Thứ hai, giải tỏa áp lực cho các phương thức
vận tải khác, đặc biệt là vận tải đường bộ và
hàng không. Hiện nay thị phần vận tải đang
bị mất cân đối nghiêm trọng giữa các phương
thức vận tải gây nên tình trạng mất an toàn, ô
nhiễm môi trường, chi phí vân tải và logistics
cao. Để tháo gỡ tồn tại của hệ thống GTVT
cần có các giải pháp không chỉ cân đối hài
hòa mà còn tạo sự đột phá về năng lực và chất
lượng dịch vụ vận tải. Đường sắt tốc độ cao
với những ưu thế vượt trội sẽ là một gải pháp
hoàn toàn phù hợp giúp thiết lập lại sự hài hòa
và giải tỏa áp lực cho các phương thức vận tải
khác.
Thứ ba, tăng cường năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế. Xây dựng đường sắt tốc độ cao
sẽ giúp cho hai đầu đất nước kéo lại gần nhau
hơn trong tư duy phát triển kinh tế, góp phần
tiết kiệm thời gian đi lại của hành khách. Chi
phí đi lại của xã hội cũng tiết kiệm. Những
lợi ích trên sẽ là nhân tố quan trọng để tăng
cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Ngoài ra phát triển đột phá hạ tầng giao
thông, tạo động lực cũng sẽ nâng cao năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế trong hội nhập
quốc tế.
Thứ tư, tái cấu trúc đô thị và phân bổ dân cư,
lao động. Đường sắt tốc độ cao sẽ góp phần
quan trọng thúc đẩy phát triển du lịch cũng
như quá trình đô thị hóa tại các đô thị trên trục
Bắc – Nam. Được sắt tốc độ cao hình thành
sẽ xóa bỏ những hạn chế về điều kiện địa lý,
cho phép rút ngắn khoảng cách thời gian cũng
như thay đổi khái niệm về không gian giữa
các địa phương, vùng miền. Lợi thế thương
mại và nguồn lực phát triển được chia sẻ giữa
các các khu vực. Tạo động lực thúc đẩy
nhanh quá trình đô thị hóa các khu vực kém
phát triển; là điều kiện tốt để quy hoạch lại đô
thị, góp phần mở rộng không gian, chia sẻ và
giảm áp lực đối với các đô thị lớn đã phát
triển. Những tác động tích cực của đường sắt
tốc độ cao sẽ góp phần quan trọng trong việc
tái cấu trúc đô thị và phân bổ dân cư, alo
động.
Thứ năm, phù hợp với chiến lược, quy hoạch.
Đường sắt tốc độ cao hoàn toàn phù hợp với
các chiến lược quy hoạch phát triển GTVT
nói chung, đường sắt nói riêng. Đặc biệt trong
chiến lược phát triển GTVT đường sắt đến
năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 đã
khẳng định mục tiêu đến năm 2030 sẽ đưa
vào khai thác một phần tuyến đướng sắt tốc
độ cao.
Với sự cần thiết như vậy cần có nghiên
cứu huy động vốn đáp ứng nhu cầu dự án,
trong đó cần đặc biệt chú ý hình thức huy
động vốn khu vực tư nhân đầu tư cho dự án
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 298 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thu hút khu vực tư nhân tham gia đầu tư cho đường sắt tốc độ cao theo hình thức đối tác công tư (PPP) ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 53 (03/2019) 1-5 1
THU HÚT KHU VỰC TƯ NHÂN THAM GIA ĐẦU TƯ
CHO ĐƯỜNG SẮT TỐC ĐỘ CAO THEO HÌNH THỨC ĐỐI TÁC
CÔNG TƯ (PPP) Ở VIỆT NAM
ATTRACT PRIVATE SECTOR TO INVEST FOR HIGH-SPEED RAIL
IN THE FORM OF PUBLIC-PRIVATE PARTNERSHIPS (PPP) IN VIETNAM
Bùi Xuân Phong*1
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 6/9/2018
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 5/3/2019
Ngày bài báo được duyệt đăng: 25/3/2019
Tóm tắt: Lựa chọn đường sắt tốc độ cao cho phát triển loại hình giao thông mới trên trục
Bắc – Nam trong tương lai là hoàn toàn phù hợp và thực sự cần thiết. Xây dựng đường sắt tốc độ
cao sẽ mang lại tác động to lớn đối với chính trị, kinh tế, xã hội của Việt Nam. Hình thức đối tác
công tư đang là giải pháp tối ưu cho Việt Nam để huy động vốn từ khu vực tư nhân để phát triển
cơ sở hạ tầng nói chung và đường sắt tốc độ cao nói riêng tại Việt Nam. Bài viết phân tích tổng
quan về huy động vốn theo hình thức PPP, các vấn đề cần thiết đảm bảo cho sự thành công của
mô hình PPP, cũng như sự cần thiết thu hút khu vực tư nhân tham gia đầu tư cho Đường sắt tốc
độ cao theo hình thức đối tác công tư ở Việt Nam.
