầu tư xây dựng. Điều cốt lõi của vấn đề là các KCN-KCX do nước ngoài xây dựng được đảm bảo tốt hơn về mặt tài chính, có kinh nghiệm trong quy hoạch, thiết kế xây dựng nên có lợi thế trong thu hút đầu tư nước ngoài.
Gía thuê đất trong các KCN ở nước ta là tương đối cao so với các nước trong khu vực. Từ thành công của KCN Việt Nam - Singapore, KCN Tân Tạo, KCN Lê Minh Xuân .. cho phép khẳng định giá thuê đất không phải là yếu tố chủ đạo để một nhà đầu tư quyết định đầu tư vào một KCN nào đó hay không? Nhưng trong điều kiện cạnh tranh gay gắt về thu hút FDI thì giá thuê đất của chúng ta cao hơn các nước trong khu vực sẽ làm giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư. Các nước như Thái Lan, Inđonêxia, Philipin đã theo đuổi chính sách giảm giá thuê đất một cách nhất quán.
Theo số liệu tổng hợp từ hồ sơ dự án thành lập KCN-KCX, để đảm bảo điều kiện hạ tầng tối thiểu thì suất đầu tư cho 1 ha diện tích và khoảng1-1,2 tỉ đồng, như vậy để xây dựng hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng trong một KCN đã được thành lập, cần khoản vốn đầu tư 8000-9595 tỷ đồng hoặc phải từ 1145-1370 tỷ đồng chưa kể vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào các khu đó. Đây là một khối lượng vốn lớn, nền kinh tế khó có thể đáp ứng được trong một thời gian ngắn, đặc biệt là trong điều kiện thiếu vốn như nước ta hiện nay. Những KCN - KCX do trong nước đảm nhiệm, nguồn tài chính dựa vào vốn tự có của các công ty, vốn vay ưu đãi Nhà nước, vốn liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác và vốn ứng trước của các nhà đầu tư. Nhưng thực tế thì nguồn vốn của các công ty rất thấp, việc huy động từ các nguồn khác hết sức khó khăn, phương án thu hút đầu tư để có thể sử dụng vốn ứng trước không rõ ràng và bấp bênh làm cho tính khả thi và hiệu quả của dự án thấp.Việc vay vốn mặc dù lãi suất ngan hàng từ năm 1999 có giảm liên tục nhưng vẫn cao so với thế giới.
Nhìn chung, tiến độ đầu tư xây dựng hạ tầng các KCN -KCX chậm. Đặc biệt là từ năm 1997 trở lại đây, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực thì các chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN đứng trước tình thế hết sức nan giải: không thu hồi được vốn bỏ ra xây dựng cơ sở hạ tầng vì không có nhà đầu tư thuê đất, trong khi một số hạng mục kỹ thuật còn đang dở dang do chưa có vốn đầu tư tiếp.
Giải phóng mặt bằng chậm cũng là một trở ngại lớn : thời gian kéo dài cùng với các chi phí phát sinhlàm cho cơ hội kinh doanh bị mất, đội giá thành thuế đất lên cao. Sở dĩ như vậy là do hiện nay vẫn chưa có chính sách và chế độ đền bù tài sản trên đất, thiếu sự chỉ đạo sát xao của chính quyền.
3.3 Thị trường tiêu thụ sản phẩm
Khi đầu tư vào Việt Nam thì đa số các nhà đầu tư nước ngoài đều nhìn nhận thị trường Việt Nam là một thị trường tiềm năng lớn, bởi dân số đông, sức mua tuy còn thấp nhưng hứa hẹn sẽ tăng nhanh trong thời gian tới. Việc chiếm lấy một thị phận khi mà các doanh nghiệp trong nước còn quá yếu, nhiều sản phẩm còn để ngỏ cho hàng ngoại nhập là điều mà nhiều công ty nước ngoài đang cố gắng thực hiện thông qua các doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam.
