Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Khu công nghiệp - Khu chế xuất tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Nếu như biện pháp sử dụng khu chế xuất để thu hút vốn đầu tư nước ngoài tỏ ra có hiệu quả đến giữa thập kỉ 80, khi mà hầu hết các nước đang phát triển vẫn còn đề cao tự chủ kinh tế, hạn chế mở cửa với thế giới bên ngoài. Nhưng từ cuối thập kỉ 80, khu chế xuất đã bộc lộ những hạn chế về liên kết kinh tế với các khu vực kinh tế nội địa và xu hướng phát triển nền kinh tế mở của các nước đang phát triển nên nhiều nước đã chuyển sang các biện pháp xây dựng các khu công nghiệp, công nghệ cao để thu hút đầu tư nước ngoài. Nếu như khu chế xuất gắn liền với mục tiêu hướng về xuất khẩu, hầu như không có quan hệ với thị trường nội địa thì khu công nghiệp có nhiều quan hệ với thị trường trong nước, vừa có quan hệ nội thương, vừa có quan hệ ngoại thương.Với mô hình khu công nghiệp các nước đang phát triển có thể thu hút đầu tư nước ngoài vào một số ngành công nghiệp, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.Vì sản phẩm của các khu công nghiệp một phần bán vào thị trường nội địa nên các nước này hạn chế được nhập khẩu hàng hoá thiết bị, đồng thời trong khu công nghiệp vẫn có thể tồn tại doanh nghiệp chế xuất để sản xuất hàng xuất khẩu, vẫn có những ưu đãi về thuế, hải quan tuy không nhiều như khu chế xuất nhưng bù lại những khu công nghiệp này lại có thể tận dụng được những lợi thế sử dụng nguyên nhiên liệu và cung cấp hàng hoá vào thị trường nội địa.

doc20 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1156 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Khu công nghiệp - Khu chế xuất tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I: ý nghĩa của khu công nghiệp, khu chế xuất trong thu hút đầu tư Trực tiếp nước ngoài (FDI) Một trong những quan điểm chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cũng như các nước đang phát triển khác là tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Vì thế trong cuộc cạnh tranh thu hút nguồn vốn FDI, các nước trên thế giới và đặc biệt là các nước khu vực Châu á đã tiến hành việc xây dựng mô hình KCN, KCX như là một công cụ hữu hiệu thu hút nguồn vốn này. Nhiều nước trong khu vực đã gặt hái được thành công từ mô hình này như Hàn Quốc, Malaysia, Đài Loan…, Với những đặc trưng riêng, mô hình KCN, KCX đã nắm bắt được động cơ của đầu tư nước ngoài thông qua việc tạo điều kiện đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư. Vì thế, trong chương này, chúng ta trước hết hãy xem xét khái quát về tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài cùng với động cơ của nó để tìm hiểu những nguyên nhân thành công của mô hình KCN, KCX đối với việc thu hút nguồn vốn FDI I. Khái niệm và động cơ của FDI 1. Khái niệm FDI Trong những thập kỉ gần đây, đầu tư quốc tế đã trở thành một trong những đặc điểm nổi bật của xu thế khu vực và thế giới. Trình độ phát triển kinh tế cao ở các nước công nghiệp phát triển đã nâng cao mức sống và khả năng tích luỹ vốn của các nước này, dẫn đến hiện tượng “thừa’’ tương đối vốn ở trong nước, mặt khác làm cho chi phí tiền lương cao, nguồn tài nguyên thiên nhiên thu hẹp, chi phí khai thác tăng lên. Điều đó dẫn đến giá thành sản phẩm tăng, tỷ suất lợi nhuận giảm dần, lợi thế cạnh tranh trên thị trường không còn. Ngoài ra, do với sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và thông tin, nên thời gian nghiên cứu phát triển đến sản xuất rất nhanh chóng dẫn đến chu kì sống của sản phẩm rút ngắn nhanh và tiếp theo đó các công ty này không ngừng nghiên cứu ra những sản phẩm mới. Vì thế để kéo dài tuổi thọ của sản phẩm, các nước phát triển có xu hướng dịch chuyển đầu tư sang các nước khác những sản phẩm đã “lão hoá”, sản phẩm cần nhiều lao động, nguyên liệu thô, hoặc gây ô nhiễm môi trường… Chính vì thế các nhà đầu tư ở nước này phải đi tìm kiếm cơ hội đầu tư ở nước ngoài bằng các phương thức đầu tư vốn, tài sản để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm giảm chi phí, xâm nhập thị trường và thu lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế nhất định. Cùng lúc đó, xuất hiện nhu cầu về vốn của các nước đang phát triển chậm phát triển. Hầu hết các nước này đều gặp phải tình trạng thiếu vốn do tích luỹ nội bộ thấp hoặc không có tích luỹ, thiếu ngoại tệ, mất cân đối trong cán cân thanh toán rxuất nhập khẩu. Vấn đề thiếu vốn là một trong những vần đề nan giải đối với những nước này trong việc phát triển đất nước. Để giải quyết vấn đề này, những nước thiếu vốn tìm cách thu hút vốn, còn những nước tư bản thừa vốn tìm kiếm cách để tận dụng hết nguồn vốn đang dư thừa của mình để nâng cao tỷ suất lợi nhuận. Hơn nữa, ngày nay quá trình toàn cầu hóa đời sống kinh tế đang diễn ra nhanh chóng với qui mô và tốc độ ngày càng lớn, tạo nên một nền kinh tế thị trường toàn cầu trong đó tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng gia tăng. Quá trình này làm cho các nước trên thế giới đều nhận thấy phải đi theo con đường xu hướng mở cửa và theo