Từ khóa: đường sắt tốc độ cao, đối tác công tư, vốn, thu hút, đầu tư.
Abstract: Selecting high-speed railway for developing new types of transport on the North-
South axis in the future is perfectly suitable and really necessary. Building high-speed railway will
bring great impact on Vietnam's politics, economy and society. The form of PPP is the optimal
solution for Vietnam to mobilize capital from the private sector to develop general infrastructure
and high-speed railway in particular in Vietnam. The article provides an overview of capital
mobilization in the form of PPP, necessary issues to ensure the success of PPP model, as well as
the need to attract private investment in high-speed railway in the PPP form in Vietnam.
Keywords: high-speed railway, PPP, capital, attraction, investment.
** Học viện công nghệ bưu chính viễn thông
2 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
1. Đặt vấn đề
Lựa chọn đường sắt tốc độ cao cho phát
triển loại hình giao thông mới trên trục Bắc –
Nam trong tương lai là hoàn toàn phù hợp và
thực sự cần thiết. Xây dựng đường sắt tốc độ
cao sẽ mang lại tác động to lớn đối với chính
trị, kinh tế, xã hội của Việt Nam. Chính vì vậy
Bộ GTVT đã tiến hành nghiên cứu tiền khả
thi dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc
Nam để trình Quốc hội vào năm 2019. Theo
kinh nghiệm đầu tư đường sắt tốc độ cao của
một số quốc gia trên thế giới, đơn vị tư vấn
chính là Liên danh tư vấn Tổng công ty Tư
vấn thiết kế GTVT-CTCP thành viên đứng
đầu liên danh; Công ty cổ phần tư vấn đầu tư
và xây dựng GTVT; Công ty cổ phần Tư vấn
thiết kế GTVT phía nam cùng Tư vấn hỗ trợ
của JICA Nhật Bản đã tính toán Tổng mức
đầu tư dự án là 58,71 tỷ USD. Về hình thức
đầu tư theo hình thức đối tác công tư PPP.
Trong phần Phương án huy động vốn đầu tư
thì vốn nhà nước khoảng 80%, vốn tư nhân
khoảng 20%. Vậy làm thế nào để huy được
vốn tư nhân, rất cần có nghiên cứu để khuyến
nghị, đề xuất với Nhà nước
2. Huy động vốn theo hình thức
PPP
2.1 Tổng quan về hợp đồng hợp tác
công tư PPP
Hợp đồng PPP (Public Private
Partnership) không phải là khái niệm mới,
nhưng vẫn chưa có một định nghĩa khái luận
đầy đủ, chính xác và rõ ràng về bản chất hợp
đồng PPP, bởi lẽ trên thực tế, mô hình,
phương thức và các nội dung của hợp tác
công – tư được xây dựng và tiếp cận theo
những phạm vi và cách thức khác nhau, tùy
thuộc vào các yếu tố về lịch sử, văn hóa,
chính sách, luật pháp, và mức độ phát triển
của từng quốc gia.
Theo cách hiểu truyền thống, Hợp đồng
PPP là thỏa thuận hợp tác giữa Nhà nước và
khu vực tư nhân trong đầu tư phát triển cơ sở
hạ tầng và cung cấp các dịch vụ công, theo đó
một phần hoặc toàn bộ công việc sẽ được
chuyển giao cho khu vực tư nhân thực hiện
với sự hỗ trợ của Nhà nước.