Để trang trải nhu cầu ngoại tệ các công ty nước ngoài cũng dự kiến dành một phần sản phẩm để xuất khẩu. Nhưng thời gian gần đây do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực châu Á nên thị trường có nhiều biến động làm cho các doanh nghiệp gặp khó khăn về kế hoạch sản xuất đặc biệt là đối với các dự án có tỷ lệ bắt buộc xuất khẩu sản phẩm. Xuất phát từ những khó khăn chung về thị trường tiêu thụ sản phẩm, chính phủ đã có chủ trương điều chỉnh giảm tỷ lệ xuất khẩu cho các doanh nghiệp FDI.
Đứng về mặt kinh tế, sự giảm sút tỷ lệ xuất khẩu và xu thế thay thế nhập khẩu chiếm ưu thế hơn xu thế hướng về xuất khẩu của khu vực FDI nói chung và của KCN-KCX nói riêng, việc thay thế nhập khẩu là hiện tượng không nên khuyến khích và cần có nhữngbiện pháp hạn chế do những lý do sau:
Một là, việc tăng tỷ lệ nội tiêu sẽ làm căng thẳng hơn cân đối ngoại tệ của Nhà nước vì buộc phải bán ngoại tệ cho doanh nghiệp để đáp ứng cho nhu cầu nhập khẩu của họ.
Hai là, trong những năm trước mắt, do chưa thể nhanh chóng nâng cao cạnh tranh của nền kinh tế, việc bảo hộ hàng sản xuất trong nước là việc làm cần thiết. Việc để cho một khối lượng lớn sản phẩm khu vực FDI được tiêu thụ tại thị trường nội địa trong khi các doanh nghiệp này đang được ưu đãi nhiều điều kiện kinh doanh, nếu kéo dài sẽ là điều bất lợi cho các doanh nghiệp trong nước.
Ba là, sự mất cân đối lớn trong cán cân thương mại trong những năm qua có phần quan trọng là do nhập khẩu của các doanh nghiệp FDI, trong đó có doanh nghiệp KCN-KCX. Theo cách giải thích thông dụng hiện nay thì mức nhập siêu ngày càng tăng một phần do các doanh nghiệp phải nhập khẩu máy móc, thiết bị, vật tư. Theo quan điểm này thì đây không phải là điều đáng lo ngại, bởi vì nhìn vào cơ cấu hàng nhập khẩu tư liệu sản xuất vẫn là mặt hàng chủ yếu, hàng tiêu dùng bị giới hạn ở mức thấp. Trên thực tế, khi mà các doanh nghiệp FDI hướng vào thị trường trong nước thì việc nhập khẩu máy móc thiết bị chỉ là phương thức thay thế nhập khẩu hàng tiêu dùng nên không có khả năng thu hẹp cán cân xuất nhập khẩu, bởi vì điểm dừng cuối cùng của đối tượng hàng hoá này là thị trường nội địa, chúng không tạo thêm giá trị xuất khẩu. Từ bài học kinh nghiệm về sự thất bại của chiến lược cong nghiệp hoá thay thế nhập khẩu của nhiều quốc gia đã gặp phảo trong những năm thập kỷ 70, chúng ta cần phải xem xét và nghiên cứu một cách nghiêm tủctong việc thu hút FDI và xây dựng KCN -KCX theo định hướng thay thế hàng nhập khẩu.
3.4 Vấn đề lao động cho KCN-KCX
Chỉ trong vòng 2 năm từ năm 1998 đến cuối năm 1999 số lượng lao động trong các KCN -KCX đã tăng gấp hơn 2 lần ( từ 8,8 vạn lên 18 vạn) đó là do tốc độ đầu tư trong các KCN tăng nhanh, số lượng doanh nghiệp phát triển mạnh trong các KCN tập trung. Tuy nhiên phần lớn lao động KCN kể cả lao động tiềm năng đều thấp về chất lượng. Trong số 18 vạn lao động chỉ có 7900 lao động có trình độ đại học và trên đại học chiếm 4,3 %; 8100 kỹ thuật viên chiếm 4,9%; 57.200 công nhân kỹ thuật (31,2%), lao động giản đơn :110.450 chiếm 60,1%. Ngoài số ít lao động kỹ thuật được đào tạo trước khi tuyển dụng, các doanh nghiệp chủ yếu tuyển dụng các lao động trẻ vừa tốt nghiệp và tiến hình đào tạo theo mô hình đào tạo tại nơi làm việc.
