Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập hiệp hội hoặc câu lạc bộ các doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt Nam; Tăng cường phối hợp chặt chẽ với csc cơ quan xúc tiến thương mại của các nước ở Việt Nam để giới thiệu luật pháp, chính sách , quảng bá các chương trình, dự án đầu tư; Tổ chức định kỳ các cuộc gặp cộng đồng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để tìm hiểu tình hình, tháo gỡ khó khăn và hỗ trợ cho các doanh nghiệp FDI đang đầu tư đầu tư tại Việt Nam.
Chú trọng cả xúc tiến đầu tư để thu hút các dự án FDI mới và các hoạt động hỗ trợ các nhà đầu tư để triển khai hiệu quả các dự án FDI đang hoạt động. Giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc để cácdn đầu tư FDI hoạt động thuận lợi. Biểu dương, khen thưởng kịp thời các doanh nghiệp, nhà FDI có thành tích xuất sắc trong kinh doanh, có đóng góp thiết thực vào xây dựng đất nước. Đồng thời phê phán, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm pháp luật Việt Nam.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hường tính toán cân nhắc kỹ lưỡng khi đưa vào Việt Nam những thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại hoặc ở mức thấp nhất cũng còn có khả năng phát huy được hiệu quả nhất định. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những kênh đưa ra nền kinh tế Việt Nam hội nhập tương đối có hiệu quả. Là khu vực hấp dẫn, tạo ta nhiều việc làm và nâng cao năng lực cho người lao động Việt Nam. Là môi trường lý tưởng để chúng ta học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm quản lý, khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh của nền kinh tế thị trường hiện đại. Là điều kiện tốt để Việt Nam mở rộng thị trường cả trong và ngoài nước.
1.3 Tính tất yếu của việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại các nước dang phát triển :
Trong ba thập kỷ vừa qua, nền kinh tế thế giới đã chứng kiến một sự tăng trưởng đáng kể về luồng vốn FDI. Tổng FDI trung bình hàng năm theo giá trị thị trường hiện nay tăng lên 10 lần, từ 104 tỷ USD trong những năm của thập kỷ 60 lên đến 1173 tỷ USD vào cuối những năm của thập kỷ 80. FDI đã tiếp tục tăng và đạt 1940 tỷ USD năm 1992. Các nước phát triển chiếm từ 68% trong những năm 60 lên đến 80% vào cuối những năm 90 trong tổng số của phần tăng lên của FDI.
Xét về khuynh hướng chung, một trong những nét nổi bật nhất của FDI là việc tăng nhanh lên nhanh chóng và vững bền của những luồng FDI tới các nước đang phát triển. Sau một giai đoạn tương đối đình trệ diễn ra sau các cuộc khủng hoảng nợ và một cuộc suy thoái cho tới giữa những năm 80 (từ năm 1981 - 1985 FDI đến các nước đang phát triển thực tế giảm 4%/ năm), đầu tư vào các nước đang phát triển đã khôi phục mạnh mẽ. Trong những năm cuối thập kỷ 80, FDI tăng 17% một năm và tiếp tục trong những năm 90.Theo báo cáo của Liên Hợp Quốc và Đầu tư thế giới năm 1994, tổng đầu tư FDI vào các nước đang phát triển đạt số kỷ lục là 70 tỷ USD năm 1993, tăng 125% trong ba năm đầu của thập kỷ này. Ngược lại FDI vào các nước phát triển lại giảm mạnh trong những năm 90. Trong năm 1991 , FDI vào các nước OECD giảm 31% và tiếp tục giảm thêm 16% năm 1992. Kết quả là năm 1992 các nước đang phát triển chiếm 32% tổng FDI, trong khi tỷ trọng trung bình là 24% trong những năm 70. Tỷ trọng này tiếp tục tăng, đạt 40% vào năm 1993. Nếu xu hướng này tiếp tục, khối lượng FDI hàng năm vào các nước đang phát triển có thể vượt các nước phát triển trong thời gian không xa. Điều này cho thấy có một sự thay đổi cơ cấu rất lớn không chỉ về hình thức của đầu tư mà còn của sản xuất và thương mại sinh ra từ kết quả đầu tư này.
Xét về mặt cơ cấu, dòng FDI có xu hướng tăng vào khu vực sản xuất và dịch vụ. Trong đó khu vực dịch vụ chiếm ưu thế so với khu vực sản xuất. Ví dụ 51% đầu tư nước ngoài vào Mỹ năm 92 là vào khu vực dịch vụ, so sánh với năm 1981 là 4%. Con số này ở Anh là 40% năm 1992 và 35% năm 1981. Nước Nhật là 56% và 53%. Trong khi phần lớn các hoạt động dịch vụ tập trung ở các nước phát triển, cũng có những dấu hiệu chỉ ra rằng chính sách tự do hoá cũng đã dẫn đến việc tăng đáng kể mức đâù tư FDI vào ngành dịch vụ ở các nước đang phát triển.
Sự phân bổ về địa lý cho thấy 10 nước đứng đầu về nhận FDI chiếm 76% tổng số FDI vào thế giới thứ ba vào năm 1992, tăng lên so với 70% trong mười năm trước nhưng vẫn thấp hơn 81% đạt được của năm 1981. Điều này có thể giải thích bởi sự tăng lên nhanh chóng của FDI vào Trung Quốc.Nếu năm 1981 khối lượng FDI vào Trung Quốc là không đáng kể thì đến năm 1992 đã chiếm tới một phần tư tông FDI vào các nước đang phát triển.
Chính sách thu hút và quản lý FDI của các nước đang phát triển đã thay đổi mạnh mẽ trong thập kỷ trước.Hiện nay các chính phủ đều khuyến khích FDI theo một cách thức mới chưa tứng có trong lịch sử. Việc chuyển các chính sách kinh tế hướng về thị trường và các chính sách tự do kinh tế đã thu hút và hấp dẫn hơn các nhà đầu tư. Những cố gắng của chính phủ các nước nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là các dự án vào cơ sở hạ tầng và công trình phúc lợi theo hình thức BOO hay BOT đang tăng nhanh. Việc thực hiện tư nhân hoá và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cũng là môt phương thức quan trọng để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Trong xu hướng này các nước Châu Mỹ Latinh dẫn đầu các nước đang phát triển.Từ năm 1988 đến 1992 khối lượng FDI trị giá khoảng 8,1 tỷ USD đã được đưa vào các nước châu Mỹ Latinh bởi hình thức mua cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước. Khối lượng này chiếm 16% tổng FDI đầu tư vào quốc gia này. Các nước Đông Âu cũng đã thu hút khối lượng đầu tư lớn vào lĩnh vực này khoảng 5,2 tỷ USD trong khoảng thời gian từ năm 1988 đến 1992 tương ứng với 43% trong tổng khối lượng đầu tư vào khu vực. Đầu tư trực tiếp nước ngoài của toàn thế giới đạt 450 tỷ USD vào năm 1995. Trong đó hai phần ba tập trung vào các nước châu á. Tầm vóc ngày càng lớn và tính năng động của các nước châu á đã làm cho châu á trở thành thị trường đầu tư quan trọng đối với các công ty đa quốc gia.
Tình hình dòng vốn FDI trên thế giới và trong khu vực hiện nay
Có thể nói trong 10 năm trở lại đây, mặc dù có một số biến động song nhìn chung lượng FDI trên toàn thế giới có xu hướng tăng. Năm 1997, con số này vào khoảng 400 tỷ USD với khoảng 70% vào các nước công nghiệp phát triển.Theo cơ quan thương mại và phát triển của Liên Hợp Quốc (UNCTAD), năm 1998, tổng lượng FDI đạt 430 tỷ USD, tăng gần 10% so với năm 1997 nhưng luồng vốn vào các nước đang phát triển lại giảm xuống còn 111 tỷ USD so với 117 tỷ của năm 1997.