quĩ đạo của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên trong điều kiện và trình độ phát triển sản xuất, khả năng về vốn, công nghệ nguồn tài nguyên, mức độ chi phí ở các nước khác nhau thì nguồn vốn đầu tư quốc tế với tư cách là một loại hàng hóa đặc biệt sẽ tuân theo qui luật của thị trường vốn là chảy từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn theo tiếng gọi của lợi nhuận. Vì thế từ đầu thế kỉ 20 đến nay, đầu tư quốc tế trở nên phổ biến trên thế giới, là một kênh dẫn vốn giữa các nước nhằm thoả mãn lợi ích của hai bên. Đầu tư quốc tế là những phương thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để tiến hành sản xuất kinh doanh, dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Về bản chất, đầu tư quốc tế là hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Hiện nay, có 3 hình thức đầu tư tư nhân quốc tế phổ biến là: đầu tư gián tiếp, tín dụng quốc tế và đầu tư trực tiếp. Trong ba hình thức này, thì đầu tư trực tiếp đóng vai trò đặc biệt quan trọng với tỷ trọng lớn và không ngừng gia tăng. Một cách tổng quát, căn cứ vào mức độ tham gia quản lý quá trình thực hiện đầu tư và phát huy tác dụng của kết quả đầu tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI- Foreign Direct Investment ) có thể được định nghĩa như sau: đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế chủ yếu mà chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư của các dự án nhằm giành quyền điều hành hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, thương mại nhằm mục đích thu hồi vốn và sinh lợi nhuận Đầu tư nước ngoài, Phùng Xuân Nhạ, NXB ĐH Quốc gia Hà Nội, 2001 Theo quĩ tiền tệ quốc tế IMF (International Monetary Fund), đầu tư trực tiếp nước ngoài là luồng đầu tư thực tế chảy vào để có được một lợi ích quản lý lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở một nền kinh tế khác ngoài nền kinh tế của nhà đầu tư. Khái niệm “đầu tư trực tiếp nước ngoài” được qui định cụ thể trong luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996 (luật sửa đổi bổ sung 2000 vẫn giữ nguyên điều này) như sau:“Đầu tư trực tiếp nước ngoài” là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt nam vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo qui định của luật này. Trong đó “Nhà đầu tư nước ngoài” là tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Cũng với mục đích đưa ra khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài, tổ chức thương mại thế giới WTO (World Trade Organization) coi: Đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất hiện khi một nhà đầu tư nước này thiết lập tài sản ở một nước khác với ý định quản lý tài sản đó và vai trò quản lý đó là cái để phân biệt với đầu tư gián tiếp. Như vậy, về thực chất đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự đầu tư nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó. Chủ đẩu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ đẩu tư vốn. Từ khái niệm FDI, có thể khái quát một số đặc điểm cơ bản về FDI như sau: Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, tự quyết định sản xuất kinh doanh,và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế. Chủ đầu tư có thể điều hành tòan bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành nếu là doanh nghiệp liên doanh tuỳ theo tỉ lệ góp vốn của mình. Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kĩ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý.. là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được. Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ dự án đầu tư dưới hình thức vốn pháp định mà trong quá trình hoạt động, nó còn bao gồm vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được. Nhờ có hoạt động đầu tư nước ngoài, các nước chủ nhà có thể tiếp nhận được nguồn vốn lớn từ bên ngoài nhưng không bị lệ thuộc vào các điều kiện về kinh tế, chính trị khác, đồng thời tiếp thu được công nghệ, kĩ thuật tiên tiến, học hỏi được kinh nghiệm quản lý... Đặc biệt đối với các nước đang phát triển, đây còn là cơ hội để các nước này phát triển nguồn nhân lực, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong khi đó, tín dụng thương mại là hình thức đầu tư dưới dạng cho vay vốn và thu lợi nhuận qua lãi suất tiền vay, cho nên dễ trở thành gánh nặng nợ nần, thậm chí mất khả năng chi trả, đưa đến sự phụ thuộc vào chủ nợ do các điều kiện cho vay này thường kèm theo các điều kiện ràng buộc về chính trị lẫn kinh tế. Đầu tư gián tiếp thì các chủ đầu tư nước ngoài đầu tư bằng hình thức mua cổ phần của các công ty nước sở tại để thu lợi nhuận mà không tham gia điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ ra đầu tư. Do vậy, các chủ đầu tư chỉ quyết định mua cổ phần của những công ty làm ăn có lãi hoặc có triển vọng phát triển trong tương lai nên phạm vi đầu tư có giới hạn. Ngoài ra, đây là hình thức đầu tư thông qua mua bán cổ phiếu nên hạn chế khả năng thu hút vốn kĩ thuật công nghệ, có thể ảnh hưởng mạnh mẽ đến thị trường vốn, gây biến động tỷ giá và các mặt của nền kinh tế vĩ mô