Sáng kiến của công ty hạ tầng KCN Việt Nam- Singapore thành lập Trung tâm đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề để cung cấp cho các doanh nghiệp trong KCN này là mô hình cần khuyến khích đối với các KCN khác. Trung tâm đào tạo kỹ thuật Việt Nam - Singapore trở thành điển hình trong hợp tác về đào tạo công nhân kỹ thuật. Hằng năm trung tâm đã đào tạo gần 200 công nhân đủ đáp ứng cho nhu cầu công nhân kỹ thuật có tay nghề cao cho các doanh nghiệp KCN có trình độ công nghệ hiện đại không chỉ trong KCN Việt Nam- Singapore.
Về cơ bản lao động cung cấp cho các KCN được hình thành gần như tự phát thông qua quan hệ cung cầu trên thị trường lao động. Trong khi đó thị trường lao động ở nước ta chưa được hình thành đầy đủ, công tác nhà nước trong lĩnh vực này còn nhiều mới mẻ và còn nhiều vấn đề chưa phù hợp với cơ chế mới cũng như với thông lệ quốc tế.
Các doanh nghiệp KCN chủ yếu là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, chủ doanh nghiệp thuộc 24 quốc gia và vùng lãnh thổ, phương pháp quản lý lao động ở doanh nghiệp mỗi nước cũng có sự khác biệt nhất định. Thêm vào đó là công tác quản lý Nhà nước về lĩnh vực lao động KCN cũng như lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa tạo được môi trường pháp lý cần thiết và sự thuận lợi, hợp pháp trong quan hệ giữa người sử dụng và người lao động, không ít mặt quản lý bị buông lỏng, mặt khác lại có nhiều thủc tục hành chính phiền hà. Nên thời gian qua đã có nhiều hiện tượng tiêu cực trong trả lương đối sử không công bằng đối với lao động. Quản lý tuyển dụng lao động chưa được chặt chẽ do quyết định uỷ quyền của Bộ chưa rõ ràng, dẫn đến sự chồng chéo về thẩm quyền quản lý giữa ban quản lý KCN cấp tỉnh và sở lao động thương binh xã hội. Mặc dù ban quản lý KCN nắm được nhu cầu tuyển dụng lao động nhưng trong KCN chưa có trung tâm dịch vụ việc làm nên rất khó khăn trong việc bảo đảm chất lượng cung cấp lao động. Thêm vào đó công tác đào tạo lao động lại phân tán, kém chất lượng, thiếu quy hoạch.
Trong số các lao động đang làm việc trong các KCN thì chỉ có khoảng 63% là lao động địa phương còn lại 37% tức khoảng 66800 lao động từ các tỉnh khác. Do nhiều nguyên nhân khác nhau như trình độ tay nghề của người lao động không đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp; hoặc mức lương, chế độ không đáp ứng đòi hỏi của lao động địa phương, nên các doanh nghiệp tuyển thêm lao động từ các tỉnh khác. Chẳng hạn, ở các KCN - KCX thành phố Hồ Chí Minh với gần 53 nghìn lao động thì có đến 50% là lao động ngoại tỉnh, còn đối với tỉnh Bình Dương thì có tới 24 nghìn trong số 27 nghìn lao động ở các KCN là từ tỉnh ngoài đến. Phần lớn số lao động này định cư theo hình thức tự túc, họ phải thuê nhà dân với cơ sở vật chất rất nghèo nàn, không đảm điều kiện sống vệ sinh, không đảm bảo điều kiện sống vệ sinh, môi trường sống cũng như sức khoẻ. Phần lớn lao động trong các KCN là lao động nữ và trong đang trong độ tuổi sinh đẻ vì vậy trong vòng từ 5 đến 10 năm nữa thì tại các khu vực naỳ phải xây dựng những cơ sở như bệnh viện, trường học.. để đảm bảo thế hệ tương lai phát triển lành mạnh cả về thể chất và tinh thần..
Nhằm mục tiêu phát triển bền vững, và đáp ứng được nhu cầu phát triển của KCN trong các năm tới thì vần đề nhà ở, đào tạo nghề cho công nhân và xây dựng các công trình xã hội khác cần được các cơ quan quản lý quan tâm và giải quyết đúng mức, kịp thời.
3.5 Hệ thống pháp luật về KCN-KCX:
Cơ sở pháp lý chủ yếu chế định sự hoạt động KCN-KCX là nghi định 36/CP ngày 24/4/1997 ban hành quy chế KCN-KCX và KCNC. Nhưng nghị định này được xây dựng trên cơ sở hệ thống pháp luật hiện hành, cốt lõi là luật đầu tư nước ngoài, Luật khuyến khích đàu tư trong nướcvà một số luật quan trọng khác. Do tồn tại hai hệ thống luật khác nhau để điều chỉnh cùng một loại đối tượng là doanh nghiệp trong KCN, đã tạo nên sự khác biệt về điều kiện kinh doanh, nhất là điều kiện ưu đãivề thuế và một số yếu tố đầu vào. Để cải thiện môi trường đầu tư hấp dãn hơn cho các nhà đầu tư, Chính phủ đã ban hành Nghị định 10/CP ngày 23/1/1998 của Chính phủ về những biện pháp khuyến khích và bảo đảm hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài với nhưngx quy định thông thoáng, hơn ưu đãi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và doanh nghiệp KCN-KCX nói riêng.
Mặc dù đề ra chế độ " một cửa- tại chỗ " song trên thực tế việc thực thi còn kém hiệu quả làm nản lòng các nhà đầu tư. Bản thân các quy định của Nhà nước vẫn có sự bất bình đẳng giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước chẳng hạn như ; Chính phủ đã có Nghị định ban hành quy chế quản lý tài chính hoạch toán kinh doanh đối với các doanh nghiệp trong nước ( Nghị định 59CP ngày 3/10/1996 ) nhưng lại chưa có 1 quy chế quản lý tài chính thống nhất đối với các doanh nghiệp có vốn ĐTNN nói chung và các doanh nghiệp FDI trong KCN nói riêng gây khó khăn trong việc thực hiện chính sách, chế độ tài chính hoạch toán kinh doanh của các đối tượng này, cũng như công tác quản lý Nhà nước. Ngoài ra, điều này dẫn đến việc các nhà đầu tư nước ngoài cho rằng Chính phủ không tậo ra môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các khu vực ; quốc doanh, ngoài quốc doanh và khu vực FDI. Cho đến nay có thể nói rằng hệ thống pháp luật cũng như các văn bản dưới luật ĐTNN tại Việt Nam vẫn chưa thành một thể thống nhất, hoàn chỉnh.
Vì vậy để yên lòng các nhà ĐTNN cũng như các nhà đầu tư trong nước vấn đề đòi hỏi cấp bách cho việc phát triển KCN trước mắt và lâu dài là phải có một hành lang pháp lý hoàn chỉnh.
3.5 Công tác quản lý khu công nghiệp và khu chế suất:
Do yêu cầu phát triển, điều kiện địa lý cũng như thủ tục để vận hành đòi hỏi phải có có quan chuyên trách quản lý KCN và KCX . Sự ra đời của ban quản lý KCN và KCX sẽ đáp ứng yêu cầu rút ngắn thời gian làm thủ tục cho các doanh nghiệp. Để khắc phục tình trạng bất cập trong quản lý KCN và KCX ( Vị trí của ban quản lý KCN thuộc trung ương hay địa phương, mặc dù chịu sự chỉ đạo của uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố nhưng ban quản lý KCN cấp tỉnh lại không phải là cấp sở vì BQL lại do thủ tướng chính phủ thành lập, chưa có một cơ quan với tư cách là cơ quan cấp trên của các BQL cấp tỉnh ) nên ngày17/8/2000 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định 99/2000 QĐ TTg về việc tổ chức lại Ban quản lý KCN Việt Nam. Theo quyết định này các Ban quản lý KCN Việt Nam được chuyển về và trực thuộc Bộ Kế hoạch Đầu tư. Quyết định 1000/2000 QĐ TTg về việc chuyển giao Ban quản lý KCN cấp tỉnh về trực thuộc UBND Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương ( Trừ Ban quản lý KCN Dung Quất và Ban quản lý KCN Việt Nam -Singapore).