Trong khu vực châu á, mức độ cạnh tranh để thu hút trở nên rất gay gắt. Trong số các nước đang phát triển, Trung Quốc là nước thành công nhất với lượng đầu tư thu hút trung bình chiếm tới một nửa tổng số vốn FDI đổ vào các nước đang phát triển. Nguyên nhân chủ yếu là sự hấp dẫn của một thị trường rộng lớn và cải cách kinh tế đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong những năm qua.
Do tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ châu á, năm 1998 là năm đầu tiên kể từ năm 1985 tổng vốn vào khu vực này tuy đã giảm nhưng không nhiều. Trong đó, khả năng ứng phó dẫn đến mức độ ảnh hưởng của từng nước là khác nhau. Indonesia và Philippines đứng đầu danh sách nhóm nước suy giảm nguồn vốn FDI, trong khi đó Hàn Quốc và Thái Lan , mặc dù chịu nhiều tác động của cuộc khủng hoảng nhất, song vẫn duy trì được lượng vốn lớn. Trên thực tế hai quốc gia này đã tiến hành những cải cách sâu rộng, đã được đánh giá là thành công cả trên bình diện nền kinh tế vĩ mô nói chung và môi trường đầu tư nói riêng.Năm 1998, vốn FDI đăng ký của Thái Lan là 5,9 tỷ USD so với 3,6 tỷ năm 1997 và của Hàn Quốc lần lượt là 4,7 tỷ USD và 3,6 tỷ USD . Cuộc khủng hoảng này cũng làm giảm rõ rệt nguồn cung cấp FDI từ hai quốc gia cung cấp FDI lớn của châu á là Nhật Bản ,Hàn Quốc và một số nước Nics khác.
1.4 Các phương pháp thu hút đầu tư nước ngoài của một số nước trên thế giới :
1.4.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Trung Quốc
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Trung Quốc chiếm một phần tư tổng đầu tư vào các nước đang phát triển, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế ở các nước này. Quy mô trung bình của các dự án năm 1991 là 920000USD, năm 1190000USD và năm 1993 là 1310000 USD. Từ năm 1992 bắt đầu có sự gia tăng đáng kể trong các dự án vừa hoặc lớn với kỹ thuật tiên tiến trong ngành điện, máy móc, hoá chất, điện tử, vật liệu xây dựng. Các đặc khu kinh tế và khu công nghiệp được xây dựng ngày càng nhiều. Cho đến nay Trung Quốc vẫn là nơi hấp dẫn các nhà đầu tư và Trung Quốc vẫn duy trì mức tăng trưởng cao.
Từ năm 1995, Trung Quốc đã khuyến khích các doanh nghiệp trong nước và các nhà đầu tư của các nước châu Âu thực hiện phương thức hàng đổi hàng nhằm phát triển ngành chế biến nông sản xuất khẩu, góp phần tích cực tạo việc làm cho người lao động nhất là lao động nông thôn . Điều gì đã dẫn đến kết quả hoạt động tốt như vậy của Trung Quốc .Bên cạnh một số nhân tố thuận lợi, Trung Quốc đã có các biện pháp thu hút và sử dụng FDI cho sự phát triển một cách tích cực và kế hoạch.
Thứ nhất , Trung Quốc đã tạo ra một môi trường khá thuận lợi và ổn định cho các nhà đầu tư, tạo ra mức tin cậy cao nơi họ. Nhờ đó Trung Quốc đã thu hút luồng đầu tư lớn, hình thức và đối tác phong phú. Môi trường đầu tư luôn được cải thiện . Từ năm 1992 các chính quyền địa phương bắt đầu chủ động hơn trong việc thông qua các dự án FDI và đã cung cấp thêm các dịch vụ xã hội cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nhận ra tâm quan trọng của việc bảo hộ sở hữu trí tuệ, Trung Quốc đã đưa các luật về bản quyền , nhãn mác, sáng chế và các quy định về các phần mềm máy tínhvà gia nhập tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới, Công ước Paris và Công ước bản quyền thế giới để bảo vệ bản quyền công nghiệp. Các điều kiện cơ sở hạ tầng ở các khu vực tập trung nhiều FDI đã được nâng cấp, đặc biệt là ở các khu vực kinh tế và các vùng phát triển kinh tế và công nghiệp.
Thứ hai , FDI ở Trung Quốc được thu hút một cách có kế hoạch. ở giai đoạn đầu FDI được khuyến khích tập trung vào sản xuất công nghiệp là ngành có hệ số tạo việc làm cao tuy nhiên họ cũng đưa ra những hạn chế mới dần dần được tháo bỏ . Chẳng hạn từ năm 1992 sau 13 năm kể từ khi mở cửa, Trung Quốc mới mở rộng lĩnh vực đầu tư trong ngành dich vụ như tài chính , bảo hiểm, bất động sản, du lịch, thương mại.. đặc biệt dịch vụ kế toán, tư vấn và thông tin.
1.4.2 Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Thái Lan
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Thái Lan đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế ở nước này. Cuối thập kỷ 80, Thái Lan đã thu hút khoảng 30 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài. Vào đầu những năm 90, nền kinh tế Thái Lan luôn giữ ở mức tăng trưởng 8%/ năm. Tuy nhiên vừa qua nước này đã lâm vào cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng mà các nguyên nhân chính là đầu tư quá nhiều vào bất động sản, quản lý vốn nước ngoài quá lỏng lẻo và thu hút vào nền kinh tế quá mức so với khả năng hấp dẫn và sử dụng thực sự.
Trong ba năm lại đây, nguồn vốn đổ vào Thái Lan là 55 tỷ USD song hầu hết lại được đầu tư vào bất động sản và một số lĩnh vực không phát huy được hiệu quả . Đầu tư những khoản khổng lồ vào bất động sản nhưng chủ yếu để phục vụ tiêu dùng ít tạo ra việc làm có chất lượng cho nền kinh tế , với khả năng sinh lời thấp , chỉ tạo cho mọi người cảm giác giàu có nhưng đó chỉ là sự phồn vinh giả tạo. Điều này có nghĩa là FDI không nhằm vào phát triển mà chỉ để kiếm chênh lệch.
Việc vay tiền nước ngoài với lãi suất thấp quá dễ dàng làm cho các nhà đầu tư ở Thái Lan thiếu chọn lọc lĩnh vực kinh doanh. Một số lĩnh vực có lãi suất rất thấp cũng được đầu tư.
II Thu hút và sử dụng vốn đầ tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay
1. Tình hình thực hiện của các dự án FDI tại Việt Nam
1.1 Tiến độ thực hiện vốn FDI
- Có 785 dự án sau một thời gian triển khai đến nay có nhu cầu xin được tăng vốn, mở rộng sản xuất. Tổng số vốn đã được phê đuyệt tăng thêm là 5.171 triệu USD (bằng 14% tổng vốn đăng ký và bằng 28,4% dự án được cấp giấy phép).
- 127 dự án hết thời hạn thực hiện hợp đồng (bằng 4,6% số dự án được cấp giấy phép), 466 dự án đã bị rút giấy phép (chiếm 16,8%). Như vậy, tính đến 31/12/2003 trên lãnh thổ Việt Nam còn 2.173 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đang hoạt động, với tổng số vốn đăng ký của các dự án còn hiệu lực là 36.086 triệu USD.