nếu các chủ đầu tư có những hành động thay đổi đột ngột như bán chứng khoán, rút tiền về nước…Vì thế nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tỏ ra ưu việt hơn cả, đáp ứng được những mục tiêu đảm bảo phát triển kinh tế hiệu quả và ổn định. Tuy nhiên, trong quan hệ giữa cung và cầu về vốn này thì ưu thế thuộc về bên “cung’’ vốn, các nước chủ đầu tư sẽ lựa chọn địa điểm, đối tác đầu tư cho mình. Nhận thức được sự cần thiết và vai trò quan trọng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài, song vấn đề quan trọng đặt ra với các nước đang phát triển là làm cách nào để có thể thu hút và đồng thời sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp này. Muốn vậy, trước hết hãy xem các chủ đầu tư cần gì ở thị trường nước mình thông qua việc nghiên cứu động cơ của họ . 2. Động cơ của đầu tư trực tiếp nước ngoài Động cơ chung nhất của các chủ đầu tư nước ngoài là tìm kiếm thị trường đầu tư hấp dẫn, thuận lợi và an toàn nhằm thu được lợi nhuận cao và sự thịnh vượng lâu dài của doanh nghiệp. Tuy nhiên, động cơ cụ thể của chủ đầu tư trong từng dự án lại rất khác nhau tuỳ thuộc vào chiến lược phát triển của từng doanh nghiệp và mục tiêu của nó ở thị trường nước ngoài. Khái quát chung lại có ba động cơ cụ thể tạo nên ba định hướng khác nhau trong đầu tư trực tiếp nước ngoài: -Đầu tư định hướng thị trường -Đầu tư định hướng chi phí -Đầu tư định hướng nguồn nguyên liệu Đầu tư định hướng thị trường là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty mẹ sang các nước sở tại. Việc sản xuất sản phẩm cùng loại ở nước sở tại làm cho chủ đầu tư không cần đầu tư thiết bị, công nghệ mới lại có thể tận dụng được lao động rẻ, tiết kiệm được chi phí vận chuyển qua đó nâng cao tỷ suất lợi nhuận. Phần lớn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở các nước thực chất hoạt động như chi nhánh của các công ty mẹ ở chính quốc. Việc xây dựng các nhà máy sản xuất, chế tạo hoặc lắp ráp tại các nứơc sở tại sẽ mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, phụ tùng của các công ty mẹ ở nước ngoài, đặc biệt một số thị trường như thị trường Trung Quốc, ấn Độ, Indônêsia... là những thị trường lớn, nhiều tiềm năng nên có sức thu hút mạnh mẽ đối với FDI. Đây cũng là chiến lược bành trướng của các công ty đa quốc gia để vượt qua hàng rào bảo hộ của các nước sở tại bằng cách khai thác sản phẩm mới, thị trường mới. Một số nước để bảo hộ nền sản xuất trong nước, hạn chế việc nhập khẩu đã dựng lên hàng rào thuế quan, phi thuế quan khiến cho các sản phẩm nước ngoài không vào được thị trường nội địa. Vì thế, các nhà đầu tư nước ngoài bằng hình thức đầu tư sản xuất ngay trên thị trường nước tiêu thụ đã tránh đươc hàng rào thuế quan và bán được sản phẩm ra thị trường nước đó. Đây là một cách mà các doanh nghiệp của Nhật Bản đã làm để mở rộng vào thị trường Mỹ vào những năm 70 . Đầu tư định hướng chi phí là hình thức đầu tư ở nước ngoài nhằm giảm chi phí sản xuất thông qua việc tận dụng lao động và tài nguyên lao động và tài nguyên rẻ nhằm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, nâng cao tỷ suất lợi nhuận. Do sự phát triển không đồng đều về trình độ phát triển sản xuất, về mức sống, về thu nhập ...giữa các nước nên đã tạo ra sự chênh lệch về điều kiện, giá cả các yếu tố đầu vào của sản xuất. Đầu tư nước ngoài cho phép lợi dụng sự chênh lệch này để giảm chi phí và gia tăng lợi nhuận. Trước hết là chi phí lao động, theo thống kê, tiền lương lao động ở Nhật gấp hơn 10 lần lương bình quân của lao động trong khối ASEAN; lương bình quân trong các nước NICs Đông á cũng gấp 12 lần lương của lao động Việt Nam.Vì vậy, các nước tư bản phát triển và tư bản mới đã chuyển những ngành sử dụng lao động sang các nước đang phát triển để giảm chi phí sản xuất. Việc tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ở các nước sở tại cũng giúp các chủ đầu tư giảm chi phí vận chuyển hàng hoá, tiết kiệm chi phí quảng cáo, tiếp thị ... Ngoài ra, vào những năm 70 khi cuộc khủng hoảng cơ cấu diễn ra, khiến các nước tư bản phát triển phải di chuyển một bộ phận có kĩ thuật đơn giản sử dụng nhiều lao động và gây ô nhiễm môi trường, công nghệ lạc hậu như các ngành quần áo, giầy dép, hàng điện tử đơn giản, sơ chế khai khoáng quặng sang các nước đang và chậm phát triển. Điều này giúp các chủ đầu tư thực chất bán được máy móc cũ để thu hồi vốn nhằm đổi mới thiết bị công nghệ và trong nhiều trường hợp còn thu được đặc quyền đặc lợi do chuyển giao công nghệ lạc hậu với các chủ đầu tư nước ngoài. Đầu tư định hướng nguyên vật liệu là hình thức đầu tư theo chiều dọc. Các cơ sở ở nước ngoài là một bộ phận cấu thành trong dây truyền kinh doanh của công ty mẹ, có trách nhiệm khai thác nguồn nguyên liệu tại chỗ của nước sở tại cung cấp cho công ty mẹ để tiếp tục chế biến, hoàn chỉnh sản phẩm. Bằng hình thức đầu tư trực tiếp, các chủ đầu tư kiếm được thị trường cung cấp nguyên nhiên liệu ổn định, giá cả phải chăng. Nhiều nước đang phát triển có nguồn nguyên liệu dồi dào nhưng không có điều kiện khai thác, chế biến