Tuy nhiên hiệu lực quản lý của BQL các KCN chưa phải là thực quyền, mặc dù BQL cũng muố giải quyết nhanh gọn, tại chỗ mọi vướng mắcphát sinh, giảm thiẻu tối đa phiền hà cho các nhà đầu tư nhưng trong quá trình quản lý, việc giải quyết những khúc mắc về chủ trương chinh sách nào mang tính liên ngành, liên cấp lại rất chậm. Bản thân tổ chức bộ máy quản lý vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của KCN : Cán bộ của các ban quản lý thường rất trẻ, mới ra trường, phần lớn chỉ biế ngoại ngữ và vi tính còn các nghiệp vụ khác đươc uỷ quyền thì gần như không có gì.
3.6 Vận động đầu tư vào KCN&KCX:
Xúc tiến, vận động đầu tư vào KCN&KCX là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý Nhà Nước về KCN-KCX, đồng thời giữ vai trò quyết định sự thành công của KCN-KCX. Nếu các KCN-KCX không thu hút được các doanh nghiệp vào khu thì các nhà đầu tư xây dựng KCN-KCX sẽ bị thua lỗ, dân cư xung quanh sẽ không phát triển được nghề nghiệp, không ổn định được cuộc sống kéo theo nhiều hâu quả khác. Song trên thực tế công tác này cưa được quan tâm một cách đúng mức, thiếu hệ thống tổ chức chung cuản Nhà Nước, và chưa có chính sách thoả đáng đối với hoạt động và trực tiếp là các BQL. Nói chung việc vận động đầu tư vào KCN -KCX vẫn tồn tại một số vấn đề cần phải nhanh chóng giải quyết :
Một là, các KCN vẫn chưa biết tận dụng lợi thế vị trí của mình, vấn đề quyết định giá, phương thức trả tiền thuê đất chưa "mềm dẻo". Trách nhiêmj này thuộc về BQL KCN cũng như các công ty phát triển hạ tầng KCN.
Hai là, cấc yếu tố dịch vụ hậu mãi hỗ trợ cho nhà đầu tư chưa được chú ý thực hiện một cách triệt để. Trên thực tế giá thuê đất không phải là yếu tố chủ đạo để nhà đầu tư quyết định có đầu tư vào một KCN nào đó hay không mà nhà đầu tư thường cân nhắc các yếu tố thủ tục hành chính.
Ba là, chưa tạo dựng được chữ tín đối với các nhà đầu tư. Điều này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với các công ty phát triển hạ tầng KCN, bởi chính nhà đầu tư sẽ là người quảng bá, tiếp thị hiệu quả và thuyết phục nhất cho bản thân KCN nếu họ cảm thấy hài lòng
Bốn là, chính sách thu hút đầu tư đơn điệu, thụ động, chưa đủ sức cạnh tranh với các nước trong khu vực.
Năm là, sự yếu kém trong việc quản lý và phát triển các dự án kết cấu hạ tầng:
Giá dịch vụ tiện ích vẫn cao so với các nước trong khu vực
Thiếu kinh nghiệm trong việc quản lý theo hướng kinh doanh.
Còn nhiều mâu thuẫn giữa mục tiêu xã hội và mục tiêu kinh doanh.
Cước phí vận tải cao ( chi phí vận tải container bằng đường biển từ Nhật về các cảng Việt Nam thường cao hơn gấp từ hai đến ba lần so với đến Singapore và Thailand…)
Trên đây là những tồn tại trong hoạt động KCN và KCX ở Việt Nam, phân tích những tồn tại là cơ sở để đề ra những giải pháp khắc phục nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả hơn vốn FDI để phát triển hơn nữa KCN-KCX ở Việt Nam.