Cũng có thể hiểu Hợp đồng hợp tác
công – tư là một khái niệm chung đề cập toàn
bộ các yếu tố khác biệt và cách tiếp cận khác
nhau về hợp tác giữa Nhà nước và khu vực tư
nhân, hoặc có thể chỉ đề cập đến một phương
thức hoặc một hình thức hợp tác cụ thể giữa
nhà nước và khu vực tư nhân. Điều này có thể
được tham khảo qua các chính sách hợp tác
công – tư của Australia (public private
partnership - PPP), Luật về thúc đẩy sáng
kiến tài chính tư nhân của Nhật Bản (private
finance innitial - PFI), Luật về tham gia của
tư nhân trong phát triển cơ sở hạ tầng của Hàn
Quốc (private participation in infrastructure -
PPI), hoặc quy định về đầu tư theo hình thức
xây dựng – kinh doanh – chuyển giao của
Việt Nam (BOT).
Ở bình diện chung nhất khái niệm hợp
đồng PPP là phạm trù động và được hiểu rất
linh hoạt tùy theo cách tiếp cận hợp đồng và
những hoàn cảnh áp dụng cụ thể, một hướng
xây dựng định nghĩa hợp đồng BOT trên cơ
sở bao quát các khía cạnh pháp lý, tài chính
chủ yếu của hợp đồng như quá trình đầu tư,
chủ thể, tính cấp quyền, tính chất tài chính và
mối quan hệ giữa các bên tham gia hợp đồng.
Cơ sở hình thành thỏa thuận PPP: Hợp
đồng BOT trong nhiều năm gần đây đã được
sử dụng và đóng vai trò quan trọng trong
phát triển cơ sở hạ tầng, các cơ sở sản xuất
công nghiệp, nông nghiệp ở các nước nhất là
các nước đang phát triển. Bởi vì, một mặt
việc phát triển cơ sở hạ tầng được coi là điều
kiện tiên quyết cho phát triển kinh tế. Mặt
khác, nguồn vốn của nhà nước để đầu tư vào
những lĩnh vực khác nhau của cơ sở hạ tầng
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 3
còn rất hạn hẹp, chưa thể đáp ứng đủ và
càng chưa thể đáp ứng tốt nhu cầu.
Cơ sở hình thành các thỏa thuận PPP
xuất phát từ việc đầu tư các dự án/công trình
kết cấu hạ tầng và/hoặc cung cấp dịch vụ
công nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu của đời
sống xã hội, như xây dựng và vận hành hệ
thống đường bộ, cấp điện, cấp nước
Những dự án, dịch vụ này đòi hỏi đầu tư lớn
nhưng khó sinh lời nên thường do nhà nước
đứng ra thực hiện. Tuy nhiên, có một thực tế
là nhu cầu sử dụng các công trình, dịch vụ
công, đặc biệt là trước sức ép tăng trưởng
kinh tế, luôn vượt quá khả năng thu xếp
nguồn lực hữu hạn của nhà nước mà ngay cả
các quốc gia phát triển cũng phải đối mặt với
tình huống này. Chính vì vậy mà một trong
những giải pháp để khắc phục tình trạng này
là thu hút các nguồn lực đầu tư vào các dự án,
dịch vụ công thông qua đối tác nhà nước – tư
nhân (PPP).
Để thực hiện dự án PPP, đòi hỏi có
nhiều hợp đồng được ký kết, song hợp đồng
PPP là cơ sở pháp lý quan trọng nhất, là tiền
đề cho việc hình thành doanh nghiệp dự án và
việc ký kết các hợp đồng liên quan để thực
hiện dự án. Hợp đồng PPP là “luật riêng” của
mỗi dự án và là tập hợp các thỏa thuận cho
phép nhà đầu tư quyền được thực hiện dự án
với những cam kết đối với nhà nước trong
việc phát triển công trình cơ sở hạ tầng.