- Đến nay số vốn đã thực hiện của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng 42,4% của tổng số vốn đăng ký. Trong điều kiện của một nền kinh tế kém phát triển, kết cấu hạ tầng lạc hậu, các nguồn lực cũng như các chính sách đối với đầu tư nước ngoài còn nhiều biến động, thị trường phát triẻn chưa đầy đủ… thì tỷ lệ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện được ở mức như vậy là không thấp. Tuy vậy, xuất phát từ đặc điểm các dự án sau khi được phê duyệt thường chưa đủ các điều kiện để triển khai ngay, do đó, số vốn thực hiện trong năm chủ yếu là của các dự án đã được phê duyệt từ các năm trước đó. Nếu so sánh số vốn thực hiện của từng năm với số vốn đăng ký còn lại (tổng vốn đăng ký từ trước trừ đi số vốn đã thực hiện) thì tỷ lệ vốn thực hiện diễn biến theo xu hướng thieuú ổn định. Tỷ lệ này tăng nhanh từ đầu đến năm 2000 (vốn thực hiện 1999/vốn đăng ký 1999-2000 còn lại =13,6%; số Tưong ứng 1999=23,5%; 2000=30,1%; 2001=32,2%) và sau đó giảm dần Từ năm 2002 đến nay (số liệu Tương ứng 2002=21,8%; 2003=18,1%; 2004=10,1% ). Điều này một phần cơ bản là do tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực-khi mà một số nhà đầu tư thuộc các quốc gia xảy ra khủng hoảng đang còn số vốn mà họ chưa thực hiện lại phải dùng để đối phó với tình trạng xấu xảy đến một cách đột ngột, buộc họ phải dừng hoặc chấm dứt không thể đầu tư được… Mặt khác, một số nhà đầu tư khi lập dự án dẫ tính toán chưa thật sát với thực tế nên khi triển khai dự án đã gặp phải một số vấn đề phát sinh vượt cả khả năng tài chính cũng như các yếu tố điều kiện cho doanh nghiệp vận hành. Thậm chí có một số nhà đầu tư nước ngoài, thực chất là yếu về năng lực tài chính nên mặc dù đã được cấp giấy phép đầu tư, nhưng do không huy động được vốn đúng như dự kiến, buộc họ phải triển khai thực hiện dự án chậm, có khi mất khả năng thực hiện.
1.2 Tình hình xuất nhập khẩu của doanh ngiệp FDI
Theo số liệu thống kê của vụ Đầu Tư-Bộ Thương Mại, kết quả XNK của các doanh ngiệp FDI được chia ra các năm như sau(không tính dầu khí):
Bảng 1: Kim nghạch XNK của các doanh ngiệp FDI
Đơn vị :triệu USD
Năm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
1995
52
192
1996
112
230
1997
140
491
1998
165
750
1999
403
1653
2000
786
2232
2001
1497
2700
2002
1982
2900
2003
2590
3382
2004(quý 1)
66174
87145
Nguồn : Vụ Đầu Tư-Bộ Thương Mại
Từ số liệu bảng 7 ta thấy:
-Về nhập khẩu: kim nghạch NK tăng mạnh qua các năm là do tiến độ triển khai xây dựng, sản xuất của các doanh ngiệp được thực hiện theo lịch trình đã xét duyệt. Hàng hoá nhập chủ yếu là máy móc,thiết bị phục vụ cho xây dựng cơ bản, hình thành doanh ngiệp và vật tư, nguyên liệu cho sản xuất. Tuy nhiên,việc NK tăng cũng chưa phản ánh hết tốc độ đầu tư. thực tế cho thấy, mặc dù kim nghạch NK có tăng nhưng trị giá thiết bị máy móc NK lại giảm (nhất là cuối năm 2003), chứng tỏ tốc độ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giảm.
-Về xuất khẩu: kết quả XK được phản ánh bằng sự tăng trưởng của kim nghạch XK của các doanh ngiệp FDI tăng mạnh qua các năm chứng tỏ doanh ngiệp FDI đã đóng góp đáng kể trong kim nghạch XK của cả nước , làm thay đổi cơ cấu hàng XK, tăng dần tỷ lệ XK hàng công nghiệp, hàng có kỹ thuật coa trong cơ cấu hàng XNK của Việt Nam.
-Tỷ trọng XK của các doanh ngiệp FDI:
Bảng 2: Tỷ trọng XK của các doanh ngiệp FDI
Năm
Doanh nghiệp FDI
Cả nước
Tỷ lệ
2000
786.000.000
6.868.000.000
11,4%
2001
1.479.653.000
8.758.900.413
17,09%
2002
1.982.638.000
9.323.648.397
21,25%
2003
2.365.000.000
11.520.600.002
22,5%
2004(quý 1)
665.000.000
650.800.000
26%
Nguồn : Vụ Đầu Tư-Bộ Thương Mại
Qua bảng 5 ta thấy XK của các doanh ngiệp FDI tăng ổn định qua các năm và chiếm tỷ trọng đáng kể trong kim ngạch XK của toàn bộ nền kinh tế ( trên 20%).
-Cơ cấu đầu tư và cơ cấu XK: theo số liệu của Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, tổng kết tình hình đầu tư trong những năm qua( 2000-2004) cơ cấu đầu tư và XK trong lĩnh vực như sau:
Bảng 3: Cơ cấu đầu tư và XK của các doanh ngiệp FDI
Lĩnh vực kinh tế
Số dự án
Trị giá vốn đầu tư
Tỷ lệ %
Doanh thu
1000 USD
Trị giá XK
1000 USD
1. Công nghiệp
1.203
12.642.542
35,2
11.659.257
5.021.565
Công nghiệp nặng
500
6.474.370
5.715.376
1.997.524
Công nghiệp nhẹ
577
3.774.759
3.389.864
2.656.922
Công nghiệp thực phẩm
126
2.393.383
7,2
2.554.017
367.119
2.Dỗu khí
23
2.558.268
5,7
1.391.764
3.Nông lâm thuỷ sản
294
3.030.477
371.529
Nông lâm nghiệp
245
1.874.827
1.227.743
309.714
Thuỷ sản
49
15.556.560
25,3
164.021
61.815
4. Du lịch-Dịch vụ KS
315
9.059.044
1.221.007
KS-DL-VP-Căn hộ
156
8.099.955
641.405
Văn hoá-Y tế-Giáo dục
76
433.107
208.45
Dịch vụ
119
525.982
11,7
121.152
5.Xây dựng
221
4.204.727
679.906
Xây dựng
208
3.401.187
601.322
XD Hạ Tầng KCX-KCN
13
803.45
7,8
58.284
6.GTVT-Bưu điện
97
2.804.627
1.822.965
7.Tài chính-Ngân hàng
48
542.25
1,5
261.409
Tổng cộng
2.339
35.786.144
17.197.429
11.248.000
Nguồn : Vụ Đầu Tư-Bộ Thương Mại
Từ số liệu trên ta thấy: cơ cấu đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chiếm tỷ trọng đáng kể(32% trong tổng số vốn đầu tư ). Doanh thu, doanh số của các doanh ngiệp thuộc lĩnh vực này cũng chiếm tỷ trọng lớn. Tuy nhiên, cũng có những lĩnh vực chiếm giá trị lớn như du lịch,khách sạn lại không có khả năng XK và đạt doanh thu không cao.
-Tỷ trọng XK chung của cả nước thời kỳ 2000-2004 cho thấy Nhật Bản và ASEAN đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên, Nhật Bản chỉ giữ vai trò trong các năm 2000-2002(chiếm bình quân trên 30% tổng kim nghạch XK của các doanh nghiệp FDI). Sau đó giảm dần,năm 2003 chỉ còn 15,8% kim nghạch XK nhưng các nước ASEAN không có sự thay đổi lớn trong suốt thời kỳ 2000-2004(chiếm tỷ trọng bình quân là 21,5% kim nghạch XK).
-Tỷ trọng XK vào EU tăng khá đều trong các năm qua: Năm 2002, EU mới đạt 5,7% kim nghạch XK của ta, nhưng tới năm 2003 đã chiếm 22,5%. Riêng trong khối FDI, tỷ lệ XK cũng đạt 30% kim nghạch của cả khối.