Hệ thống pháp luật và vấn đề quản lý KCN-KCX
4. MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN:
Theo dự thảo chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 “ đẩy mạnh CNH-HĐH, tập rung xây dựng có chọn lọc một só cơ sở công nghiệp nặng quan trọng với công nghệ cao, sản xuất tư liệu sản xuất càn thiết để trang bị kĩ thuật, công nghệ tiên tiến cho các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và đáp ứng nhu cầu cho quốc phòng đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển và xây dựng nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp”.
Mục tiêu chiến lược đối với KCN là : tiếp tục xây dựng KCN có hiệu quả và sức cạnh tranh, phát triển theo hướng hướng ngoại, nâng cao tay nghề công nhânnắm bắt và vận dụng được nhiều thành tựu mới nhất của cachs mạng khoa học và công nghệ, thực hiện bảo vệ môi trường, phát huy hơn nữa việc liên kết giữa KCN và thị trường ngoài, đưa KCNtrở thành lực lượng công nghiệp mạnh của cả nước.
Mục tiêu cụ thể : Để góp phàn đưa tỷ trọng công nghiệp đến năm 2010 chiếm từ 40-41% trong GDP ( hiện nay là 34,5%) thì các KCN phải đạt con số khoảng 40% giá trị sản lượng công nghiệp( hiện nay là 25%)
- Môi trường kinh tế vĩ mô: pháp luật, chính sách, thủ tục, quản lý.
- Xây dựng cơ sở hạ tầng
- Thị trường tiêu thụ
- Lao động cho KCN - KCX
Tình hình hoạt động các doanh nghiệp có vốn nước ngoài
ở KCN- KCX
- Giấy phép
- Thực hiện giấy phép
- Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp có vốn nước ngoài ở KCN-KCX
CHƯƠNG III : GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI VÀO KCN- KCX
Như thực tế mấy năm qua cho thấy phần lớn doanh nghiệp trong các KCN và KCX là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Mặc dù ĐTNN có tác dụng tích cực rõ rệt trong việc đảm bảo một tốc độ tăng trwongr kinh tế khả quan góp phần tăng GDP, tạo nhiều việc làm cho người lao động tăng năng lực xuất khẩu,
- Quy hoạch phát triển KCN-KCX dài hạn và ngắn hạn.
Theo tính toán để lấp đầy tất cả các KCN và KCX đã được thành lập cần phải có khoảng hơn 6000 doanh nghiệp tham gia. Nếu không kể những doanh nghiệp hiện đã được cấp giấy phép trong KCN và KCX, thì trong những năm tới phải có thêm khoảng 5550 donh nghiệp thành lập mới với tổng số vốn đầu tư đăng kí từ 18-23 tỷ $. Hơn thế nữa, nếu chúng ta quan niệm KCN và KCX là hạt nhân trong các chuỗi qui hoạch đô thị sẽ được hinh thàn trong tương lai với hệ thống kết cấu hạ tầng ngoài khu có chất lượng cao, ngắn với sự hình thành các khu dân cư, khu thương mại dịch vụ và các khu phụ chợ khác, thì việc ra đời và đưa vao0f hoạt động của 1 KCN và KCX trở lên phức tạp hơn nhiều .Tất cả đó là những vấn đề cần được cân nhắc kĩ trong kế hoach phát trển KCN và KCX, quyết định số lượng khu cần được xây dựng trong từng giai đoạn củ thể.
Với khả năng thu hút FĐI như trên, việc xác định qui hoạch KCN và KCX để đảm bảo hiệu quả cao nhất về kinh tế xã hội và tài chính cần phải được ưu tiên xem xét hàng đâù.
Hiện nay đã có 90 KCN và KCX được phê duyệt đưa vào trong qui hoạch phát triển đến năm 2000. Trên thực tế
- Tăng cường hoạt động xúc tiến vận động đầu tư vào KCN-KCX kết hợp với lựa chọn thẩm tra đối tác nước ngoài.
- Phát triển nguồn nhân lực cho KCN-KCX
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0262.doc