do thiếu vốn, công nghệ. Do đó các chủ đầu tư sẽ có được nguồn nguyên liệu ổn định, giá rẻ và qua chế biến sẽ thu được lợi nhuận cao. Đầu tư này phù hợp với các dự án khai thác dầu khí, tài nguyên thiên nhiên hoặc khai thác và sơ chế các sản phầm nông, lâm ngư nghiệp ở các nước sở tại ... II. Khái quát chung về khu công nghiệp- khu chế xuất 1. Khái niệm về khu chế xuất (Export processing zone-EPZ) Cùng với sự tiến bộ của hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế, cũng như tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế của từng nước trong từng thời kì khác nhau, khu chế xuất dần dần xuất hiện dưới nhiều hình thức và tên gọi khác nhau như: khu mậu dịch tự do, khu vực phi thuế quan, khu vực công nghiệp tự do, khu quá cảnh, đặc khu kinh tế ... Theo nghĩa rộng, khu chế xuất bao gồm tất cả các khu vực được Chính Phủ sở tại cho phép chuyên môn hoá sản xuất công nghiệp chủ yếu vì mục đích xuất khẩu, nó là khu vực biệt lập có chế độ mậu dịch và thuế quan riêng theo phương thức tự do, không phụ thuộc vào chế độ mậu dịch thuế quan phổ thông của nước đó. Theo quan niệm này thì khu chế xuất bao gồm các cảng tự do, các khu mậu dịch tự do, khu vực phi thuế quan và các khu công nghiệp tự do (Đây là quan niệm của hiệp hội khu chế xuất thế giới). Theo nghĩa hẹp, khu chế xuất chỉ giới hạn trong một khu vực riêng biệt, có ấn định ranh giới, ấn định cả sự kiểm tra dòng vận động của các luồng hàng hoá ra vào khu vực Tổ chức phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNIDO) trong tài liệu “khu chế xuất tại các nước đang phát triển” (Export processing zones in developing countries) ấn hành tháng 8 năm 1990 thì: Khu chế xuất là một khu vực tương đối nhỏ được phân cách về địa lý trong một quốc gia nhằm mục tiêu thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu bằng cách cung cấp cho những ngành này những điều kiện về đầu tư và mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với phần còn lại của nước chủ nhà. Trong đó, đặc biệt các khu chế xuất cho phép nhập khẩu hàng hóa dùng cho sản xuất để xuất khẩu miễn thuế trên cơ sở kho quá cảng. Xem xét một số định nghĩa về mô hình khu chế xuất khác tuy định nghĩa có khác nhưng có chung về bản chất là khuyến khích sản xuất hàng để xuất khẩu. Trong các cảng tự do, qui chế hải quan được thiết chế một cách độc lập.Tại đây, vốn đầu tư nước ngoài, hàng hóa, tàu thuyền được ra vào một cách tự do, chính quyền không đánh thuế các loại nguyên liệu vật tư và các bán thành phẩm nhập khẩu. Nhưng các mặt hàng nhập khẩu vào thị trường nội địa phải chịu thuế hải quan bình thường. Khu mậu dich tự do không nhất thiết là cảng tự do ở đây có sẵn các cơ sở kĩ thuật và phương tiện bốc xếp, vận chuyển, chế biến, lắp ráp các thiết bị phục vụ vận tải biển, vận tải bộ và hàng không, các nghiệp vụ trung chuyển hàng hoá. Mọi loại hàng hoá đều được nhập, xuất từ khu vực này một cách tự do, không phải chịu thuế hải quan . Đặc khu kinh tế mang nhiều chế định như khu chế xuất và khu công nghiệp nhưng diện tích sử dụng lớn hơn. ở việt Nam, theo định nghĩa trong qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao ban hành kèm theo Nghị Định 36 CP ngày 24/4/1997 thì Khu chế xuất: là khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Như vậy có nhiều định nghĩa, nhiều biểu hiện của khu chế xuất trên thực tế tuy không gọi là khu chế xuất, nhưng ta vẫn có thể ngầm hiểu đó là những khu có môi trường đặc biệt của mậu dịch, hải quan ...đủ hấp dẫn và đủ “tự do’’ không phụ thuộc hoàn toàn hay từng mặt nào đó vào các thiết chế đương thời của các nước sở tại. Hoạt động của KCX chủ yếu là nơi tập trung sản xuất hàng hoá xuất khẩu và dịch vụ các mặt do chủ đầu tư là người nước ngoài đảm nhận.Vật tư, nguyên liệu sản xuất đều mang từ nước ngoài vào, mà cũng có thể là tài nguyên của nước chủ nhà bán cho chủ đầu tư sau khi đã qua các thủ tục xuất khẩu của nước chủ nhà. Chủ đầu tư nước ngoài hoạt động ở các KCX theo nguyên tắc phải tự lo liệu vấn đề cung ứng vật tư nguyên liệu sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm làm ra. Còn các nước chủ nhà phải cung ứng các cơ sở hạ tầng kĩ thuật thông qua cho thuê hoặc bán thành phẩm như cung cấp điện nước, điện thoại, tổ chức các dịch vụ như sửa chữa, thiết kế, xây dựng; cung ứng các dịch vụ như ngân hàng, tín dụng, giải trí cho người nước ngoài tại các KCX. 2. Khái niệm khu công nghiệp (Industrial Zone- iz) Nếu như biện pháp sử dụng khu chế xuất để thu hút vốn đầu tư nước ngoài tỏ ra có hiệu quả đến giữa thập kỉ 80, khi mà hầu hết các nước đang phát triển vẫn còn đề cao tự chủ kinh tế, hạn chế mở cửa với thế giới bên ngoài. Nhưng từ cuối thập kỉ 80, khu chế xuất đã bộc lộ những hạn chế về liên kết kinh tế với các khu vực kinh tế nội địa và xu hướng phát triển nền kinh tế mở của các nước đang phát triển nên nhiều nước đã chuyển sang các biện pháp xây dựng các khu công nghiệp, công nghệ cao để thu hút đầu tư nước ngoài. Nếu như khu chế xuất gắn liền với mục tiêu hướng về xuất khẩu, hầu như không có quan hệ với thị trường nội địa thì khu công nghiệp có nhiều quan hệ với thị trường trong nước, vừa có quan hệ nội thương, vừa có quan hệ ngoại thương.Với mô hình khu công nghiệp các nước đang phát triển có thể thu hút đầu tư nước ngoài vào một số ngành công nghiệp, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.Vì sản phẩm của các khu công nghiệp một phần bán vào thị trường nội địa nên các nước này hạn chế được nhập khẩu hàng hoá thiết bị, đồng thời trong khu công nghiệp vẫn có thể tồn tại doanh nghiệp chế xuất để sản xuất hàng xuất khẩu, vẫn có những ưu đãi về thuế, hải quan tuy không nhiều như khu chế xuất nhưng bù lại những khu công nghiệp này lại có thể tận dụng được những lợi thế sử dụng nguyên nhiên liệu và cung cấp hàng hoá vào thị trường nội địa. Khu công nghiệp được hiểu là một phần lãnh thổ của một nước, một địa phận mà ở đó các hoạt động kinh tế có những ưu đãi về cơ chế về chính sách cụ thể như thuế quan, hoạt động xuất nhập khẩu, đất đai, lao động…Đó là những vùng lãnh thổ tham gia tích cực vào quan hệ kinh tế quốc tế nhằm khuyến khích sự phát triển của vùng này. ở Việt Nam -Khu công nghiệp được định nghĩa như sau trong qui chế khu công nghiệp -khu chế xuất ban hành cùng NĐ36/CP ngày 24/4/1997 như sau: "Khu công nghiệp" là khu tập trung các doanh nghiệp KCN chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập Theo qui định trong nghị định 36CP này thì trong khu công nghiệp có thể có các doanh nghiệp chế xuất. Trong các khu công nghiệp, các nhà máy được xây dựng theo nguyên lý tập trung theo chiều dọc: thí dụ bên cạnh cảng tiếp thu khí từ biển là các doanh nghiệp điện, đạm, thép. Sau đó, thép được luyện với quặng sắt nhập với khí từ các lò luyện, thép nóng được các băng tải chuyển đến các nhà máy cán thép và làm các sản phẩm từ thép. Khu công nghiệp có thể chuyên sản xuất một mặt hàng, như xe ô tô, trong khu sẽ có những nhà máy vệ tinh sản xuất các phụ tùng cho một nhà máy mẹ lắp ráp thãnh xe ô tô nguyên chiếc. Bên cạnh nhà máy mía đường là nhà máy giấy sản xuất bột giấy từ bã mía, thức ăn gia súc từ mật mía v.v…Nhờ có sẵn các doanh nghiệp cung cấp đầu vào và tạo đầu ra cho nhà máy, nên các doanh nghiệp sản xuất dễ dàng đầu ra, đầu vào với chi phí thấp nhất, sản phẩm của nhà máy này là xuất lượng của nhà máy kia. Như vậy, nhìn chung khu công nghiệp (hay khu công nghiệp tập trung) là một khu đất được qui hoạch và phát triển theo một kế hoạch tổng thể để cung cấp cơ sở vật chất hạ tầng cần thiết và đảm bảo tính liên hoàn đầy đủ cho một cộng đồng các ngành công nghiệp tương ứng. Khi quyết định thành lập môt khu công nghiệp, người ta thường quan tâm đến việc phân bố và hình thành các KCN, KCX phù hợp với điều kiện tự nhiên, môi trường và xã hội nhân văn để đạt được hiệu quả cao trong thu hút đầu tư, phát triển kinh tế bền vững, như : - Có khả năng xây dựng cơ sở hạ tầng thuận lợi, có vị trí, quy mô diện tích phù hợp. - Có khả năng cung cấp nguyên liệu trong nước hoặc nhập khẩu, thuận lợi cho việc vận tải. - Có thị trường tiêu thụ sản phẩm. - Có khả năng cung ứng lao động đủ, dễ dàng và có chất lượng. - Có điều kiện đảm bảo cơ sở hạ tầng kỹ thuật - xã hội. - Kết hợp chặt chẽ phát triển KCN, KCX với quy hoạch đô thị và phân bố dân cư. - Đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia… Trong những năm gần đây, do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, ngày càng có nhiều nước sử dụng các biện pháp xây dựng các khu công nghệ cao (High-tech Parks-HPs) để thu hút các dự án đầu tư nước ngoài sử dụng công nghệ hiện đại. Ngoài các đặc điểm của khu công nghiệp, khu công nghệ cao còn là nơi được đầu tư cơ sở hạ tầng, dịch vụ hiện đại và bao gồm cả các cơ sở nghiên cứu khoa học, đào tạo …ở Việt Nam, hiện nay đang xây dựng khu công nghệ cao Hoà Lạc với diện tích 1.600 ha nằm ở địa phận tỉnh HàTây đang trong quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng - đây sẽ là hạt giống phát triển kĩ thuật công nghệ của cả nước trong thời gian tới. 3. Đặc trưng của kcn- kcx Từ định nghĩa trên, ta có thể thấy khu công nghiệp -khu chế xuất đều có một đặc trưng chung nhất là một khu đất có ranh giới riêng biệt thường được ngăn bằng hàng rào kiên cố với phần còn lại của lãnh thổ nước đó. Trong những khu này nước chủ nhà tiến hành cung cấp đầy đủ các loại dịch vụ như hệ thống thông tin liên lạc, đIện, nước, trang bị hạ tầng cơ sở đầy đủ …Việc tiến hành xây dựng nhà máy, phân xưởng sản xuất và các cơ sở hạ tầng khác có thể do chính nhà đầu tư của nước chủ nhà hoặc là do liên doanh, hoặc do bên nước ngoài xây dựng. Những khu này đựơc Chính Phủ nước đó qui hoạch và thường lựa chọn ở những nơi có điều kiện thuận lợi về giao thông, gần cảng, sân bay, gần những nguồn cung cấp nguyên nhiên liệu. Do vậy, các chủ đầu tư có những lợi thế về địa điểm, tiết kiệm được chi phí vận tải, giao thông... Ngoài ra, không phải bỏ công sức lựa chọn, tìm kiếm địa điểm đặt nhà máy, không phải bỏ thêm một lượng vốn lớn để mua đất, đầu tư xây dựng hạ tầng mà chỉ phải bỏ chi phí ra thuê nhà xưởng đã