Phân tích cơ cấu XK một số mặt hàng chính vào các thị trường chính trong các năm 2003,2004 ta thấy:
-XK vào thị trường Nhật Bản, Hoa Kỳ, Nga
Bảng 4: XK vào thị trường Nhật Bản, Hoa Kỳ, Nga
Đơn vị: 1000 USD
Thị trường
Gạo
Hải sản
Cà phê
Cao su
Giầy dép
Dệt may
Điện tử
Hàng khác
Tổng trị giá
Nhật Bản
3.553
19.600
400
6.049
90.809
3.452
193.942
428.282
Mỹ
411
553
703
82.956
16.204
479
6.071
127.892
Nga
1.106
2.388
7.112
Tổng
3.963
20.213
707
66
100.111
107.563
3.931
202.401
563.286
Nguồn : Vụ Đầu Tư-Bộ Thương Mại
-XK vào thị trường EU
Bảng 5: XK vào thị trường EU
Đơn vị: 1000 USD
Thị trường
Hải sản
Cà phê
Cao su
Giầy dép
Dệt may
Điện tử
Hàng khác
Tổng
trị giá
Anh
6.515
136
27.571
7.272
1.623
16.210
59.326
Aó
-
-
390
122
38
915
1.464
Bỉ
107
-
-
77.989
6.468
25
28.421
113.009
Bồ Đào Nha
-
-
-
206
41
28
803
1.007
Đan Mạnh
-
-
986
865
1.159
3.296
6.305
Đức
41
569
21.176
32.144
9.264
33.032
96.239
Hà Lan
199
-
27
13.302
8.196
4.143
11.008
36.875
Hy Lạp
1.289
-
-
1.188
183
-
1.085
2.585
Italia
459
-
-
18.637
5.312
1.746
10.470
36.637
Phần Lan
-
-
-
2.067
833
212
1.788
4.909
Tây Ban Nha
20
-
-
4.505
2.674
681
8.580
16.459
Thuỵ Điển
45
-
-
2.456
1.889
2.490
4.149
11.028
Thuỵ Sĩ
-
202
-
1.253
999
-
2.907
5.361
Cộng
999
7.285
176
183.393
88.263
21.765
154.021
455.915
Nguồn : Vụ Đầu Tư-Bộ Thương Mại
- Thị trường khác đạt 528.363.854 USD
Như vậy, XK của các doanh ngiệp FDI sang Nhật Bản các nước ASEAN
Kim nghạch tuy có tăng 10% so với năm 2003 (975 so với 886 triệu USD) và chiếm phần lớn kim nghạch của khối(37,6%) nhưng thị phần lại giảm (từ 44,7% xuống 37,6%). XK sang thị trường Nhật Bản vẫn không thay đổi về thị phần. Kim nghạch XK sang EU tăng cao gần 50%. XK sang thị trường Nga và Mỹ có tăng hơn năm trước nhưng chậm.
+ Năm 2004
-XK vào thị trường Mỹ, Nhật và Nga
Bảng 6: XK của các doanh nghiệp FDI vào thị trường Mỹ, Nhật và Nga năm 2004
Thị trường
Gạo
Hải sản
Cà phê
Cao su
Giầy dép
Dệt may
Điện tử
Hàng khác
Tổng trị giá
Nhật Bản
4.864
12.407
-
-
21.996
13.543
287.064
287.064
428.282
Hoa Kỳ
-
850
-
-
96.465
178
22.321
22.321
127.892
Nga
-
-
-
433
202
-
5.961
5.961
7.112
Cộng
4.864
13.257
-
433
118.663
13.721
306.346
306.346
563.286
Nguồn : Vụ Đầu Tư-Bộ Thương Mại
-XK sang thị trường ASEAN
Bảng 7: XK của các doanh ngiệp FDI vào thị trường ASEAN năm 1999
Thị trường
Gạo
Hải sản
Cà phê
Cao su
Giầy dép
Dệt may
Điện tử
Hàng khác
Tổng
trị giá
Brunei
-
-
-
-
-
-
-
116
116
Campuchia
-
93
1
-
44
9
-
5.546
5.684
Indonéia
519
-
-
-
951
-
164
9.903
11.726
Lào
-
-
-
-
-
101
225
245
346
Malãiia
7.751
651
-
357
3.019
601
25.430
72.807
Mianma
-
-
-
-
-
61
-
620
681
Philippine
145
-
-
-
403
262
-
9.767
229.940
Singapore
785
1.623
681
748
6.970
10.578
3.827
38.672
68.265
Thái Lan
128
201
-
-
356
2.615
10.130
17.410
157.075
Tổng
9.328
2.568
682
748
9.081
15.151
401.373
107.709
546.640
Nguồn : Vụ Đầu Tư-Bộ Thương Mại
Năm 2004, XK của các doanh nghiệp FDI vào thị trường EU
+ Mặt hàng : hải sản, cà phê, cao su, giầy dép, dệt may, điện tử và một số hàng khác
+Tổng kim nghạch: 684.425 triệu USD
Theo số liệu trong các bảng trên, cơ cấu thi trường XK của các doanh nghiêpppj cũng không có sự thay đổi lớn so với năm 2003, thị trường XK chủ yếu vẫn là các nước châu á và chiếm lớn nhất vẫn là thị trường Nhật Bản và các ASEAN: 75 triệu USD chiếm 37,6%.
Nhìn chung, hoạt động XK của các doanh nghiệp FDI ngày càng có xu hướng phát triển cả về số lượng lẫn tốc độ và ngày càng đóng vai trò to lớn trong hoạt động XK của đất nước, góp phần tăng trưởng kinh tế và bình ổn cán cân thương mại.
2 . Những hạn chế của môi trường đầu tư ở Việt Nam
Sau hơn 10 năm đổi mới kinh tế, nền kinh tế theo định hướng thị trường của Việt Nam đã đạt được một số thành công nhất định chẳng hạn như tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, ổn định về mặt kinh tế vĩ mô. Những yếu tố đó cũng tạo ra sức hút đối với đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên trên thực tế đầu tư nước ngoài có xu hướng giảm xuống do những yếu kém còn tồn tại của môi trường đầu tư Việt Nam.
Cơ sở hạ tầng là một trong những nhân tố chính để thu hút đầu tư nước ngoài. Cơ sở hạ tầng xuống cấp và lạc hậu đã gây ra sự cản trở cho quá trình vận chuyển công nghệ, nguyên vật liệu và sản phẩm. Chẳng hạn chỉ có 11000 km trong tổng số 105500 km đường được rải nhựa ở Việt Nam. Sự quá tải và xuống cấp của hàng loạt cảng biển và sân bay..đã không hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, hệ thống thông tin kinh tế và viễn thông không đáp ứng được nhu cầu về thông tin của các nhà đầu tư.
Hệ thống ngân hàng làm việc còn kém hiệu qủa, dịch vụ tài chính và ngân hàng còn lạc hậu, các chính sách về lãi suất đã không tạo ra sự khuyến khích cả các nhà kinh doanh vay vốn và ngươì dân gửi tiền tiết kiệm. Trên thực tế, hàng tỷ VNĐ nằm nhàn rỗi trong ngân hàng và một lượng tiền lớn không được sử dụng trong dân trong khi rất nhiều nhà kinh doanh thiếu vốn. Các nhà đầu tư còn gặp khó khăn lớn trong vấn đề chuyển lợi nhuận và các khoản thu nhập còn lại sau khi đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về thuế.
Sức mua hạn chế của thị trường trong nước hiện tại cũng là vật cản đối với đầu tư nước ngoài. Mặc dù dân số của nước ta gần 80 triệu người, đứng thứ 13 trên thế giới về quy mô dân số nhưng thu nhập bình quân đầu người chỉ đạt 275USD . Gần 80% dân số sống ở vùng nông thôn nhưng thu nhập bình quân thấp hơn rất nhiều so với thu nhập tính chung cho toàn quốc. Chính thu nhập thấp đã không kích thích tiêu dùng nên sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không tiêu thụ được nhiều trong thị trường trong nước.