2.2 Một số vấn đề cần thiết cho sự
thành công cho mô hình PPP
Việc xác định các nhân tố tác động đến
sự thành công cho mô hình PPP là những vấn
đề cơ bản phải có và cần được duy trì trong
suốt vòng đời dự án để đảm bảo dự án được
triển khai thành công và hiệu quả. Các nhà
nghiên cứu đã chỉ ra các nhân tố quyết định
thành công của dự án PPP khác nhau, nhưng
nhìn chung có các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng
đáng kể đến sự thành công của PPP
(i) Vai trò và trách nhiệm của Chính phủ:
Chính phủ giữ vai trò hết sức quan trọng
trong việc phát triển dự án PPP như dự án
đường sắt tốc độ cao. Để vận hành PPP thành
công, đề xuất Chính phủ cần thực hiện một
loạt cải cách, bao gồm
- Hoàn thiện khung pháp lý đầy đủ, tạo sự
thuận lợi cho nhà đầu tư. Một khung pháp lý
đầy đủ và minh bạch là điều kiện tiên quyết
cho sự thành công của PPP nhằm gia tăng
niềm tin của nhà đầu tư tư nhân, đảm bảo dự
án đạt hiệu quả, phân chia rủi ro phù hợp và
trách những rủi ro tiềm tàng
- Chính sách hỗ trợ của Chính phủ: Mặc dù
đối với các dự án PPP, khu vực tư nhân tham
gia và chịu trách nhiệm là chủ yếu nhưng
chính phủ cần tích cực tham gia suốt vòng đời
dự án để đảm bảo dự án đáp ứng các mục tiêu,
cụ thể là thành lập các bộ phận giám sát quá
trình thực hiện dự án , xử lý các vấn đề phát
sinh, quản lý chất lượng dự án.
- Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô: Sự hài
lòng của các nhà đầu tư phụ thuộc rất lớn vào
điều kiện kinh tế vĩ mô tại khu vực mà dự án
được triển khai. Vì vậy Chính phủ cần tạo lập
một môi trường đầu tư thuận lợi với điều kiện
xã hội, pháp luật, kinh tế và tài chính ổn định.
- Phát triển thị trường tài chính: thị trường tài
chính là nguồn cung ứng vốn cho các khu
vực. Phát triển thị trường tài chính là tiền đề
cho việc phát triển và ổn định kinh tế vĩ mô.
(ii) Lựa chọn đối tác tư nhân phù hợp:
Chính phủ cần lựa chọn các tập đoàn tư nhân
có năng lực và vững mạnh. Sự thành công của
dự án PPP đường sắt tốc độ cao phụ thuộc
nhiều vào sự lựa chọn này. Khi tham gia dự
án, tư nhân có trách nhiệm tài trợ vốn, thiết
kế, xây dựng, vận hành, bảo dưỡng và cung
cấp dịch vụ cho đến khi kết thúc thời gian
nhượng quyền. Để đảm bảo lựa chọn được
nhà đầu tư có năng lực, Chính phủ cần xây
dựng quy trình đấu thầu minh bạch và cạnh
tranh, dựa trên các cơ sở như phạm vi khách
4 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
hàng, công bằng, cạnh tranh và tài chính
minh bạch. Ngoài ra, cần sử dụng những
phương pháp đánh giá khoa học và xây dựng
bộ tiêu chuẩn đánh giá phù hợp với mục tiêu
của Chính phủ.
(iii) Nhận dạng và phân bổ rủi ro thích hợp:
Phân bổ rủi ro là sự phân chia là sự phân chia
các công việc giữa các đối tác trong cùng một
dự án, mỗi đối tác có trách nhiệm tài trợ, xây
dựng, kinh doanh và gánh chịu các rủi ro phát
sinh từ các công việc được giao. Các đối tác
công và tư khi tham gia PPP cần phải xác
định và hiểu rõ tất cả các rủi ro tiềm tàng liên
quan đến PPP để đảm bảo rằng các rủi ro
được phân chia một cách hợp lý. Rủi ro sẽ
được phân chia cho các bên có khả năng tài
chính và kỹ thuật tốt nhất để xử lý chúng. Đặc
biệt, đối với dự án đường sắt tốc độ cao rủi ro
cao do thâm dụng vốn, thời gian thực hiện dự
án dài và nhiều bên tham gia, cần thiết phải
phân chia rủi ro cho các đối tác tin cậy nhằm
đạt được hiệu quả đầu tư. Nhìn chung, các
nhà nghiên cứu đều khẳng định không có một
danh sách các rủi ro cố định cho dự án. Các
rủi ro của dự án PPP đường sắt tốc độ cao
thường bị ảnh hưởng bới quy mô, đặc điểm
dự án, loại hợp đồng PPP áp dụng. Ngoài ra,
mức độ quan trọng của một rủi ro cụ thể cũng
khác nhau giữa các dự án, giữa các quốc gia,
như rủi ro chính trị sẽ quan trọng hơn tại quốc
gia đang phát triển như nước ta.