có sẵn. Như vậy, vừa tiết kiệm được chi phí, vừa tiết kiệm được thời gian và có thể triển khai dự án sản xuất nhanh chóng. - Khu công nghiệp – khu chế xuất tập trung những ưu đãi về chính sách về tài chính cuả nước chủ nhà. Căn cứ vào động cơ của các nhà đâu tư luôn muốn tối đa hoá lợi nhuận, tìm cách giảm chi phí, các nước này đã đưa ra các chính sách tài chính đủ hấp dẫn cho họ. Trong khu chế xuất hàng hóa được tự do xuất nhập khẩu, không phải chịu thuế xuất khẩu khi xuất khẩu đi, hàng hoá tư liệu sản xuất nhập khẩu vào KCX để sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế hải quan, các thủ tục mua bán được giải quyết nhanh gọn. Kể cả hàng từ nội địa đưa vào khu chế xuất cũng được coi như hàng xuất khẩu ra nước ngoài, hàng từ khu chế xuất đưa ra thị trường nội địa được coi như là hàng nhập khẩu từ nước ngoài. Khu công nghiệp thì được miễn giảm thuế đối với nguyên liệu phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu. Trong cả khu công nghiệp - khu chế xuất các doanh nghiệp đều được hưởng những ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp hơn so với các doanh nghiệp bản địa, và các doanh nghiệp ngoài khu khác. Hơn nữa, các doanh nghiệp trong các khu này đều được phép tuyển dụng và được hỗ trợ tìm kiếm lao động ở địa phương, do đó tận dụng được nguồn lao động rẻ ở các nước này. Nhiều nhà máy trong các khu công nghiệp -khu chế xuất thường đi theo những ngành sử dụng nhiều hàm lượng lao động như dệt may, da giày… Ngoài ra, các chủ đầu tư còn có thể được miễn, giảm thêm các loại thuế khác như thuế thu nhập cá nhân, chuyển lợi nhuận, ra nước ngoài, giảm các phí dịch vụ … tuỳ theo tỷ lệ và kết quả hoạt động của các doanh nghiệp này. - Khu công nghiệp - khu chế xuất đã giải toả lo lắng của các nhà đầu tư trước những thủ tục hành chính rườm rà tệ quan liêu của những nước này vì ở đây thủ tục hành chính đã được giảm thiểu ở mức tối đa, thậm chí xuống còn theo cơ chế “một cửa’’, đơn giản hoá các thủ tục từ việc xin cấp giấy phép đầu tư đến thủ tục hải quan, giảm sự can thiệp của các cơ quan quản lý khác… - Trong khu chế xuất chủ yếu các doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng gia công, chế biến sau đó xuất khẩu đi, sản phẩm không để tiêu thụ ở thị trường trong nước, các nước thường qui định một tỷ lệ tối thiểu phải xuất khẩu, nhưng trong những năm gần đây, tỷ lệ này giảm đi, một số nước cho phép các doanh nghiệp có thể bán một phần sản phẩm vào thị trường nội địa. Còn trong khu công nghiệp, có quan hệ với thị trường nội địa vì thế sản phẩm vừa để phục vụ cho trong nước, vừa có thể xuất khẩu. Vì thế, khi đầu tư vào các khu này, các nhà đầu tư vẫn có cơ hội để mở rộng thị trường cho sản phẩm của mình . Trên đây là những đặc điểm cơ bản nhất của mô hình KCN - KCX, với những đặc điểm này, mô hình này đã đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư. Việc áp dụng có thành công hay không của mỗi nước phụ thuộc vào cách thức tiến hành, quản lý của từng nước sao cho phù hợp với tình hình đặc điểm riêng của nước mình. Sự ra đời và phát triển khu công nghiệp-khu chế xuất ở Châu á Nếu như vào những năm đầu thế kỉ 20, đầu tư nước ngoài xuất hiện là do quan hệ cung cầu về vốn, vốn chảy từ nước “thừa” sang nước thiếu vốn - chủ yếu là những nước đang phát triển, thì đến nay khi quan sát dòng chảy về vốn, người ta nhận thấy dòng vốn là “dòng nghịch’’ chảy ngược vào các nước tư bản phát triển. Do vậy các nước đang phát triển không những phải cạnh tranh với các nước đang phát triển khác mà còn phải cạnh tranh với các nước tư bản phát triển trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Đồng thời vào những năm 60 này các nước Châu á đang tiến hành các công cuộc phát triển đất nước theo chiến lược “Công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu’’ với chủ trương mở của kinh tế với thế giới bên ngoài. Tuy nhiên các nước này gặp phải những khó khăn do việc thiếu vốn, ngoại tệ, thiếu công nghệ kĩ thuật. Một trong những biện pháp quan trọng là phải thu hút nguồn vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài để họ đến tiến hành sản xuất, kinh doanh và sau đó xuất khẩu sản phẩm để vừa có thể đảm bảo tăng thu về ngoại tệ, không làm ảnh hưởng đến các doanh nghiệp trong nước. Nhận thức được tình hình trên, các nước đang phát triển nói chung và một số nước Châu á nói riêng đã áp dụng mô hình xây dựng lên những khu mà ở đó tập trung các điều kiện ưu đãi về thuế, thuế quan, có các cơ sở hạ tầng thuận lợi dành cho các nhà đầu tư để sản xuất hàng hoá để xuất khẩu. Phát triển loại mô hình này tỏ rất phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của các nước này. Thứ nhất, việc thành lập ra các khu để sản xuất hàng xuất khẩu đây là một trong những công cụ giúp cho các nước này tạo ra được nguồn hàng xuất khẩu, cải biến cơ cấu xuất khẩu với những mặt hàng xuất khẩu chủ lực mang về nhiều ngoại tệ, đồng thời có thể bảo vệ nền sản xuất trong nước non kém do không phải cạnh tranh với hàng từ bên ngoài vào, vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực sản xuất. Thứ hai, các nước Châu á cũng như các nước đang phát triển nói chung đều rơi vào tình trạng chưa có môi trường đầu tư thuận lợi, bao gồm hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, chưa đầy đủ, cơ sở hạ tầng kinh doanh còn yếu kém. Do vậy khó có thể cải thiện môi trường đầu tư trong một thời gian ngắn và trên phạm vi cả nước. Giải pháp để thu hút đầu tư là xây dựng lên những khu công nghiệp, khu chế xuất hay những khu khác tương tự trong một qui mô nhỏ để có thể tập trung những điều kiện ưu đãi thuận lợi cho các chủ đầu tư nước ngoài. Mô hình những khu như vậy gọi chung là các khu chế xuất, cho dù ở mỗi nước xây dựng có những đặc điểm riêng, tên gọi khác như khu quá cảng, khu công nghiệp tự do, đặc khu kinh tế…Nhìn chung nó đã giúp các nước này khắc phục được những điểm yếu cả về hạ tầng kinh tế, xã hội và tạo ra được những cửa ngõ mời chào ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, trong giai đoạn này xuất hiện hàng loạt các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia với hoạt động trên qui mô quốc tế, sản phẩm ở trình độ cao hơn, mỗi sản phẩm đều có những tiêu chuẩn nhất định nên điều này cho phép các công ty xuyên quốc gia có thể đầu tư nhằm thực hiện gia công, chế biến, sản xuất những phụ tùng ở các nước đang phát triển. Sự phân công lao động quốc tế này cũng phần nào góp phần nào cho sự ra đời và phát triển các khu chế xuất ở Châu á. Như vậy, khu chế xuất ở Châu á chính thức ra đời vào những năm 60, và đến đầu những năm 1970, khi chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu đã phát triển mạnh và nhu cầu phát triển xuất khẩu đã trở nên bức thiết, nhiều nước đã quyết định thành lập khu chế xuất phục vụ cho chiến lược này.Vì thế trong giai đoạn 1970-1974, ở Châu á đã có 15 khu chế xuất ra đời. Sau đó, tình hình chững lại một số năm, từ năm 1974 đến năm 1979 chỉ có thêm 2 khu chế xuất nữa và trong vòng 5 năm (1980-1985) có thêm 13 khu mới thành lập. Đến cuối thập kỉ 1980, trên thế giới có khoảng 80 khu chế xuất, trong đó khu vực Châu á - Thái Bình Dương chiếm trên 1/3 (khoảng 35 khu) và tập trung ở một số nước như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Đài Loan, Philippin. Malaysia …Đến năm 1996, trên thế giới có khoảng 839 khu chế xuất và các khu tương tự khác trong đó các nước Châu á chiếm 225 khu. Đến năm 1997, có khoảng 850 khu chế xuất các loại ở cả các nước phát triển và đang phát triển và con số này liên tục tăng trong những năm gần đây và phần lớn vẫn tập trung chủ yếu ở các nước Châu á (1) Đâu tư quốc tế, Phùng Xuân Nhạ, NXB ĐH Quốc gia Hà Nội, 2001 . Việt Nam chúng ta đang trong tình trạng giống các nước NICs trong những thập 60, việc học hỏi theo kinh nghiệm và áp dụng mô hình khu chế xuất của các nước này là một tất yếu. Năm 1991, cùng với những chính sách thu hút đầu tư nước ngoài rộng mở, khu chế xuất đầu tiên ở Việt Nam, khu chế xuất Tân Thuận được thành lập. Do yêu cầu của thực tế, Việt Nam đã phát triển thêm mô hình khu công nghiệp, trong đó yêu cầu về tỷ lệ xuất khẩu của các doanh nghiệp không còn nữa và chỉ khuyến khích các doanh nghiệp trong khu sản xuất hàng để xuất khẩu. Với sự linh hoạt này, khu công nghiệp ở Việt Nam không những thu hút được nhiều các chủ đầu tư nước ngoài mà còn cả chủ đầu tư trong nước. Đến nay, qua 10 năm phát triển, Việt Nam đã hình thành lên một mạng lưới sản xuất công nghiệp gồm 65 khu công nghiệp và 3 khu chế xuất (chưa kể đến khu công nghiệp Dung Quất - được coi như là một khu kinh tế tổng hợp) và một khu công nghệ cao. Iii. ý nghĩa của KHU CôNG NGHIệP- KHU CHế XUấT trong việc thu hút FDI Đến nay, khó có thể phủ nhận vai trò của các khu này trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước, các khu này tạo thêm việc làm cho người lao động, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, phát triển nền công nghiệp…nhưng có thể thấy rõ đặc điểm cũng như mục tiêu thành lập chính của các khu này là nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tiếp thu chuyển giao công nghệ hiện đại và học hỏi kinh nghiệm quản lí tiên tiến trên thế giới. KCN, KCX với những ưu đãi đặc biệt về tài chính như mức thuế suất thấp hoặc không đánh thuế đối với các dự án xuất khẩu trong khu chế xuất, đơn giản hoá thủ tục hành chính, thậm chí xuống còn “một cửa”,v.v.so với đầu tư vào các khu vực còn lại của lãnh thổ nên đã trở thành môi trường hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Đối với các nước đang phát triển, để tranh thủ tận dụng nguồn vốn này, do không thể cải thiện ngay môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh ngay trong một thời gian ngắn nên đã khắc phục bằng việc triển khai thu hút nguồn vốn trong một phạm vi hẹp. Vì thế, nếu so với các công cụ tăng cường thu hút đầu tư khác như xúc tiến đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng cả nước, hoàn thiện hệ thống pháp lý chung …thì biện pháp này được đánh giá là nhanh và có hiệu quả hơn cả. Mục đích chính cho sự ra đời của các KCN- KCX ở các nước đang