Đặc biệt hệ thống pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới các quyết định đầu tư. Trước khi mang vốn vào một nước, các nhà đầu tư luôn tìm hiểu xem hệ thống luật pháp có tạo thuận lợi hay không bởi vì mục tiêu chính của các nhà đầu tư nước ngoài là lợi nhuận và mở rộng thị phần.Trong 15 năm qua, luật Đầu tư nước ngoài đã được sửa đổi đến năm lần, nhưng các luật có liên quan như Bộ luật Lao động, luật tổ chức tín dụng...lại không được thay đổi đồng bộ. Bên cạnh đó, chúng ta còn thiếu rất nhiều luật quan trọng khác như Luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền hoặc như quy định về tiêu chuẩn đầu tư. Theo luật Đầu tư nước ngoài năm 1996, trong trường hợp có nhiều tiêu chuẩn khuyến khích đầu tư thì mức thuế lợi tức là 15% thu nhập nhưng theo Nghị định số 24/2000/NĐ-CP thì chỉ cần cụ thể là đã áp dụng thuế suất là 15%.Sự không ổn định và hay thay đổi của các chính sách kinh tế như chính sách về nhập khẩu, thuế, đất đai ,..cùng với sự không nhất quán giữa các chính sách của chính phủ với các chính sách và các quy định của các ngành,các quy định của chính quyền địa phương là điều làm cho các nhà đầu tư nước ngoài lo ngại. Nhiều nghị định và văn bản pháp luật được ban hành một cách bất ngờ, gây “sốc” cho các doanh nghiệp như việc hạn chế nhập khẩu linh kiện xe máy của chính phủ Việt Nam hay như chính sách hai giá gây phiền hà cho người nứơc ngoài.
Các thủ tục hành chính còn quá rườm rà. Mặc dù nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong cải cách thủ tục hành chính như việc thực hiện chính sách “ một cửa, một dấu”, giảm thời gian cấp phép đầu tư..nhưng thủ tục hành chính rườm rà vẫn là một trong những rào cản lớn nhất trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.Thủ tục hải quan, thủ tục hoàn thuế, thủ tục cấp đất, giao đất..nhất là những dự án có liên quan đến đền bù giải toả mặt bằng còn quá phức tạp , kéo dài dẫn đến việc triển khai dự án chậm, gây nản lòng cho các nhà đầu tư, làm mất đi yếu tố hấp dẫn của môi trường đầu tư của Việt Nam.
Một yếu tố hạn chế việc thu hút FDI vào Việt Nam là chất lượng nguồn lao động Việt Nam. Hiện nay nguồn lao động ở nước ta không những hạn chế về số lượng mà còn về chất lượng. Cả nước có trên 40 triệu lao động , gần 25% ở thành thị còn lại tập trung ở nông thôn. Trình độ dân trí của Việt Nam tuy cao hơn so với một số nước trong khu vực có cùng trình độ phát triển nhưng vẫn còn rất hạn chế, đặc biệt là ở nông thôn. Thiếu hụt nguồn nhân lực địa phương có trình độ và kỹ năng là một khó khăn cho các dự án đầu tư.
Những khu vực có FDI nhiều nhất lại có tỷ lệ thất nghiệp tương đối cao: Hà Nội là 7,25%; thành phố Hồ Chí Minh là 6,22%; Hải Phòng 7,27%..Tuy nhiên số thất nghiệp này tập trung vào những người không có kỹ năng. Muốn tranh thủ nguồn vốn lớn và chất lượng này trong tạo việc làm, nước ta phải đào tạo nhiều lao động hơn nữa và với chất lượng cao hơn nữa. Cơ cấu đào tạo ở nước ta hiện nay mất cân đối nghiêm trọng giữa sinh viên đại học với cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề.Ngoài ra có sự không phù hợp giữa đào tạo dạy nghề với nhu cầu của thị trường lao động. Hàng năm chỉ có thể đào tạo được 500000 lao động , bằng 20% nhu cầu phát triển.
Hạn chế trong việc xây dựng, xét duyệt các dự án FDI
Một trong những nguyên nhân hạn chế khả năng thu hút các dự án đầu tư nước ngoài cũng như khả năng tạo việc làm của các dự án này còn là ở chỗ Việt Nam còn thiếu các dự án gọi đầu tư nước ngoài có chất lượng, đủ sức thuyết phục các nhà đầu tư. Do thiếu quy hoạch tổng thể, thiếu chiến lược phát triển dài hạn nên các dự án xây dựng có tính chắp vá, thiếu tính đồng bộ của cả nước cũng như của từng địa phương và từng ngành. Ngoài các trung tâm lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh,Hải Phòng, Đồng Nai..nhìn chung các địa phương đều thiếu các nhà chuyên môn có đủ năng lực để xây dựng các dự án gọi đầu tư có luận chứng kinh tế kỹ thuật hợp lý.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng chưa có các quy định cụ thể về xây dựng và xét duyệt các dự án FDI. Trong các dự án đầu tư, người ta chỉ quan tâm đến các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế như vốn đầu tư, đóng góp vốn của các bên, thời gian thu hồi vốn, lợi nhuận, doanh thu.. và các vấn đề như chuyển giao công nghệ , thị trường tiêu thụ sản phẩm. Các chỉ tiêu như số lượng việc làm trực tiếp và gián tiếp, chi phí đầu tư/ lao động, đào tạo lao động.. ít hoặc không được đề cập tới trong các dự án đầu tư nước ngoài.
Về hình thức đầu tư, hiện tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được phép thành lập theo hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn mà chưa được phép thành lập theo hình thức công ty cổ phần. Trong khi đó, mô hình công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài là một hình thức quan trọng trên thế giới bởi thông qua hình thức này giúp các doanh nghiệp huy động vốn dưới hình thức phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Do đó, việc giới hạn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được thành lập và hoạt động dưới hình thức công ty TNHH không khuyến khích được các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn làm ăn tại Việt Nam.
Về thời hạn hoạt động theo pháp luật hiện hành là không quá 50 năm, đối với những dự án đặc biệt thì thời hạn này có thể lên tới 70 năm nhưng phải được sự đồng ý của Uỷ ban thường vụ quốc hội. Nhiều ý kiến cho rằng việc hạn chế thời hạn đầu tư là không cần thiết và đã làm ảnh hưởng xấu đến khả năng đầu tư và tái đầu tư mở rộng quy mô doanh nghiệp.
Về mở văn phòng đại diện và chi nhánh hoạt động tại Việt Nam, pháp luật hiện hành không quy định về việc bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh mở văn phòng đại diện và chi nhánh hoạt động tại Việt Nam. Điều này gây rất nhiều trở ngại cho bên nước ngoài trong việc thực hiện các nghĩa vụ đã quy định trong hợp đồng. Chẳng hạn như dự án hợp đồng hợp tác kinh doanh khai thác than ở Quảng Ninh của Inđônêxia do không có chi nhánh tại Việt Nam nên khi thực thi mọi việc hành chính bên Inđônêxia đều phải nhờ con dâú của bên Việt Nam.
Về tuyển dụng lao động cũng có một số hạn chế. Nhu cầu về lao động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài rất lớn. Tuy nhiên, theo Nghị định 85/1988/NĐ-CP ban hành ngày 20/10/1988 về tuyển chọn, sử dụng, quản lý người lao động Việt Nam làm việc cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam thì khi doanh nghiệp nước ngoài có nhu cầu sử dụng lao động Việt Nam thì phải thông qua các tổ chức cung ứng lao động chứ họ không được quyền tuyển chọn trực tiếp. Điều đó có nghĩa rằng, giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và tổ chức cung ứng lao động phải ký một hợp đồng cung ứng lao động,sau đó doanh nghiệp mới được ký hợp đồng với người lao động Việt Nam. Còn Nghị định số 58/1996/NĐ-CP ngày 3/10/1996 về giấy phép cho người lao động nước ngoài làm việc tại các doanh nghiệp, tổ chức tại Việt Nam thì quy định: nếu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài muốn thuê lao động nước ngoài cần phải giải trình yêu cầu này trong dự án đầu tư và phải được cơ quan cấp giấy phép đầu tư phê chuẩn.