(iv) Tài chính cho PPP: Chiến lược tài chính,
mà cụ thể là thiết lập cấu trúc vốn cho dự án
PPP một cách hợp lý sẽ là quyết định thành
công của mô hình này. Do đặc thù rủi ro cao
của dự án đường sắt tốc độ cao nên tài trợ từ
nợ của tư nhân bị hạn chế, chính phủ cần mở
rộng biên độ hỗ trợ nhằm tăng tính khả thi về
tài chính của dự án. Theo đó, một cấu trúc tài
trợ tiêu chuẩn cần được xây dựng cho một dự
án PPP bao gồm vốn mồi, vốn chủ sở hữu và
nợ. Vốn mồi là phần vốn góp ban đầu của
Nhà nước khi tham gia PPP nhằm giảm áp lực
về vốn cho tư nhân trong giai đoạn xây dựng,
đồng thời tăng tính hấp dẫn của dự án PPP.
Đây là một phần trong các hỗ trợ của Chính
phủ, phần vốn này Chính phủ không thu lợi
nhuận giúp tư nhân mau hoàn vốn. Cấu trúc
này đặc biệt phù hợp với các nước đang phát
triển như Việt Nam, nhất là dự án đường sắt
tốc độ cao có mức độ hấp dẫn không cao
Ngoài ra, để tăng sức hấp dẫn cho các dự án
PPP, Chính phủ cần cung cấp các hỗ trợ riêng
biệt hoặc thực hiện bảo lãnh bằng nhiều hình
thức như
- Hỗ trợ trực tiếp bằng trợ cấp, góp vốn, miễn
phí sử dụng đất, miễn giảm hoặc gia hạn nộp
thuế, hỗ trợ chi phí vận hành
- Hỗ trợ gián tiếp bằng cung cấp sự trợ giúp
cho tư nhân thông qua bảo lãnh khoản vay,
bảo lãnh doanh thu tối thiểu phù hợp với dự
án mà doanh thu thu từ phí không đủ bù đắp
chi phí đầu tư, đảm bảo tỷ giá, bảo lãnh chống
rủi ro bất khả kháng bằng kéo dài thời gian
nhượng quyền hoặc Chính phủ bù đắp tổn
thất cho đối tác tư nhân khi xảy ra rủi ro bất
khả kháng, thưởng cho dự án vượt tiến độ.
Sự hỗ trợ của Chính phủ nên ở mức
phù hợp sẽ cải thiện điều kiện tài chính và
tăng tính hấp dẫn của các dự án PPP. Nếu
mức hỗ trợ quá nhiều sẽ không phát huy được
lợi ích khai thác nguồn vốn của tư nhân mà
còn làm gia tăng mối quan ngại rằng khu tư
nhân thu được lợi nhuận từ khu vực công. Vì
thế, Chính phủ nên điều chỉnh mức độ hỗ trợ
và lựa chọn hình thức hỗ trợ thích hợp tùy
thuộc vào điều kiện cụ thể của từng dự án.
3.Kết luận
Lựa chọn đường sắt tốc độ cao cho phát
triển loại hình giao thông mới trên trục Bắc –
Nam trong tương lai là hoàn toàn phù hợp và
thực sự cần thiết. Xây dựng đường sắt tốc độ
cao sẽ mang lại tác động to lớn đối với chính
trị, kinh tế, xã hội của Việt Nam
Trước hết sẽ đáp ứng bền vững nhu cầu vận
tải trên hành lang kinh tế Bắc – Nam kéo theo
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 5
sự gia tăng về nhu cầu vận tải trong giai đoạn
từ nay đến năm 2030 và tiếp tục tăng nhanh
cho các năm sau đó đòi hỏi năng lực đáp ứng
của hệ thống giao thông vận tải luôn phải
được tăng cường. Với thực tại hiện nay, năng
lực của đường sắt đã gần bão hòa và cần cải
tạo nâng cấp, tuy nhiên khi cải tạo nâng cấp
cũng không đáp ứng nhu cầu vận tải sau
2030. Chính vì vậy đường sắt tốc độ cao với
các tính năng ưu việt vượt trội như năng lực
vận tải lớn, an toàn tin cậy, tiện nghi, thân
thiện với môi trường khi xây dựng sẽ đáp ứng
một cách bền vững nhu cầu vận tải ngày càng
tăng cao.