phát triển cũng như ở một số nước châu á là nhằm thu hút FDI, vì thế vai trò chính của nó là hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài đến để bỏ vốn và tổ chức sản xuất kinh doanh. Mặc dù gần đây bên cạnh các chủ đầu tư nước ngoài, còn có các chủ đầu tư trong nước tham gia, nhưng nguồn vốn FDI trong các KCN, KCX vẫn chiếm tỷ lệ lớn, đóng vai trò chủ đạo. Chẳng hạn ở Đài Loan, trong những năm đầu phát triển KCN đã thu hút khoảng 60% vốn FDI; ở Malaysia trong 10 năm 1985-1995 đã có 8918 dự án đầu tư về công nghiệp được cấp giấy phép vào 12 KCX và 178 KCN với tổng số vốn đầu tư 85,87 tỷ USD, trong đó vốn FDI chiếm 53,5%; ở Trung Quốc, riêng đặc khu kinh tế Thẩm Quyến hàng năm đã thu hút tới 1/7 tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc (1) Tố chức quản lý KCN,-KCX, Lê Công Huỳnh, Tạp chí thông tin KCN Việt Nam 4/2002 ; đặc biệt theo báo cáo đầu tư thế giới năm 2002, tỉ lệ vốn FDI chảy vào các KCX của Philippine năm 1997 đạt 30% nhưng đến năm 2000 tỷ lệ này là 81%. Cùng với nguồn vốn FDI, các nước chủ nhà còn quan tâm đến việc chuyển giao công nghệ, trình độ khoa học quản lý hiện đại từ những nước đầu tư tiên tiến. Tình trạng máy móc, thiết bị kĩ thuật của các nước đang phát triển nhìn chung rất lạc hậu, các nước này lại gặp khó khăn về vốn, ngoại tệ nên khó có thể đổi mới hay khắc phục được bằng nội lực của mình. Vì thế các nước này coi việc thu hút đầu tư là cơ hội để cải thiện trình độ sản xuất trong nước, tiếp cận với khoa học công nghệ mới. ở các KCX, KCN các nhà đầu tư đưa máy móc thiết bị tiên tiến để sản xuất ra các sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường, cũng từ đó tạo điều kiện thúc đẩy các xí nghiệp khác bên ngoài khu đổi mới thiết bị nâng cao chất lượng sản phẩm. Mặc dù ở các KCN, KCX các nhà đầu tư chủ yếu là sản xuất hàng tiêu dùng, gia công, lắp ráp … nhưng nhìn chung đối với các nước đang phát triển, đây vẫn là những ngành công nghiệp tiên tiến, có trình độ công nghệ kĩ thuật cao hơn mức trung bình trong nước. Hơn nữa, việc chuyển giao công nghệ trong các KCN- KCX còn bắt đầu từ các kĩ thuật viên, các nhà quản lý người nước ngoài cùng làm việc trong một phân xưởng với kĩ sư, người lao động nước chủ nhà, qua đó mà các nhân viên nước chủ nhà học hỏi được nhiều kiến thức, kinh nghiệm nghề nghiệp, thói quen tác phong công nghiệp. Nhiều công ty còn tổ chức các khoá đào tạo mới hoặc lại cho nhân viên của của mình ở các nước chủ nhà, thậm chí còn gửi đào tạo ở nước ngoài để họ có thể tham gia vào công tác quản lý của công ty, học cách sử dụng vận hành những máy móc hiện đại. Hơn nữa, các doanh nghiệp nước ngoài khi tuyển dụng lao động ở các nước sở tại đều đòi hỏi những yêu cầu cao, vì thế buộc người lao động phải tìm cách nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn của mình. Hàn Quốc là một trong những ví dụ đã đạt được thành công lớn nhờ biết tận dụng việc chuyển giao công nghệ trong các khu này. ở Hàn Quốc, các công ty xuyên quốc gia đặc biệt là của Nhật và của Mỹ quan hệ chặt chẽ với các hãng trong các khu công nghiệp, khu chế xuất bằng cách trao đổi thường xuyên thông tin về sản phẩm mới, hướng dẫn nâng cao chất lượng, công tác kĩ thuật. Vì hiệu quả đầu tư nên trong một số ngành như điện tử, dược phẩm, các chủ đầu tư nước ngoài cũng muốn chuyển giao công nghệ, nâng cao tay nghề cho công nhân, đào tạo các chuyên gia sở tại tiến hành các hoạt động R&D ngay tại Hàn Quốc. Hơn nữa, người Hàn Quốc có tinh thần độc lập cao trong công việc, nhanh nhạy trong việc nắm bắt công nghệ, vì vậy thời gian sao chép, bắt chước công nghệ phương Tây diễn ra nhanh chóng, đến nay các hãng công nghiệp của Hàn Quốc đang dần đuổi kịp công nghệ của các nước phương Tây tiên tiến. Đây là tấm gương để các nước đang phát triển noi theo trong việc coi trọng công tác chuyển giao công nghệ thông qua việc phát triển nguồn nhân lực. Qua phân tích ở trên, có thể thấy xuất phát từ cơ sở lí luận và thực tiễn, việc phát triển mô hình KCN,KCX có ý nghĩa to lớn đối với việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đặc biệt là đối với các nước đang phát triển trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Vì vậy, việc triển khai, xây dựng các KCN, KCX Việt Nam nhằm tăng cường thu hút FDI có thể khẳng định là hướng đi đúng đắn, hợp lí, phù hợp với tình hình thực tế nước ta và xu thế chung của thời đại. Tuy vậy, với lợi thế là một nước đi sau, chúng ta cần phải học hỏi kinh nghiệm thành công, cũng như nhìn ra những thất bại của các nước khác đồng thời linh hoạt áp dụng vào tình hình thực tế riêng của nước ta để KCN, KCX có thể phát huy được hết vai trò, ý nghĩa của mình trong việc thu hút đầu tư nước ngoài cũng như phát triển kinh tế cả nước nói chung .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docchuong 1.doc
  • docch­uong 2+3.doc
  • docketluan.doc
  • docloi mo dau lan 2.doc
  • docmuc luc moi.doc
  • docnxet ksqn.doc
  • docphu luc 1.doc
  • docPhu luc 3.doc
  • docphu luc 4.doc
  • doctai lieu tham khao.doc
Tài liệu liên quan