Thực chất những quy định trên đây nhằm bảo vệ người lao động song lại hạn chế quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp , gây cho doanh nghiệp rất nhiều phiền hà, mất rất nhiều thời gian và tốn nhiều chi phí không cần thiết (từ 5% đến 8% chi phí trên lương ) đồng thời tạo thêm sự ngăn cách giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó giá thuê công nhân ở Việt Nam khá cao vì thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam là cao nhất trong khu vực. Hiện nay thuế suất thuế thu nhập cá nhân của người nước ngoài tại Việt Nam là 50% trong khi Trung Quốc là 45%, Thái Lan là 32%. Inđônêxia là 30%, Singapore là 28%. Những số liệu trên đây cho thấy chính sách tuyển dụng lao động áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là chưa hợp lý. Điều này gây tâm lý e ngại cho nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam.
Hạn chế trong công tác quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài
Theo nguyên tắc, nhà đầu tư khi đầu tư vào bất kỳ quốc gia nào đều mong muốn được đảm bảo an toàn về vốn và thu được lợi nhuận cao. Do vậy, chính sách đảm bảo và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước sở tại mạnh mẽ thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Mặt khác, thông qua các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, Việt Nam sẽ hướng các luồng đầu tư nhằm góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế góp phần hiện đại hoá đất nước. Có thể nói rằng, so với các quốc gia thuộc khối ASEAN hiện nay thì những quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về đầu tư nước ngoài được đánh giá là một trong những quốc gia thông thoáng nhất chỉ sau Singapore. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về đầu tư ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập gây cản trở cho thu hút đầu tư nước ngoài.
Quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài là một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà nước ta. Tuy nhiên trên thực tế hoạt động này đang gặp một số trở ngại . Quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài thiếu một cơ sở pháp lý vững chắc, thống nhất, rõ ràng dẫn đến tình trạng có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, gây khó khăn cho nhà đầu tư nước ngoài. Ví dụ như khoản 4 điều 64 Nghị định số 21/2000/NĐ-CP ban hành ngày 31/07/2000 quy định: “Báo cáo tài chính của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bên hợp doanh nước ngoài đã được kiểm toán có thể được dùng làm cơ sở để xác định và quyết toán các nghĩa vụ khác đối với nhà nước Việt Nam ”. Cụm từ “có thể được dùng” trên đây đồng nghĩa với cụm từ “có thể không được dùng” sẽ là không sai quy định và thực tế là báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được kiểm toán hầu như không được sử dụng làm cơ sở xác định thuế và nghĩa vụ tài chính khác đối với nhà nước Việt Nam. Trong khi đó theo quy định của pháp luật hiện hành, ngành thuế hàng năm vẫn tiến hành kiểm tra, tra quyết toán thuế và các nghĩa vụ tài chính khác đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và cho thấy số thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước của doanh nghiệp thường cao hơn báo cáo kiểm toán, biên bản này có giá trị pháp lý và doanh nghiệp phải thực hiện.
Ngoài ra, các lĩnh vực địa bàn khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa được quy định một cách rõ ràng , cụ thể. Mặc dù đã cố gắng trong việc tạo sự hài hoà giữa quy hoạch ngành và quy hoạch lãnh thổ nhưng vẫn để xảy ra tình trạng mất cân đối trong cơ cấu vốn đầu tư giữa các vùng lãnh thổ. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì trong khi vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thu hút được 57% số dự án và 48% vốn dăng ký thì vùng kinh tế trọng điểm miền Trung chỉ thu hút được 3% tổng số dự án và 5,5% vốn đăng ký, còn vùng miền núi trung du Bắc Bộ và Tây Nguyên có sức thu hút đầu tư kém nhất. Còn về cơ cấu đầu tư theo ngành nghề, lĩnh vực cũng chỉ mới chủ yếu tập trung vào lĩnh vực xây dựng và công nghiệp, các lĩnh vực lâm thuỷ hải sản còn quá ít. Thực tế cho thấy, việc lựa chọn địa điểm và lĩnh vực ngành nghề đầu tư là vấn đề quan trọng hàng đầu cho nhà đầu tư nước ngoài khi đến Việt Nam. Do vậy chừng nào họ còn chưa sáng tỏ và vững tin vào hiệu quả của dự án thì chừng đó họ còn chưa quyết định vôn đầu tư.
Một vấn đề đặt ra hiện nay là chúng ta còn thiếu sự quản lý thống nhất đối với hoạt động đầu tư nước ngoài. Hiện nay, việc quản lý các dự án vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước ta còn thiếu sự thống nhất giữa các ngành, các địa phương. Chưa có một cơ quan chuyên trách có thẩm quyền để giải quyết vướng mắc trong hoạt động đầu tư nước ngoài của doanh nghiệp. Một đề xuất kiến nghị của doanh nghiệp thường phải qua quá nhiều bộ , ngành nên không xử lý kịp thời và doanh nghiệp vẫn phải chịu nhiều bất hợp lý phát sinh. Các nhà đầu tư thường than phiền rằng : Các cơ quan chức năng có quá nhiều quyền hạn đối với doanh nghiệp nhưng lại chẳng có cơ quan nào có trách nhiệm rõ ràng và chúng ta còn thiếu một cơ chế bảo lãnh đặc biệt dành cho những dự án nước ngoài có quy mô lớn, tính chất quan trọng. Hiện nay ở nước ta có nhiều dự án thuộc diện đặc biệt khuyến khích đầu tư theo pháp luật nhưng khi thực hiện lại không dễ dàng , đó thường là những dự án liên quan đến quyền sở hữu trí tụê đòi hỏi có vốn lớn và có độ rủi ro cao nên các dự án này thường khó hình thành. Thực tế, đối với những dự án này ( nhất là những dự án về cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng ) khi đàm phán, nhà đầu tư nước ngoài thường yêu cầu chính phủ Việt Nam đứng ra bảo lãnh, chủ yếu là bảo lãnh các nghĩa vụ tài chính và chia sẻ rủi ro. Vấn đề này hoàn toàn chưa được quy định trong pháp luật của nước ta.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá về kinh tế, khi mà xu thế hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu thì đầu tư trực tiếp nước ngoài là một yếu tố quan trọng để phát triển nền kinh tế quốc gia một cách bền vững , tránh nguy cơ tụt hậu. Các biện pháp đảm bảo và khuyến khích đầu tư nước ngoài là chiếc chìa khoá để thu hút vốn đầu tư nước ngoài . Nước ta đã và đang tiến hành từng bước hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Bên cạnh việc tiếp tục thúc đẩy quan hệ song phương về các mặt thương mại , đầu tư và trao đổi trên nhiều lĩnh vực khác theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá , từng bước đảm bảo thực hiện quyền tự do hợp tác kinh doanh với nước ngoài đối với mọi doanh nghiệp, nước ta tham gia đầy đủ hơn vào cơ chế đa phương, như ASEAN,AFTA,APEC, sắp tới là WTO.. nhằm thu hút tối đa nguồn lực bên ngoài cho phát triển, thúc đẩy cải cách thể chế kinh tế thị trường. Nền kinh tế nước ta đã gắn kết ngày càng mạnh hơn , dần trở thành một thực thể hữu cơ của kinh tế khu vực và kinh tế thế giới. Trong quá trình hội nhập, Việt Nam phải thực hiện đầy đủ các cam kết của mình, các quy tắc chung, nghĩa vụ của mình nếu muốn tiếp nhận được các lợi thế và lợi ích của việc tham gia. Điều này phụ thuộc vào các biện pháp và các chính sách của Việt Nam trong thu hút đầu tư nước ngoài.