Thứ hai, giải tỏa áp lực cho các phương thức
vận tải khác, đặc biệt là vận tải đường bộ và
hàng không. Hiện nay thị phần vận tải đang
bị mất cân đối nghiêm trọng giữa các phương
thức vận tải gây nên tình trạng mất an toàn, ô
nhiễm môi trường, chi phí vân tải và logistics
cao. Để tháo gỡ tồn tại của hệ thống GTVT
cần có các giải pháp không chỉ cân đối hài
hòa mà còn tạo sự đột phá về năng lực và chất
lượng dịch vụ vận tải. Đường sắt tốc độ cao
với những ưu thế vượt trội sẽ là một gải pháp
hoàn toàn phù hợp giúp thiết lập lại sự hài hòa
và giải tỏa áp lực cho các phương thức vận tải
khác.
Thứ ba, tăng cường năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế. Xây dựng đường sắt tốc độ cao
sẽ giúp cho hai đầu đất nước kéo lại gần nhau
hơn trong tư duy phát triển kinh tế, góp phần
tiết kiệm thời gian đi lại của hành khách. Chi
phí đi lại của xã hội cũng tiết kiệm. Những
lợi ích trên sẽ là nhân tố quan trọng để tăng
cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Ngoài ra phát triển đột phá hạ tầng giao
thông, tạo động lực cũng sẽ nâng cao năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế trong hội nhập
quốc tế.
Thứ tư, tái cấu trúc đô thị và phân bổ dân cư,
lao động. Đường sắt tốc độ cao sẽ góp phần
quan trọng thúc đẩy phát triển du lịch cũng
như quá trình đô thị hóa tại các đô thị trên trục
Bắc – Nam. Được sắt tốc độ cao hình thành
sẽ xóa bỏ những hạn chế về điều kiện địa lý,
cho phép rút ngắn khoảng cách thời gian cũng
như thay đổi khái niệm về không gian giữa
các địa phương, vùng miền. Lợi thế thương
mại và nguồn lực phát triển được chia sẻ giữa
các các khu vực. Tạo động lực thúc đẩy
nhanh quá trình đô thị hóa các khu vực kém
phát triển; là điều kiện tốt để quy hoạch lại đô
thị, góp phần mở rộng không gian, chia sẻ và
giảm áp lực đối với các đô thị lớn đã phát
triển. Những tác động tích cực của đường sắt
tốc độ cao sẽ góp phần quan trọng trong việc
tái cấu trúc đô thị và phân bổ dân cư, alo
động.
Thứ năm, phù hợp với chiến lược, quy hoạch.
Đường sắt tốc độ cao hoàn toàn phù hợp với
các chiến lược quy hoạch phát triển GTVT
nói chung, đường sắt nói riêng. Đặc biệt trong
chiến lược phát triển GTVT đường sắt đến
năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 đã
khẳng định mục tiêu đến năm 2030 sẽ đưa
vào khai thác một phần tuyến đướng sắt tốc
độ cao.
Với sự cần thiết như vậy cần có nghiên
cứu huy động vốn đáp ứng nhu cầu dự án,
trong đó cần đặc biệt chú ý hình thức huy
động vốn khu vực tư nhân đầu tư cho dự án
Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đường
sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam, Liên danh tư
vấn TEDI – TRICC – TEDISOUTH, Hà Nội
11/2018
2. Phạm Dương Phương Thảo – Kinh nghiệm
triển khai mô hình đầu tư công – tư (PPP) trên
thế giới để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đô
thị. Tạp chí Phát triển & Hội nhập số 12 (22)
tháng 9-10/2013
3. Bùi Xuân Phong – Xây dựng đường sắt tốc độ
cao: Giải pháp đột phá phát triển đường sắt Việt
Nam. Báo GTVT, số Xuân Kỷ Hợi 2019
Địa chỉ tác giả: Học viện Công nghệ bưu chính
viễn thông
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thu_hut_khu_vuc_tu_nhan_tham_gia_dau_tu_cho_duong_sat_toc_do.pdf