3 . Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại việt nam trong giai doạn hiện nay :
Theo như phân tích ở chương 2 thì nguồn FDI tại Việt Nam từ năm 2000 liên tục giảm sút. Mặc dù năm 2004 nguồn vốn này đã bắt đầu phục hồi song lại chưa mạnh nếu không muốn nói là không đáng kể so với năm 2003. Vì vậy cần thiết phải tiếp tục có những biện pháp thúc đẩy việc thu hút thì mới mong đạt được mục tiêu tăng trưởng FDI liên tục, đạt được mức vốn thực hiện là 11 tỷ USD. Sau đây là một số giải pháp đề xuất:
3.1 Xây dựng danh mục kêu gọi FDI :
Hàng năm hay từng thời kỳ, Việt Nam cần phải công bố danh mục các dự án quốc gia kêu gọi FDI. đây chính là kim chỉ nam cho mọi hoạt động xúc tiến đầu tư đồng thời cũng là một gợi ý đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài. Các dự án được lựa chọn vào danh mục này cần phải có sự thống nhất về chủ chương và quy hoạch và được bố trí vốn làm dự án tiền khả thi. Muốn vậy chúng ta cần phải xây dựng qui hoạch ngành và các sản phẩm chủ yếu để xác định rõ phạn vi hoạt động của FDI và của đầu tư trong nước, đặc biệt là các nghành như điện, điện tử, xi măng, sắt thép, rượu bia, nước giải khát, sữa, mía đường,chất tẩy rửa,…
Việt Nam cũng cần nghiên cứu đánh giá để có qui hoạch phát triển mang tính khả thi vé các khu công nghiệp, khu chế xuất, đặc khu kinh tế, phù hợp với quy hoạch phát triển KT-Xhcủa địa phương và vùng lãnh thổ và qui hoạch phát triển nghành kinh tế –kỹ thuật. Trước mắt cần tập chung các giải pháp xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế- kỹ thuật- xã hội và thu hút vốn đầu tư để lấp đầy các khu công nghiệp đã phê duyệt.
3.2 Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về FDI :
a. Việt Nam cần phải tiếp tục xây dựng, điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến đấu tư trực tiếp nước ngoài, tạo diều kiện thuận lợi cho hoạt động FDI phát triển theo đúng địng hướng phát triển kinh tế-xã hội và phù hợp với yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
b. Cần phải đa dạng hoá các hình thức đầu tư trực tiếp nước nước ngoài , mở rộng lĩnh vực thu hút FDI phù hợp với cam kết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế .
c. Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá áp dụng thống nhất cho đầu tư trong nước và đầu tư FDI theo quyết định số 53/2003/QĐ-TTg ngày 26 tháng 3 năm 2003của thủ tướng chính phủ
d. Đổi mới và hoàn thiện chính sách tiền tệ liên quan đến hoạt động FDI theo hướng tiếp tục giảm dần, tiến tới việc xoá bỏ kết hối ngoại tệ khi có đủ điều kiện. Sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ, chính sách tiền tệ như tỷ giá, lẫi suất theo nguyêntức thị trưòng có sự quản lý vĩ mô của nhà nước.
e. Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình phát triển KT-XH của đất nước và cam kết quốc tế theo hướng đơn giản hóa các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư FDI. Xây dựng chính sách thuế khuyến khích đầu tư FDI sản xuất phụ tùng, linh kiện, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá sản phâm cho phép các dự án sản xuất nguyên liệu phụ trợ hàng XK được hưởng ưu đãi tương tự như các dự án đầu tư sản xuất hàng XK.
f. Giải quyết kịp thời những khó khăn vướng mắc về đất đai, giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án. Thí điểm cho phép các tư nhân trong nước đã được cấp quyền sử dụng đất lâu dài được cho các nhà đầu tư FDI thuê lại đất trrong thời hạn cấp quyền sử dụng đất.
Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI :
a.Nâng cao trách nhiệm của các bộ, các nghành, uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc quản lý các doanh nghiệp FDI theo luật định, bảo đảm hiệu quả hoạt động của các trung tâm xử lý ‘nóng’; định kỳ tiếp xúc với các doanh nghiệp, đối thoại với các nhà đầu tư FDI để tìm hiểu những vưóng mắc của họ.
Cần mạnh dạn hơn nữa trong việc phân cấp, uỷ quyền hơn nữa cho các địa phương trong việc quản lý hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI trên đại bàn để đơn giản hơn nữa thủ tục, xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh. Việc phân cấp này phải trên cơ sở đảm bảo bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất quản lý về qui hoạch, cơ cấu, chính sách và cơ chế; trong đó chú trọng phân cấp quản lý Nhà nước đốivới hoạt động sau giấy phép của các dự án FDI; tăng cường sự hướng dẫn, kiểm tra của các Bộ, nghành trung ương. Có cơ chế xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm luật pháp, chính sách, quy hoạch trong việc thực hiện chủ chưong phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài, kể cả việc phải chấm dứt hiệu lực của các giấy phép đầu tư cấp sai qui định.
b. Kiểm soát chặt chẽ việc thành lập mới các khu công nghiệp (KCN) và đánh giá tình hình triển khai các KCN đã có quyết định thành lập; bổ sung các mô hình về KCN nhỏ phục vụ cho việc phát triển nghành nghề ở nông thôn và chỉnh trang đô thị; điều chỉnh cơ chế chúnh sách đầu tư phát triển hạ tầng trong và ngoài hàng rào; tách việc cho thuê đất nguyên thổ và kinh doanh hạ tầng.
3.4 Cải tiến các thủ tục hành chính :
Để tạo bước căn bản về thủ tục hành chính, cần thực hiện các giải pháp sau:
-Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và đại phương trong quản lý hoạt động đầu tư FDI; phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cơ quan trrong việc giải quyết các vấn đề phát sinh; duy trì thường xuyên việc tiếp xúc của cơ quan quản lý Nhà nước với các nhà đầu tư FDI.
-Cải tiến các thủ tục hành chính liên quan đến các hoạt động đầu tư FDI theo hướng tiếp tục đơn giản hoá các thủ tục cấp phép đầu tư , mở rộng phạm vi các dự án thuộc diện đăng ký cấp phép đầu tư; rà soát có hệ thống tất cả các loại giấy phép,các qui định liên quan đến hoạt động FDI, trên cơ sở đó bãi bỏ những loại giấy phép, qui định không cần thiết đối với hoạt động FDI.
-Các Bộ , các nghành và địa phương phải qui định rõ ràng , công khai các thủ tục hành chính, đơn giản hoá và giảm bớt các thủ tục không cần thiết; kiên quyết xử lý nghiêm khắc các trường hợp sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực và vô trách nhiệm cuả cán bộ công quyền.
3.5 Đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư :
Đổi mới phương thức vận động, xúc tiến đầu tư
-Đẩy mạnh vận động đầu tư một cách chủ động theo các chương trình, dự án trọng điểm ; xúc tiến đầu tư theo nghành, lĩnh vực, địa bàn với các dự án và đối tác cụ thể, hưóng vào các đối tác nước ngoài có tiềm lực về tài chính và công nghệ nguồn như: Châu Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ, Nga…tiếp tục vận động nhà đầu tư Nhật Bản, Đài Loan, Singapore có tiềm lực, thế mạnh ở những lĩnh vực ta có nhu cầu; có kế hoạch vận động trực tiếp các tập đoàn có tiềm lực về vốn, công nghệ, thị trường tiêu thụ…
-Phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Ngoại Giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương Mại trong việc nghiên cứu thị trường đầu tư thế giới và khu vực, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính…,phối hợp trao đổi thông tin: tiến hành các hoạt động xúc tiến đầu tư và thương mại từ bên ngoài thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao và thương mại nước ngoài của Việt Nam ở các nước và địa bàn trọng điểm để nâng cao hiệu quả và đảm bảo tiết kiệm. Tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau với các tổ chức xúc tiến đầu tư nước ngoài quốc tế; trước hết lầ trong khuôn khổ của ASEAN, APEC, hợp tác ASEAN-ÂU, hợp tác với các cơ quan xúc tiến đầu tư của Nhật, Mỹ, các nước EU vàÂU, hợp tác với các cơ quan xúc tiến đầu tư của Nhật, Mỹ, các nước EU và các tổ chức quốc khác…
Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập hiệp hội hoặc câu lạc bộ các doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt Nam; Tăng cường phối hợp chặt chẽ với csc cơ quan xúc tiến thương mại của các nước ở Việt Nam để giới thiệu luật pháp, chính sách , quảng bá các chương trình, dự án đầu tư; Tổ chức định kỳ các cuộc gặp cộng đồng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để tìm hiểu tình hình, tháo gỡ khó khăn và hỗ trợ cho các doanh nghiệp FDI đang đầu tư đầu tư tại Việt Nam.
Chú trọng cả xúc tiến đầu tư để thu hút các dự án FDI mới và các hoạt động hỗ trợ các nhà đầu tư để triển khai hiệu quả các dự án FDI đang hoạt động. Giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc để cácdn đầu tư FDI hoạt động thuận lợi. Biểu dương, khen thưởng kịp thời các doanh nghiệp, nhà FDI có thành tích xuất sắc trong kinh doanh, có đóng góp thiết thực vào xây dựng đất nước. Đồng thời phê phán, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm pháp luật Việt Nam.
-Đa dạng hoá các hoạt động xúc tiến đầu tư thông qua các hoạt động đối ngoại của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các diễn đàn quốc tế, các hoạt động hợp tác xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ tác AIA, ASEAN, APEC, ASEM, các cuộc hội thảo về đầu tư ở trong và ngoài nước; sử dụng tổng hợp các phương tiện xúc tiến đầu tư qua truyền thông đại chúng, mạng Internet, tiếp xúc trực tiếp…
-Đẩy mạnh việc tuyên truyền giới thiệu về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài để tạo dựng hình ảnh mới về Việt Nam; tạo sự đánh giá thống nhất về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong dư luận xã hội.
-Các cơ quan đại diện ngoại giao-thương mại Việt Nam có trách nhiệm làm tốt việc vận động xúc tiến đầu tư vào Việt Nam, bố trí cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở một số địa bàn trọng diểm. Tăng cường cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở các Bộ, ngành, địa phương.
-Bố trí nguồn tài chính cho hoạt động xúc tiến đầu tư trong kinh phí ngân sách chi thường xuyên hàng năm của các Bộ, ngành, địa phương.
-Tăng cường công tác nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách đấù tư ra nước ngoài của cá nước, các tập doàn và công ty lớn để có chính sách thu hút đầu tư phù hợp; nghiên cứu luậl pháp, chính sách, biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách thích hợp.
3.6 Xây dựng một đội ngũ cán bộ có năng lực, công nhân kỹ thuật có trình độ cao trong khu vực FDI
Vấn đề tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công nhân lành nghề luôn là nhiệm vụ hàng đầu của công tác quản lý Nhà nước. Trước hết, trong liên doanh các cán bộ bên Việt Nam là người đại diện cho quyền lợi phía Việt Nam nên họ phải là những người có đủ năng lực chuyên môn, trình độ ngoại ngữ . Có như vậy, họ mới đảm bảo được lợi ích cho doanh nghiệp Việt Nam, cho người lao động Việt Nam khi cần, tránh tình trạng bị ‘lép vế’ trước bên nước ngoài. Tiếp đến, đối với những công nhân làm việc trong doanh nghiệp có vốn FDI, bao gồm cả liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài, nghĩa là bao gồm cả hình thức có lãnh đạo doanh nghiệp FDI là người Việt Nam hay không, thì ngoài trình độ tay nghề cũng phải có một hiểu biết nhất định về luật pháp, chẳng hạn như luật lao động, thì mới biết abỏ vệ những lợi ích hợp lý của mình. Muốn vậy, cần phải;
-Tổ chức bồi dưỡng, năng cao trình độ về luật pháp, chính sách, chuyên môn, ngoại ngữ đối với đội ngũ cán bộ làm hợp tác với nước ngoài.
Thí điểm hình thức thi tuyển hoặc có cơ chế bổ nhiệm hợp lý các chức vụ quan trọng trong liên doanh. Rà soát, sàng lọc để năng cao chất lượng cán bộ, chấm dứt tình trạng hễ có đất góp vốn thì mặc nhiên được cử người của mình tham gia vào Hội Đồng Quản Trị và Ban Giám Đốc.
Phối hợp với Bộ lao động, Thương binh và xã hội và các doanh nghiệp nước ngoài tổ chức tốt việc nâng cao tay nghề cho người lao động.
Kết luận
Những thành tựu thu được trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài trong những năm đổi mới vừa qua đã chứng tỏ sự hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam, sự thông thoáng của luật đầu tư nước ngoài, đồng thời cho thấy rõ việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một chủ trương đúng đắn, kịp thời của Đảng và Nhà nước ta, góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu KT-XH, vào thắng lợi của đường lối đổi mới, vào việc củng cố và tăng cường sức mạnh kinh tế và vị thế của Việt Nam tại khu vực và trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, hoạt động FDI trong những năm qua cũng bộc lộ một số hạn chế. Cơ cấu đầu tư còn bất hợp lý và hiệu quả tổng thể KT-XH của hoạt động đầu tư trực tiếp còn chưa cao; môi trường pháp lý còn đang trong quá trình hoàn thiện; thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà…; do nhiều nguyên nhân, nhịp độ tăng trưởng của hoạt động này liên tục giảm sút, tuy đã có dấu hiệu phục hồi nhưng chưa vững chắc. Vì vậy, việc cải thiện toàn diện môi trường FDI tại Việt Nam là vấn đề tất yếu trong giai đoạn hiện nay và hy vọng rằng các giải pháp nêu ra trong báo cáo này sẽ đóng góp được phần nhỏ bé trong nỗ lực thu hút FDI tại Việt Nam.
Bước vào thế kỷ 21, Việt Nam đang có nhiều cơ hội đồng thời lại phải đối mặt với nhiều thách thức to lớn, đặc biệt là phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt về xuất khẩu, về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các nước trong khu vực. Nhưng sự ổn định về chính trị cùng với chính sách nhất quán và lâu dài ‘Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước’, những lợi thế vốn có về tài nguyên, con người sẽ vẫn là những thế mạnh của môi trường đầu tư Việt Nam. Cùng với những nỗ lực và quyết tâm thu hút FDI của chính phủ, Việt Nam chắc vẫn sẽ là một địa chỉ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong khu vực và trên toàn thế giới
Tài liệu tham khảo
Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin _ Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
Một số vấn đề cơ bản về đổi mới quản lý kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam _ Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
Tạo việc làm cho người lao động qua đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam – Nhà xuất bản Thống Kê
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế tháng 5-9 năm 2000
Tạp chí Kinh tế và dự báo tháng 10-11 năm 2000
Tạp chí Kinh tế châu á - Thái Bình Dương.
7. Chỉ thị của Thủ tướng chính phủ về việc tổ chức thực hiện nghị quyết09/2001/NQ-CP
Bài "tổng quan đầu tư FDI tại Việt Nam", Thương Mại, số 10+11 năm 2002
Bài "Giải pháp gì cho sự giảm sút đầu tư FDI vào Việt Nam" những vấn đề kinh tế ngoại thương số 25/2003"
10 . Vũ Chí Lộc(1997), giáo trình đầu tư nước ngoài , NXB GD
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0208.doc